LUẬN VĂN: Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay
lượt xem 38
download
Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay
- LUẬN VĂN: Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay
- Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Để đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành cải cách bộ máy nhà n ước, cải cách hành chính và cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN), của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thành công, một trong những nhiệm vụ rất quan trọng là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật; mặt khác thông qua công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để đưa pháp luật vào cuộc sống, làm cho tất cả mọi cá nhân, tổ chức và cơ quan nhà nước đều hiểu và thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Thực tế gần 20 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, từ Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), các Bộ luật, Luật đến các văn bản dưới luật, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi nhằm thúc đẩy các quan hệ xã hội phát triển. Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cũng được Đảng và Nhà nước chú trọng. Nhiều nghị quyết của Đảng và các văn bản của Nhà nước đã đề cập đến công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, xác định đúng vị trí của nó trong tăng cường pháp chế XHCN, trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Ngày 7 tháng 01 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 1998-2002 và thành lập Hội đồng phối hợp công tác (HĐPHCT) phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngày 09 tháng 12 năm 2003, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân. Những quyết định có tính chất bước ngoặt nói trên trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã tạo cơ sở chính trị- pháp lý cần thiết cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật trong thời kỳ mới. Trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, các hình thức, phương pháp đưa pháp luật vào cuộc sống ngày càng đa dạng, sáng tạo. Trong tất cả các hình thức đó, báo cáo viên pháp luật có vai trò rất quan trọng, vì họ là những người tiếp xúc và truyền đạt
- trực tiếp cho đối tượng tiếp cận pháp luật. Vì vậy, hiệu quả của hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phụ thuộc vào họ rất nhiều, từ kỹ năng biên soạn tài liệu đến phương pháp truyền đạt, từ cách tiếp thu ý kiến của đối tượng nghe truyền đạt đến kỹ năng giải đáp… Với tầm quan trọng như vậy, từ sau khi có Chỉ thị 02 của Thủ tướng Chính phủ (1998), đội ngũ báo cáo viên pháp luật trên toàn quốc đã được xây dựng, củng cố và kiện toàn. Thời gian qua, hoạt động của các báo cáo viên pháp luật đã mang lại những kết quả tích cực, kịp thời chuyển tải các văn bản pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong việc nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân, nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo vệ trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên trong quá trình công tác, các báo cáo viên pháp luật vẫn còn có những hạn chế nhất định. Tại Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg và Quyết định 03/1998/QĐ-TTg ngày 7/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ đã đánh giá: Trong những năm qua họ là những người có đóng góp lớn cho công tác này song nhìn chung, lực lượng này chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là trình độ, kiến thức pháp luật của báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở, những người trực tiếp gần dân nhất, trực tiếp giới thiệu và phổ biến văn bản pháp luật cho dân thì trình độ còn hạn chế, nhất là kiến thức, hiểu biết về pháp luật [38, tr.8-9]. Đối với tỉnh Quảng Bình, trong những năm qua, công tác giáo dục pháp luật nói chung và giáo dục pháp luật thông qua các báo cáo viên pháp luật nói riêng được cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương quan tâm; nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới, do vậy đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua tại tỉnh Quảng Bình vẫn còn có một bộ phận khá lớn nhân dân hiểu biết pháp luật còn sơ sài, hời hợt, nhiều cán bộ, công chức chưa phân biệt được giữa các loại vi phạm pháp luật như: vi phạm pháp luật hình sự, hành chính, dân sự… Vi phạm pháp luật ở một số nơi còn xảy ra, thậm chí là phổ biến. Trong khi đó một số nơi cán bộ chính quyền lại thờ ơ với công tác này. Là cán bộ đang công tác giảng dạy tại Trường Chính trị tỉnh Quảng Bình, tôi nhận thấy công tác giáo dục pháp luật cho nhân dân tỉnh nhà là vấn đề cần đặc biệt quan tâm, nghiên cứu. Chính vì vậy, tôi chọn đề tài “Hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo
- cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ Luật. Đây là một đề tài rất cần thiết, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đối với tỉnh Quảng Bình trong tình hình hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những vấn đề cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, vấn đề này được nhiều cơ quan, tổ chức và các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu sau: + Công trình đã viết thành sách: Bàn về giáo dục pháp luật của hai tác giả Trần Ngọc Đường và Dương Thanh Mai, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,1995; Xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật do GS. TSKH. Đào Trí úc chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính của TS. Lê Đình Khiên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002. + Các đề tài khoa học cấp nhà nước và cấp bộ nghiên cứu về phổ biến, giáo dục pháp luật như: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phổ biến, giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới, đề tài khoa học cấp bộ, mã số 92-98-223 ĐT của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp; Tìm kiếm mô hình phổ biến, giáo dục pháp luật có hiệu quả trong một số dân tộc ít người, đề tài khoa học cấp bộ của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý thuộc Bộ Tư pháp, 1995; Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường chính trị ở nước ta hiện nay, đề tài khoa học cấp bộ của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000; Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng ch ương trình quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn tới, đề tài khoa học cấp bộ của Bộ Tư pháp, 2004… + Các luận án, luận văn nghiên cứu về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: ý thức pháp luật và giáo dục ở Việt nam, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đình Lộc (bảo vệ ở Liên xô cũ), 1977; Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế XHCN, Luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Trần Ngọc Đường (bảo vệ ở Liên xô cũ), 1988; Nâng cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước ở nước ta hiện nay, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Đình Khiên, 1996; Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam, luận án Phó tiến sĩ Luật học
- của tác giả Dương Thị Thanh Mai, 1996; Giáo dục pháp luật trong các trường đại học trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không chuyên luật) ở nước ta hiện nay, luận án Phó tiến sĩ Luật học của tác giả Đinh Xuân Thảo, 1996 và một số luận văn thạc sĩ luật học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo khác cũng đề cập đến chủ đề phổ biến, giáo dục pháp luật. Ngoài ra, còn có nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, giảng dạy pháp luật hay các cán bộ, công chức làm việc trong các tổ chức, cơ quan nhà nước… được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhìn chung các công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết của tập thể và cá nhân đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật. Song cho đến nay chưa có một công trình, luận án, luận văn, đề tài khoa học nào nghiên cứu về công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật nói chung và ở tỉnh Quảng Bình nói riêng. Tuy nhiên, các công trình, luận văn… đã nghiên cứu, tạo điều kiện cho tác giả tham khảo, kế thừa để tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng thực trạng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình, phân tích những ưu điểm và hạn chế, từ đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích của luận văn Luận văn có mục đích nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác giáo dục pháp luật, đánh giá thực trạng, xác định phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích đã nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây: - Phân tích cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật. - Nghiên cứu vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật đối với công tác giáo dục pháp luật. - Phân tích, đánh giá thực trạng về giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra nguyên nhân và bài học kinh nghiệm của thực trạng trên.
- - Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật của báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Giáo dục pháp luật là trách nhiệm của nhiều tổ chức, cơ quan. Luận văn chỉ nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở Quảng Bình trong thời gian từ năm 1998 đến nay, từ khi có Chỉ thị 02 ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, về giáo dục pháp luật. Phương pháp luận trong nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học… 5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và có hệ thống những vấn đề giáo dục pháp luật của đối tượng cụ thể là Báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình. Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng công tác giáo dục pháp luật, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm về giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua. Luận văn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình hiện nay. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn - Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ tính đặc thù và thực trạng giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình. Từ đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị- xã hội đối với đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong việc giáo dục pháp luật cho nhân dân địa phương.
- - Các giải pháp mà luận văn nêu ra có thể sử dụng để xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật có đầy đủ phẩm chất, năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ giáo dục pháp luật của mình. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật trong các tỉnh khác có điều kiện kinh tế-xã hội-văn hoá tương tự như Quảng Bình. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật. Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình Chương 3: Quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở tỉnh Quảng Bình trong giai đoạn hiện nay.
- Chương 1 Cơ sở lý luận về hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật 1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của báo cáo viên pháp luật 1.1.1. Khái niệm báo cáo viên pháp luật Thuật ngữ “báo cáo viên” trong một thời gian dài được sử dụng ở nước ta với rất nhiều nghĩa khác nhau, qua các giai đoạn và trong từng lĩnh vực cụ thể. Theo Từ điển Tiếng Việt thì báo cáo viên là “Người trình bày báo cáo trước một hội nghị đông người” [84, tr.38]. Theo cách hiểu này thì báo cáo viên là tất cả những người trình bày báo cáo trước một hội nghị đông người. Hội nghị đó có thể do các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế hoặc tổ chức xã hội - nghề nghiệp… tổ chức. Do vậy, báo cáo viên không chỉ có ở trong các tổ chức Đảng, Nhà nước, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ… mà còn có trong các tổ chức tự nguyện quần chúng khác. Chỉ thị số 14- CT/ TW ngày 03 tháng 8 năm 1978 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nêu rõ: “báo cáo viên, tuyên truyền viên là lực lượng tuyên truyền miệng có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, hướng dẫn tư tưởng và hành động cho cán bộ đảng viên và nhân dân theo đường lối, quan điểm của Đảng” [1]. Theo Chỉ thị này thì báo cáo viên là một chức danh để chỉ đội ngũ những người tuyên truyền trực tiếp bằng lời nói tới các đối tượng cụ thể. Đội ngũ báo cáo viên được tổ chức ở tất cả các cấp từ trung ương đến tỉnh, thành phố, huyện, quận, xã, phường, thị trấn và ở tất cả các ngành, các tổ chức đoàn thể, các lực lượng vũ trang. Đội ngũ báo cáo viên đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và sự quản lý của cơ quan tuyên huấn, cơ quan tư tưởng- văn hoá. Thuật ngữ “báo cáo pháp luật” ra đời và tồn tại rất lâu trong đời sống pháp lý của nhà nước ta, song chưa có một khái niệm cụ thể. Tại Quy chế Báo cáo viên pháp luật (ban hành kèm theo Quyết định số 210/1999/QĐ-BTP ngày 09/7/1999 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) quy định: “Báo cáo pháp luật là một công tác tư tưởng, văn hóa của Đảng, được tiến hành bằng lời nói trước những đối tượng xác định, nhằm truyền đạt tinh thần, nội dung pháp luật, giúp người nghe hiểu và nâng cao nhận thức về pháp luật, tôn trọng, làm theo pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất” [6, tr.1]. Như vậy, báo cáo pháp luật được xác
- định là một công tác của Đảng; quy định này là sự cụ thể hoá quy định tại Hiến pháp năm 1992 đối với vị trí của Đảng trong đời sống và xã hội, “Đảng Cộng sản Việt Nam…là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội” [31,tr.12], Đảng lãnh đạo bằng việc ban hành chủ trương, chính sách và Nhà nước cụ thể hoá chủ trương, chính sách đó bằng pháp luật để nhân dân thực hiện. Do vậy, báo cáo pháp luật thực chất cũng là việc phổ biến chủ tr ương chính sách của Đảng vào trong nhân dân, từ đó để nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. “Báo cáo viên pháp luật” là thuật ngữ chỉ những người báo cáo viên làm nhiệm vụ báo cáo pháp luật. Theo quy định tại Quy chế Báo cáo viên pháp luật thì: Báo cáo viên pháp luật là những người được cơ quan nhà nước công nhận để thực hiện nhiệm vụ báo cáo pháp luật. Báo cáo viên pháp luật bao gồm : 1. Báo cáo viên pháp luật của Bộ, ngành ở Trung ương (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật ở Trung ương). 2. Báo cáo viên pháp luật của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật tỉnh, thành phố). 3. Báo cáo viên pháp luật của quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Báo cáo viên pháp luật huyện, quận) [6, tr.1]. Như vậy, Quy chế này cũng chưa đưa ra được khái niệm chung cho báo cáo viên pháp luật. Tuy nhiên, từ những khái niệm trên chúng ta có thể hiểu: Báo cáo viên pháp luật là những người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, để thực hiện nhiệm vụ truyền đạt tinh thần, nội dung của pháp luật cho các đối tượng liên quan, giúp cho các đối tượng này hiểu và nâng cao nhận thức về pháp luật, từ đó để họ tôn trọng và chấp hành pháp luật một cách đúng đắn, thống nhất. 1.1.2. Vị trí, vai trò, của báo cáo viên pháp luật Báo cáo viên pháp luật là những người trực tiếp truyền đạt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, công chức và nhân dân, có thể coi đây là “cầu nối” giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Do vậy, báo cáo viên pháp luật có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Vị trí, vai trò đó thể hiện ở những điểm sau:
- Thứ nhất: Góp phần nâng cao hiểu biết về pháp luật cho cán bộ, công chức và nhân dân. Pháp luật của Nhà nước không phải ở đâu, lúc nào cũng được mọi người trong xã hội biết đến và nghiêm chỉnh chấp hành. Bởi vì, trên thực tế, pháp luật có thể được một số người tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ yêu cầu công tác phải học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ hay từ nhu cầu sản xuất kinh doanh. Những người này luôn theo sát những quy định của pháp luật mới được ban hành để phục vụ trực tiếp cho công tác của mình. Số lượng đối tượng này không nhiều, chủ yếu là cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước, trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội hay các nhà kinh doanh. Hiện nay, do trình độ dân trí chưa cao, đời sống kinh tế của đa số nhân dân còn gặp nhiều khó khăn nên phần lớn nhân dân lao động trong xã hội chưa có điều kiện tiếp cận với pháp luật. Do vậy, thông qua hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, hoạt động của các báo cáo viên pháp luật nói riêng, những thông tin, những yêu cầu, nội dung của pháp luật được chuyển tải đến với người dân, giúp cho họ hiểu biết về pháp luật, nâng cao trình độ dân trí pháp lý, từ đó dần dần tạo nên thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Nếu đội ngũ báo cáo viên pháp luật ở các cấp, các ngành, các đoàn thể biết phát huy hết vai trò, trách nhiệm của mình sẽ góp phần nâng cao hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức và nhân dân, từ đó hạn chế được vi phạm pháp luật xảy ra. Thứ hai: Góp phần hình thành niềm tin vào pháp luật trong nhân dân. Để nâng cao dân trí pháp lý, việc nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân là chưa đủ, mà các báo cáo viên pháp luật còn phải có trách nhiệm thông qua hoạt động của mình tạo lập niềm tin vào pháp luật cho mỗi người dân và cả cộng đồng. Bằng việc tuyên truyền, giải thích, để giúp cho mọi người hiểu biết pháp luật, hiểu biết quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật, hiểu biết về những mặt thuận lợi và khó khăn, phức tạp của việc thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật, những mặt ưu điểm và hạn chế của quá trình điều chỉnh pháp luật. Pháp luật, cũng như các quy phạm xã hội khác, không bao giờ phản ánh đầy đủ nguyện vọng, mong muốn của tất cả mọi người trong xã hội. Bởi quá trình điều chỉnh pháp luật là lấy lợi ích của đông đảo nhân dân để phục vụ, do đó sẽ có một số ít người trong xã hội không thỏa mãn được. Vì vậy, trách nhiệm của các báo cáo viên pháp luật là thông qua
- hoạt động của mình giúp cho mọi người hiểu đúng tinh thần, quan điểm xây dựng luật, từ đó để hình thành lòng tin và có hành xử đúng với quy định của pháp luật. Thứ ba: Góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân. ý thức pháp luật của người dân được hình thành bởi hai yếu tố, đó là tri thức pháp luật và thái độ đối với pháp luật. Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể. Để hiểu biết pháp luật thì các chủ thể phải thường xuyên học tập, tìm hiểu pháp luật cũng như tích luỹ kiến thức từ thực tiễn cuộc sống. Thái độ đối với pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình, ủng hộ với các hành vi thực hiện đúng pháp luật hoặc lên án các hành vi vi phạm pháp luật. ý thức tự giác chấp hành pháp luật của nhân dân chỉ được nâng cao khi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời và có tính thuyết phục. Vì vậy, đối với hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, đối với các báo cáo viên pháp luật nói riêng không đơn thuần là tuyên truyền các văn bản pháp luật mà còn phải giúp nhân dân hình thành ý thức đồng tình ủng hộ những hành vi hợp pháp, lên án và ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật. Thứ tư: Góp phần vào việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý. Tính hợp pháp của văn bản pháp luật thể hiện khi ban hành phải bảo đảm không trái với Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đúng thẩm quyền ban hành cũng như phải đúng hình thức và thủ tục do pháp luật quy định. Tính hợp lý thể hiện văn bản pháp luật phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân cũng như phải bảo đảm tính hệ thống, toàn diện và phù hợp với tình hình, đặc điểm, điều kiện từng địa phương, từng ngành mà văn bản đó điều chỉnh. Trong quá trình phổ biến, giáo dục pháp luật, các báo cáo viên pháp luật không những cung cấp thông tin về pháp luật cho các đối tượng mà còn nghiên cứu, phân tích những quy định của pháp luật. Thông qua việc nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, một mặt góp phần cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có chất lượng tốt, mặt khác để phát hiện ra những điểm không phù hợp trong các văn bản pháp luật, từ đó đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bãi bỏ hoặc ban hành các văn bản mới phù hợp.
- Thứ năm: Báo cáo viên pháp luật là người động viên, cổ vũ nhân dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, tích cực tham gia các hoạt động xã hội, nâng cao chất lượng công tác và hiệu quả sản xuất. Hiệu quả pháp luật được nâng lên nếu như phương pháp truyền đạt của báo cáo viên pháp luật có sức truyền cảm mạnh mẽ, có khả năng thâm nhập vào trong nhân dân, tác động sâu sắc vào tình cảm của nhân dân đối với pháp luật, từ đó để nhân dân thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình, sống và làm việc theo pháp luật. Thứ sáu: Báo cáo viên pháp luật thường là những người đang công tác tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, họ vừa là người phổ biến, giáo dục pháp luật, vừa là người tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, họ có vai trò rất quan trọng trong việc chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, đảm bảo an ninh quốc phòng ở địa phương và cơ quan cũng như thực hiện có hiệu quả việc quản lý nhà nước trên các mặt, lĩnh vực được giao. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, hình thức hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật 1.2.1. Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật 1.2.1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, V.I. Lênin từng nói: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Nhưng cái “khó” mà Lênin nêu ra không phải chỉ là chống thù trong, giặc ngoài để bảo vệ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa, mà còn ở việc tạo ra một nguồn lực to lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, xây dựng ý thức mới của hàng triệu con người để đưa xã hội tiến lên nhờ kỷ luật lao động tự giác của họ. Và chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm nhuần luận điểm đó của Lênin, áp dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam, một nước truyền thống phương Đông mà theo V.I. Lênin, nhiệm vụ đấu tranh chống những tàn tích thời trung cổ có ý nghĩa rất quan trọng. Hồ Chí Minh coi giáo dục, trong đó có giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới. Người chỉ rõ: Chế độ thực dân đã đầu độc nhân dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hoá dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc
- chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính [54, tr.8-9]. Giáo dục pháp luật là một vấn đề cơ bản không những đối với nước ta mà còn đối với các nước khác trên thế giới. Qua các sách báo, tài liệu hội thảo của một số tác giả nước ngoài đã khẳng định “Hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, đào tạo pháp luật như là những nhiệm vụ nâng cao văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật của nhân dân” [83, tr.335]. Về khái niệm giáo dục pháp luật, ở nước ta hiện nay còn có nhiều quan điểm, cách hiểu khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng: giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức. Theo quan điểm này, giáo dục pháp luật không được xem là một hoạt động độc lập trong hệ thống giáo dục nói chung mà nó là một bộ phận cấu thành của công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức; khi tiến hành giáo dục chính trị, tư tưởng và giáo dục đạo đức cho nhân dân thì tự nó sẽ hình thành nên ý thức pháp luật. Điều đó có nghĩa là nếu công tác giáo dục chính trị tư tưởng và giáo dục đạo đức tốt thì sẽ có sự tôn trọng pháp luật của nhân dân. Nói cách khác, sự hình thành ý thức pháp luật của công dân là do quá trình giáo dục chính trị tư tưởng hay giáo dục đạo đức tạo nên. Quan điểm thứ hai cho rằng: Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với phổ biến, tuyên truyền hay giải thích pháp luật. Với quan điểm này thì giáo dục pháp luật chỉ là các đợt tuyên truyền, cổ động khi có văn bản pháp luật mới được ban hành. Đây chỉ là công việc thường xuyên của bộ máy làm nhiệm vụ tuyên truyền, của các phương tiện thông tin đại chúng và các cơ quan chuyên trách. Quan điểm thứ ba cho rằng: Giáo dục pháp luật đồng nghĩa với việc dạy và học pháp luật trong các nhà trường. Với quan điểm nay cho thấy việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở ngoài xã hội là không phải giáo dục pháp luật. Quan điểm thứ tư cho rằng: Không có khái niệm giáo dục pháp luật. Vì pháp luật là các quy tắc xử sự có tính bắt buộc chung, là mệnh lệnh của nhà nước bắt buộc mọi người phải tuân thủ và thực hiện một cách vô điều kiện. Do vậy, không cần đưa ra vấn đề giáo dục pháp luật mà chỉ cần ban hành phổ biến các văn bản pháp luật, không cần phải vận động, giải
- thích, tuyên truyền, mọi người dân có nghĩa vụ phải tự biết, hiểu và tự thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật. Qua nghiên cứu các quan điểm về giáo dục pháp luật như trên cho thấy, mỗi quan điểm đưa ra đều có những cơ sở và luận cứ khoa học để khẳng định quan điểm của mình là đúng đắn. Song, trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì các quan điểm như trên đều mang tính phiến diện, không đầy đủ, thậm chí có quan điểm mang tính cực đoan, trái với chủ trương của Đảng và Nhà nước ta và “các quan niệm ấy hoặc đã vô tình hoặc cố ý hạ thấp vai trò và giá trị xã hội của pháp luật”[27, tr.7]. Chính từ những cách hiểu đó mà công tác giáo dục pháp luật chưa được thực hiện đầy đủ, đúng đắn, dẫn đến hiệu quả công tác giáo dục pháp luật trên thực tế ch ưa cao. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải hiểu một cách đúng đắn về giáo dục pháp luật? Chúng tôi nhất trí với quan điểm của nhiều tác giả cho rằng: Để hiểu đúng bản chất của giáo dục pháp luật, trước hết phải tìm hiểu và nghiên cứu về khái niệm giáo dục. Theo quan điểm của các nhà khoa học sư phạm thì giáo dục được hiểu theo hai nghĩa rộng và hẹp sau đây: Theo nghĩa rộng: Giáo dục là quá trình ảnh hưởng của những điều kiện khách quan (như chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, môi trường sống, truyền thống văn hóa, đạo đức, sự hội nhập quốc tế…) và cả những nhân tố chủ quan (đó là tác động có chủ đích và định hướng của con người) lên đối tượng nhằm hình thành ở họ những phẩm chất, kỹ năng và năng lực nhất định. Theo nghĩa hẹp: Giáo dục là quá trình tác động của nhân tố chủ quan (sự tác động tự giác, có mục đích, có chủ định, có định hướng của con người) lên đối tượng được giáo dục nhằm đạt được các mục tiêu nhất định. Từ điển tiếng Việt nêu khái niệm giáo dục như sau: “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [84, tr.379]. Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì giáo dục không phải là sự tác động của các yếu tố khách quan mà chỉ có các yếu tố chủ quan, nói cách khác “Những ảnh hưởng hay tác động của các yếu tố khách quan không nằm trong nội hàm của khái niệm giáo dục” [27, tr.8].
- Giáo dục pháp luật là một hình thức của giáo dục nói chung. Song, giáo dục pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp là vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Chúng tôi nhất trí với quan điểm của đa số các nhà khoa học, đó là hiểu giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp của giáo dục, “Cần vận dụng khái niệm giáo dục theo nghĩa hẹp để hình thành khái niệm giáo dục pháp luật” [27, tr.8]. Việc xây dựng khái niệm giáo dục pháp luật xuất phát từ nghĩa hẹp vì những lý do sau đây. Thứ nhất: Sự hình thành và phát triển ý thức của con người là sản phẩm của quá trình ảnh hưởng, tác động của cả nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nói đến vấn đề này Các Mác đã viết: “Con người vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm của hoàn cảnh và giáo dục đã thay đổi” [53, tr. 20]. Các điều kiện khách quan như: chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức, cũng như quá trình hình thành và phát triển nhân cách của con người. Do vậy, nếu các điều kiện khách quan có sự thay đổi thì sẽ kéo theo sự thay đổi ý thức của con người. Tuy nhiên, sự tác động của nhân tố chủ quan (đó là hoạt động có chủ định, có định hướng, có tổ chức, có mục đích của con người) có ảnh hưởng rất lớn, nếu xét trong điều kiện hoàn cảnh cụ thể thì nó có tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển ý thức của con người. Thông qua sự tác động của nhân tố chủ quan, con người sẽ được cung cấp những tri thức khoa học, tri thức về cuộc sống, từ đó họ sẽ dần dần hình thành lòng tin, tình cảm và dẫn đến việc điều chỉnh các hành vi của mình phù hợp với yêu cầu đặt ra của xã hội. Do vậy, quá trình giáo dục cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có định hướng cụ thể. Mặt khác, cần giảm tối thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của yếu tố khách quan lên đối tượng giáo dục. Như vậy, sự hình thành và phát triển ý thức của con người là sản phẩm của một quá trình đan xen, phức tạp, trong đó điều kiện khách quan là nhân tố ảnh hưởng có thể tự phát theo chiều này hay chiều khác, còn nhân tố chủ quan là nhân tố tích cực mang tính chủ động. Do vậy, nếu nhân tố khách quan ảnh h ưởng cùng chiều với nhân tố chủ quan thì hiệu quả giáo dục sẽ được đảm bảo, đưa lại kết quả tốt, hiệu quả cao, nếu các nhân tố đó tác động ngược lại thì chất lượng giáo dục sẽ không tránh khỏi những hạn chế. Điều này đòi hỏi chủ thể giáo dục cần có sự tác động tích cực lên các ảnh hưởng khách quan bất lợi, đồng thời cần điều chỉnh ngay hoạt động giáo dục cả về nội dung, hình thức cũng như phương pháp giáo dục sao cho phù hợp.
- Ngày nay, đất nước ta đang tiến hành công cuộc đổi mới một cách sâu sắc và toàn diện. Nền kinh tế thị trường đã và đang đem lại những biến đổi tích cực trong đời sống xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, phát huy tính tự lập, năng động sáng tạo và ý chí vươn lên của từng cá nhân, đời sống của nhân dân được nâng lên đáng kể. Bên cạnh đó, những mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường cũng hàng ngày, hàng giờ len lỏi, tác động đến nhận thức, tình cảm, lối sống, hành vi của từng con người. Nếu như trước đây việc tôn trọng danh dự, lương tâm, trách nhiệm của tuyệt đại đa số người Việt Nam được coi trọng thì hiện nay quan điểm đó ở một số người bị lệch lạc, dẫn tới sự hình thành ở họ thước đo giá trị lệch chuẩn. Từ đó, lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, cơ hội lan tỏa trong xã hội, con người dễ rơi vào tệ nạn, tiêu cực, tham nhũng,… Nếu không có sự tác động định hướng thì những điều kiện khách quan sẽ tác động mạnh mẽ đến ý thức của con người theo cả chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Ngược lại, nếu con người được giáo dục, tức là tác động có chủ định, có định hướng, có tổ chức và mục đích rõ ràng thì họ sẽ vượt qua được những yếu tố tiêu cực, từ đó hình thành niềm tin và hành vi đúng đắn, phù hợp với yêu cầu xã hội. Thứ hai: Quan niệm giáo dục xuất phát từ nghĩa hẹp của giáo dục có ý nghĩa quan trọng trong việc phân biệt phạm trù giáo dục pháp luật với phạm trù hình thái ý thức pháp luật. Hai phạm trù này tuy có mối quan hệ mật thiết với nhau song nó không đồng nhất với nhau. Nếu như hoạt động giáo dục pháp luật là sự tác động của nhân tố chủ quan, đó là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch về nội dung, chương trình đến đối tượng tác động thì sự hình thành ý thức pháp luật là kết quả của sự ảnh hưởng của điều kiện khách quan và sự tác động của nhân tố chủ quan, trong đó nhân tố chủ quan có vai trò quyết định đến sự hình thành ý thức pháp luật. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Yếu tố khách quan tác động đến con người dễ gây ra những hiện tượng tham ô, hối lộ, lối sống không trong sạch lành mạnh… . Do vậy, đòi hỏi chúng ta cần quan tâm nhiều hơn yếu tố chủ quan nhằm tác động có định hướng trong quá trình hình thành nên ý thức pháp luật của công dân. Giáo dục có rất nhiều hình thức như giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ…, trong các hình thức đó thì giáo dục pháp
- luật có một vị trí quan trọng đặc biệt. Bởi giáo dục pháp luật làm cho nhân dân nhận thức đầy đủ hơn về pháp luật, từ đó có hành vi xử sự phù hợp với quy định của pháp luật. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục là mối quan hệ giữa “cái riêng” với “ cái chung”. Giáo dục pháp luật, với tư cách là một hình thức của giáo dục, vừa mang những đặc điểm chung của giáo dục vừa mang những đặc điểm riêng. Giáo dục pháp luật có những đặc điểm riêng sau đây: Thứ nhất: Mục đích của nó là hình thành tri thức, hình thành tình cảm, lòng tin đối với pháp luật và xây dựng thói quen thực hiện hành vi hợp pháp. Thứ hai: Giáo dục pháp luật có nội dung riêng, đó là sự tác động có mục đích với nội dung cơ bản là chuyển tải những tri thức của nhân loại nói chung, của nhà nước nói riêng về hai hiện tượng nhà nước và pháp luật đến với đối tượng được giáo dục. Thứ ba: Nếu xét trên các yếu tố chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp của giáo dục pháp luật so với các hình thức giáo dục khác cũng có những nét riêng. Chẳng hạn như giáo dục pháp luật phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, còn một số dạng giáo dục khác chỉ là sự tác động một lần của chủ thể lên đối tượng giáo dục. Trong giáo dục pháp luật thì hành vi hợp pháp của con người đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tác động của chủ thể giáo dục lên đối tượng được giáo dục. Do vậy, trong giáo dục pháp luật một vấn đề đặt ra là chủ thể giáo dục phải là người hiểu biết về trình độ học vấn, đặc điểm nhân thân cũng như tâm lý của người được giáo dục. Đồng thời, chủ thể giáo dục phải là người nắm vững tri thức pháp luật, phải là tấm gương, hình mẫu trong việc chấp hành pháp luật. Bởi vì trong giáo dục pháp luật, phong cách, lối sống, cách xử sự của chủ thể giáo dục có ảnh hưởng rất lớn đối với đối tượng được giáo dục. Từ sự phân tích trên có thể hiểu khái niệm giáo dục pháp luật như sau: Giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng được giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, thái độ chấp hành pháp luật, thói quen tuân thủ pháp luật phù hợp với những yêu cầu của Nhà nước và xã hội. 1.2.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật Trong giáo dục nói chung, giáo dục pháp luật nói riêng, vấn đề quan trọng và cơ bản nhất đó là xác định được mục đích là gì? Mục đích theo cách hiểu chung nhất đó là:
- “Cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được”[84, tr.627]. Đối với giáo dục pháp luật cũng vậy, việc xác định đích cần đạt được là gì sẽ quyết định việc xây dựng nội dung, hình thức, hương pháp… giáo dục pháp luật. Bên cạnh đó, mục đích giáo dục pháp luật còn để phân biệt giáo dục pháp luật với các dạng giáo dục khác. Theo quan điểm chung của các nhà khoa học pháp lý hiện nay thì mục đích của giáo dục pháp luật là những gì mà chủ thể giáo dục pháp luật đặt ra khi thực hiện giáo dục pháp luật và mục đích của giáo dục pháp luật là một trong những yếu tố tạo nên cấu trúc bên trong của giáo dục pháp luật. Mục đích của giáo dục pháp luật đã được xác định trong khái niệm giáo dục pháp luật, đó là nhằm trang bị, cung cấp, bồi dưỡng và nâng cao tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi hợp pháp, hình thành ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các quy định của pháp luật và đòi hỏi của nền pháp chế hiện hành. Trong điều kiện đổi mới hiện nay ở nước ta, mục đích của giáo dục pháp luật được thể hiện ở những khía cạnh sau: Thứ nhất: Mục đích nhận thức là nhằm cung cấp và từng bước mở rộng tri thức pháp luật cho công dân. Đây là mục đích hàng đầu của giáo dục pháp luật bởi vì sự hiểu biết pháp luật, sự nhận thức đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật là điều kiện cần thiết để hình thành tình cảm và lòng tin vào pháp luật ở mỗi công dân. Bên cạnh đó, tri thức pháp luật còn giúp cho mỗi người kiểm soát được hành vi của mình đúng theo quy định của pháp luật. Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, vấn đề nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho nhân dân là một việc làm rất cần thiết. Vì muốn xây dựng thành công nhà nước pháp quyền, bên cạnh việc ban hành pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho công dân là điều vô cùng quan trọng. Khi ý thức pháp luật được nâng lên thì họ mới có những hành vi xử sự theo quy định của pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, người dân còn chịu ảnh hưởng của những tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ, hiểu biết về quyền và nghĩa vụ của mình chưa đầy đủ, hành vi xử sự thường theo cảm tính, tình cảm… .Bên cạnh đó, công tác phổ biến, giáo dục
- pháp luật chưa được coi trọng đúng mức dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông lỏng, hiệu lực pháp luật chưa cao, vi phạm pháp luật xảy ra nhiều (điển hình vi phạm về pháp luật giao thông trong thời gian qua trung bình mỗi ngày gần 30 người chết và hàng chục người bị thương, cũng như tình trạng sử dụng ma tuý xảy ra ở nhiều nhà hàng, quán bar, vũ trường … ), dẫn đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước phần nào bị giảm sút. Do vậy, để bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tốt, nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, từ Đại hội VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên coi trọng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật “Coi trọng công tác giáo dục, tuyên truyền, giải thích pháp luật… Cán bộ quản lý các cấp từ Trung ương đến đơn vị cơ sở phải có kiến thức về quản lý hành chính và hiểu biết về pháp luật. Cần sử dụng nhiều hình thức và biện pháp để giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật và làm tư vấn pháp luật cho nhân dân” [17, tr.121]. “ phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”[ 23, tr.135] Thứ hai: Mục đích cảm xúc (tình cảm pháp luật, lòng tin đối với pháp luật). Đây là mục đích nhằm hình thành thái độ và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. Cùng với mục đích thứ nhất, đây cũng là mục đích rất quan trọng trong giáo dục pháp luật. Bởi vì, một người mặc dù có tri thức pháp luật song không có lòng tin và tình cảm cũng như sự tôn trọng đối với pháp luật thì sẽ có những hành vi không phù hợp với những chuẩn mực của pháp luật. Thực tế ở nước ta trong thời gian qua đã minh chứng cho điều này. Nhiều cán bộ, công chức có thẩm quyền, có trình độ cao, thậm chí có cả học vị tiến sĩ Luật, song do thiếu sự tôn trọng cũng như thái độ xử sự không phù hợp với pháp luật hiện hành, nên họ đã có những hành vi không phù hợp với chuẩn mực pháp luật - những hành vi vi phạm pháp luật. Điển hình như vụ án Vũ Xuân Trường, vụ án Năm Cam, vụ án Lương Quốc Dũng và nhiều vụ án khác. Mục đích cảm xúc cần đạt được đó là: - Giáo dục tình cảm công bằng cho đối tượng giáo dục. Qua giáo dục pháp luật, giúp cho đối tượng được giáo dục biết xác định các tiêu chuẩn đánh giá tính công bằng của pháp luật, biết đối xử với người khác và điều chỉnh
- hành vi của chính mình theo các tiêu chuẩn công bằng được quy định trong các quy phạm pháp luật. - Giáo dục tình cảm, trách nhiệm, ý thức tuân thủ pháp luật cho đối tượng, từ đó để phê phán, lên án những hành vi coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật. Đồng thời ủng hộ và tích cực tham gia chấp hành pháp luật. Nếu có được tình cảm pháp luật con người sẽ có lòng tin vững chắc vào pháp luật, từ đó dẫn đến những hành vi hợp pháp. Thứ ba: Mục đích hành vi. Mục đích này nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật. Mục đích này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình giáo dục pháp luật bởi vì kết quả của giáo dục pháp luật cuối cùng phải được thể hiện ở hành vi xử sự theo pháp luật của con người. Các mục đích như mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc là để phục vụ cho mục đích hành vi, tạo ra thói quen xử sự theo pháp luật. Tóm lại, giáo dục pháp luật có ba mục đích: Mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc và mục đích hành vi. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, giữa chúng có sự đan xen, tác động qua lại trong mối liên hệ hữu cơ thống nhất với nhau. Do đó, khi tiến hành giáo dục pháp luật các chủ thể cần chú ý cả ba mục đích trên. Từ tri thức pháp luật đến niềm tin đối với pháp luật; từ niềm tin đến tính tự giác; từ tính tự giác đến tính tích cực và từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói quen xử sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật được củng cố. Do vậy, khi giáo dục pháp luật phải hướng hoạt động vào cả ba mục đích vừa nêu trên. Căn cứ vào đặc điểm của từng đối tượng cụ thể để có hình thức, nội dung và phương pháp giáo dục phù hợp nhằm đạt được mục đích đề ra. 1.2.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật 1.2.2.1. Khái niệm hoạt động giáo dục pháp luật của đội ngũ báo cáo viên pháp luật Hoạt động giáo dục pháp luật được tiến hành bởi nhiều chủ thể như các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, các cán bộ, công chức nhà nước, các chủ doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp… Trong các chủ thể đó thì báo cáo viên pháp luật là một
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn:Hoạt đông giao nhận hàng hóa nhập khẩu bằng container đường biển tại công ty TNHH thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu Long Phụng Phát
0 p | 361 | 132
-
Tiểu luận Một số biện pháp chỉ đạo hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp - Trường THCS Hải Long
17 p | 582 | 114
-
Luận văn: HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY QUẢNG CÁO THƯƠNG MẠI THỜI GIAN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
20 p | 397 | 83
-
LUẬN VĂN:HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN ĐỐI VỚI HÀNG GIA
97 p | 169 | 39
-
LUẬN VĂN: Hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam
75 p | 152 | 33
-
Luận văn tốt nghiệp Khai thác vận tải: Đánh giá hoạt động giao nhận hàng hóa nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển tại Công ty cổ phần Giao nhận và vận chuyển in Do Trần năm 2019
108 p | 53 | 23
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh ở trường THPT Trực Ninh B tỉnh Nam Định
35 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Quản lí hoạt động giáo dục thể chất ở các trường mầm non công lập huyện Nhà Bè Thành phố Hồ Chí Minh
162 p | 18 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Nhân văn: Hoạt động giao thương Việt Nam - Trung Quốc qua cửa khẩu quốc tế Lào Cai (1991 - 2011)
120 p | 36 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục thể chất cho học sinh tại các trường tiểu học công lập quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng
189 p | 5 | 3
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh: Phân tích thực trạng hoạt động giao nhận hàng hóa xuất khẩu bằng đường biển tại Công ty Cổ phần Giao nhận Dòng Nước
83 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học cơ sở huyện Đăk Glei tỉnh Kon Tum
123 p | 4 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Hoạt động giáo dục truyền thống yêu nước, cách mạng tại khu di tích Kim Liên
104 p | 9 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ 5 - 6 tuổi tại các trường mầm non công lập quận Thanh Khê thành phố Đà Nẵng
148 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục giới tính cho học sinh trung học cơ sở ở các trường phổ thông tư thục trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương
144 p | 5 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý hoạt động giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh tại các trường tiểu học quận Liên Chiểu thành phố Đà Nẵng
130 p | 3 | 1
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Hoàn thiện hoạt động giao nhận vận tải đường biển tại Công ty cổ phần giao nhận vận tải Ngoại thương (VNT Logistics)
107 p | 9 | 1
-
Khóa luận tốt nghiệp ngành Kinh tế đối ngoại: Giải pháp phát triển hoạt động giao nhận hàng hóa nhập khẩu chuyển phát nhanh bằng đường hàng không tại công ty TNT-Vietrans Express Worldwide giai đoạn 2016-2020
189 p | 11 | 0
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn