intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:60

376
lượt xem
137
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

20 năm sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực văn hoá đời sống kinh tế xã hội. Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng bền vững tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán…phát triển, tạo thêm nhiều việc làm góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng hoá tiêu dùng trở nên phong phú, đa...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh

  1. LUẬN VĂN: Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh
  2. LỜI MỞ ĐẦU 20 năm sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta đã có những chuyển biến sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực văn hoá đời sống kinh tế xã hội. Chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng bền vững tạo tiền đề cho các hoạt động đầu tư, xây dựng, kinh doanh, buôn bán…phát triển, tạo thêm nhiều việc làm góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng hoá tiêu dùng trở nên phong phú, đa dạng với nhiều chủng loại, mẫu mã khác nhau phù hợp với nhu cầu người mua. Tuy nhiên với mức thu nhập hiện nay, phần lớn người tiêu dùng không thể chi trả cho tất cả các nhu cầu mua sắm cùng lúc, đặc biệt là các vật dụng đắt tiền. Nắm bắt được thực tế đó, các Ngân hàng đã thực hiện cung cấp các dịch vụ cho vay tiêu dùng dưới nhiều hình thức nhằm tạo điều kiện cho khách hàng có thể thoả mản nhu cầu của mình trước khi có khả năng thanh toán. Và chỉ trong một thời gian ngắn khi các sản phẩm này ra đời, số lượng khách hàng tìm tới Ngân hàng không ngừng tăng lên đã tạo nguồn thu nhập không nhỏ cho hệ thống Ngân hàng. Mặc dù vậy, so với các hoạt động tín dụng khác thì cho vay tiêu dùng vẫn chiếm một tỷ trọng vô cùng nhỏ bé cả về doanh số cho vay lẫn dư nợ cho vay và chưa thực sự phát huy được vai trò vốn có của nó. Với tư cách là trung gian quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế, các Ngân hàng phải làm gì để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động cho vay tiêu dùng, trở thành kênh kết nối hiệu quả giữa nguồn vốn huy động được với nhu cầu bị giới hạn bởi khả năng thanh toán từ đó tạo ra lợi nhuận cho mình và cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động cho vay tiêu dùng trong đời sống xã hội nói chung và đối với toàn hệ thống Ngân hàng nói riêng, sau một thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh (HDBank) chi nhánh Hà Nội, kết hợp với những kiến thức trong quá trình học tập, em đã chọn: “Hoạt động tín dụng cho vay tiêu dùng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh ” làm đề tài nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo gồm có 3 chương: Chương I: Lý luận tổng quan về hoạt động cho vay tiêu dùng.
  3. Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh. Chương III: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Phát triển Nhà TP Hồ Chí Minh.
  4. CHƯƠNG I. LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN 1.1. Lý luận tổng quan về cho vay tiêu dùng 1.1.1. Vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tiêu dùng rất hữu ích nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu , mua sắm, sửa chữa nhà cửa…của các cá nhân, hộ gia đình. Các khoản vay này giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá, dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có cuộc sống với chất lượng cao hơn như mua xe hơi, mua nhà, nghỉ ngơi, du lịch…Qua đó chúng ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất về cho vay tiêu dùng: “Cho vay tiêu dùng là hình thức cấp tín dụng trong đó ngân hàng thoả thuận để khách hàng là cá nhân hay hộ gia đình sử dụng một khoản tiền với mục đích tiêu dùng với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định”. 1.1.2. Đối tượng của hoạt động cho vay tiêu dùng - Phân theo thu nhập + Những người thu nhập thấp: Nhu cầu tín dụng của nhóm người này thường hạn chế do nguồn thu nhập không đủ để thoả mãn nhu cầu đa dạng của họ. Tuy nhiên họ cũng có nhu cầu chi tiêu không khác mấy so với nhóm có thu nhập cao hơn. Do đó nếu có phương pháp phù hợp thì cũng có thể hình thành các khoản vay hợp lý tới nhóm đối tượng này. + Những cá nhân có thu nhập trung bình: Nhu cầu tín dụng có xu hướng tăng trưởng ngày càng mạnh bởi khoản tích luỹ của nhóm này tuy ít song thu nhập trong tương lai của họ ổn định có thể chi trả cho những nhu cầu hiện tại. + Những cá nhân có thu nhập cao: Những người này thường cần tới những khoản vay với tư cách là các khoản phụ trợ linh hoạt, trợ giúp thêm các khoản thanh toán đặc biệt khi tiền của họ đã đầu tư vào các khoản đầu tư dài hạn. Mặc dù việc vay mượn nhằm mục đích tiêu dùng của họ chỉ thể hiện một tỷ trọng nhỏ trong tổng số tài sản mà họ sở hữu nhưng lại là một món tiền lớn so với các nhóm khách hàng khác nên các ngân hàng rất quan tâm tới nhóm khách hàng này.
  5. - Phân theo tình trạng công tác hay lao động: Nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân còn phụ thuộc rất nhiều tính chất công việc, nghề nghiệp. Xét theo khía cạnh này chúng ta có những nhóm khách hàng: + Cán bộ công nhân viên chức. + Những người làm công việc kinh doanh riêng. + Những người hành nghề chuyên nghiệp ( Bác sĩ, ca sĩ, tư vấn…..). + Những người lao động tự do. Trên thực tế, những khách hàng thuộc ba nhóm khách hàng đầu tiên có thu nhập cao và ổn định hơn so với nhóm khách hàng cuối nên nhu cầu vay tiêu dùng cũng chủ yếu phát sinh từ 3 nhóm trên. 1.1.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng - Quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn Các khách hàng tìm đến ngân hàng với mục đích vay tiêu dùng thường có nhu cầu vốn không lớn lám. Đó là vì khi xác định mua sắm bất cứ vật dụng gì người tiêu dùng phải có một khoản tích luỹ từ trước( vì không khi nào ngân hàng cho vay 100% nhu cầu vốn). Tuy nhiên số lượng các khoản vay tiêu dùng là lớn do đối tượng của vay tiêu dùng là mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. - Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất “ cứng nhắc” Không như các khoản vay kinh doanh hiện nay có lãi suất có thể thay đổi theo điều kiện thị trường, các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cố định, đặc biệt là các khoản vay tiêu dùng trả góp. - Các khoản vay tiêu dùng thường có độ rủi ro cao Vì đối tượng của các hoạt động cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình nên bên cạnh các yếu tố khách quan từ bên ngoài như thiên tai, mất mùa, thất nghiệp, chu kỳ kinh tế, còn có các yếu tố chủ quan từ chính người tiêu dùng. Đó chính là tâm lý tiêu dùng , người tiêu dùng muốn vay tiêu dùng nhưng không muốn trả. Trong những trường hợp như vậy, cho dù có nắm giữ tài sản đảm bảo ngân hàng vẫn đối mặt với rủi ro giảm thu nhập. Mặt khác do các khoản vay tiêu dùng thường có lãi suất cứng nhắc nên khi lãi suất huy động tăng lên ngân hàng đối mặt với rủi ro lãi suất. - Cho vay tiêu dùng có chi phí khá lớn
  6. Đặc điểm các khoản vay tiêu dùng thường có quy mô khoản vay nhỏ, thời gian vay thường không dài nên việc thẩm định tài chính khách hàng tốn nhiều thời gian và chi phí. Bên cạnh đó ngân hàng còn phải chịu một số chi phí như chi phí quản lý khoản vay, theo dõi tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng… Cho vay tiêu dùng là một trong những khoản tín dụng có khả năng sinh lời cao - nhất do ngân hàng thực hiện Chính vì triển vọng về lợi nhận của hoạt động cho vay tiêu dùng mang lại, mặc dù phải đối mặt với khá nhiều thách thức nhưng các ngân hàng trên thế giới hiện nay đều hướng sự quan tâm của mình vào hoạt động tín dụng này. Coi nó như một hoạt động chủ đạo trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng. 1.1.4. Phân loại cho vay tiêu dùng Thông qua cách phân loại này, chúng ta có thể có được cái nhìn khá toàn diện về hoạt động cho vay tiêu dùng từ nhiều khía cạnh khác nhau: - Căn cứ vào mục đích vay, chúng ta có: + Cho vay tiêu dùng cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà cho khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình. + Cho vay tiêu dùng phi cư trú: Là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho việc trang trải các chi phí như chi phí mua sắm xe cộ, đồ dùng gia đình, chi phí cho học hành, giải trí, du lịch… - Căn cứ vào phương thức hoàn trả + Cho vay tiêu dùng trả góp: Đây là hình thức cho vay trong đó người đi vay trả nợ (gồm cả gốc và lãi) cho ngân hàng nhiều lần, theo những kỳ hạn nhất định trong thời hạn cho vay, phương thức này thường áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc thu nhập từng kỳ của người đi vay không đủ để thanh toán hết một lần số nợ vay. + Cho vay tiêu dùng phi trả góp: Đây là hình thức cho vay mà tiền vay được khách hàng thanh toán chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản vay tiêu dùng phi trả góp được cấp cho các nhu cầu vay nhỏ và thời hạn không dài. + Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: Là khoản vay trong đó ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc ngân hàng phát hành loại séc cho phép thấu chi dựa trên số tiền trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, trong thời hạn tín dụng được thoả
  7. thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ, khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một cách tuần hoàn, theo một hạn mức tín dụng. - Căn cứ vào nguồn gốc của khoản nợ: + Cho vay tiêu dùng gián tiếp: Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá hay dịch vụ cho người tiêu dùng. Sơ đồ 1: Mô hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng gián tiếp (1) Ngân Công ty (4) hàng bán lẻ (5) (3) (6) (2) Người tiêu dùng (Nguồn: Thời báo ngân hàng số 15 tháng 4/2006) Trong đó: (1): Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng ngân hàng thường đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và các loại tài sản bán chịu. (2): Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký kết hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường, người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản.
  8. (3): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (4): Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng. (5): Ngân hàng thanh toán tiền cho công ty bán lẻ. (6): Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp có ưu điểm: • Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng. • Cho phép ngân hàng tiết kiệm được chi phí trong cho vay. • Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng và các hoạt động khác. • Trong trường hợp có quan hệ với những công ty bán lẻ tốt, cho vay tiêu dùng gián tiếp an toàn hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Bên cạnh những ưu điểm trên, cho vay tiêu dùng gián tiếp có một số nhược điểm sau: • Ngân hàng không tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng đã được bán chịu. • Thiếu sự kiểm soát của ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá. • Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính phức tạp cao. + Cho vay tiêu dùng trực tiếp: Là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ những người này. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện theo sơ đồ sau : Sơ đồ 2: Mô hình các bước tiến hành cho vay tiêu dùng trực tiếp (3) Công ty Ngân hàng bán lẻ (2) (5) (4) (1) Người tiêu dùng (Nguồn: Thời báo ngân hàng số 15 tháng 4/2006)
  9. Trong đó: (1): Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay. (2): Người tiêu dùng trả trước một phần số tiền mua tài sản cho công ty bán lẻ. (3): Ngân hàng thanh toán số tiền mua tài sản còn thiếu cho công ty bán lẻ. (4): Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. (5): Người tiêu dùng thanh toán tiền vay cho ngân hàng. So với cho vay tiêu dùng gián tiếp, cho vay tiêu dùng trực tiếp có những ưu điểm sau: • Trong cho vay tiêu dùng trực tiếp ngân hàng có thể tận dụng được sở trường của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tín dụng cho nên các quyết định tín dụng trực tiếp của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, trong hoạt động của mình, nhân viên tín dụng ngân hàng có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản vay có chất lượng tốt trong khi nhân viên của những công ty bán lẻ th ường chú trọng đến việc bán được hàng. Bên cạnh đó, tại các điểm bán hàng, các quyết định tín dụng thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh, công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với những khách hàng tốt. • Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn so với cho vay tiêu dùng gián tiếp. • Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng có thể làm thoả mãn nhu cầu của họ hơn. 1.1.5. Sự khác nhau của cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh của ngân hàng thương mại Mặc dù cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh đều là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng song giũa chúng có những điểm khác biệt lớn: Bảng 1: Phân biệt cho vay tiêu dùng và cho vay kinh doanh Cho vay tiêu dùng Cho vay kinh doanh Đối tượng Các cá nhân và hộ gia đình Gồm các cá nhân, hộ gia đình và các hãng kinh doanh
  10. Mục đích sử dụng Nhằm mục đích phục vụ đời Nhằm tài trợ cho việc xây vốn vay sống như mua sắm hàng hóa, dụng nhà xưởng, mua sắm dịch vụ, xây dụng và tu sửa nhà trang thiết bị máy móc, cửa… nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh Đặc điểm - Các khoản cho vay tiêu dùng - Các khoản vay kinh doanh có thường có lãi suất “cứng nhắc” lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường - Các khoản vay tiêu dùng có độ - Các khoản vay kinh doanh có rủi ro cao độ rủi ro thấp hơn - Quy mô mỗi khoản vay tiêu - Quy mô mỗi khoản vay lớn dùng nhỏ nhưng số lượng các hơn nhưng số lượng các khoản khoản vay tiêu dùng lớn vay nhỏ hơn - Các khoản vay tiêu dùng mang - Các khoản vay kinh doanh có lại lợi nhận cao cho ngân hàng độ rủi ro thấp hơn nhưng mang lại thu nhập thấp hơn cho ngân hàng. - Chi phí các khoản vay tiêu - Các khoản vay kinh doanh dùng thường lớn thuongf có chi phí thấp hơn Về quy trình cho vay cả hai hình thức tín dụng trên đều phải trải qua các quy trình sau: - Bước 1: Tìm hiểu sơ bộ về khách hàng - Bước 2: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn - Bước 3: Phân tích tín dụng - Bước 4: Giải quyết tín dụng - Bước 5: Giải ngân - Bước 6: Thu nợ Song nội dung, quy trình, thủ tục của từng bước giữa hai hình thức cho vay có nhiều điểm khác biệt, tùy thuộc vào quy định của từng ngân hàng.
  11. 1.1.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại 1.1.6.1. Các nhân tố vĩ mô. Giống như các thể chế kinh tế khác, các ngân hàng thương mại cũng hoạt động và chịu ảnh hưởng của môi trường xung quanh như môi trường kinh tế xã hội, môi trường quản lý, các môi trường về văn hóa và các chính sách kinh tế của nhà nước. Môi trường kinh tế xã hội mà đặc trưng là trình độ phát triển kinh tế, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người, mức sống của dân cư cùng với chế độ xã hội có ảnh hưởng khá mạnh đến tới mức tiêu dùng của dân cư. Môi trường này mà ổn định là một trong những điều kiện thúc đẩy người dân tiêu dùng, hạn chế tiết kiệm do đó dẫn đến mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước cũng là một nhân tố vĩ mô khác có tác động sâu rộng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại. Môi trường pháp lý có ảnh hưởng đến trật tự, tính ổn định và tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng diễn ra thông suốt, đảm bảo sự phát triển bền vững, hạn chế những rắc rối tổn hại đến lợi ích của các bên tham gia quan hệ vay mượn. Nếu hệ thống pháp luật có quy định đầy đủ cụ thể các vấn đề về cho vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người tiêu dùng tìm đến ngân hàng đồng thời cũng khuyến khích tính tích cực của các ngân hàng tham gia lĩnh vực này. Ngược lại, nếu tất cả các quy định đều mang tính chung chung không rõ ràng sẽ khiến cả ngân hàng và khách hàng gặp nhiêu khó khăn trong việc đi đến một thỏa thuận chung. Môi trường văn hóa như thói quen, tâm lý, trình độ học vấn, bản sắc dân tộc (thể hiện qua những nét tính cách của người dân như thích tằn tiện hay ưa hưởng thụ) hoặc các yếu tố về nơi ở, nơi làm việc…cũng ảnh hưởng lớn đến thói quen chi dùng của người tiêu dùng. Hoạt động cho vay tiêu dùng còn chịu ảnh hưởng của hệ thống các chính sách và chương trình kinh tế của nhà nước, nếu nhà nước tăng đầu tư hoặc đưa ra các biện pháp thông thoáng để khuyến khích đầu tư trong nước và tăng đầu tư nước ngoài như giảm các thủ tục rườm rà, giảm thuế cho các công ty mới thành lập, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Đây rõ ràng là tiền đề thuận lợi để phát triển cho vay tiêu dùng. Mặt khác các chính sách như giảm thuế thu nhập, áp dụng lãi suất ưu đãi đối với cho vay hộ nông dân, hộ nghèo, các hộ dân tộc ở miền núi, các chương trình xóa đói giảm nghèo nhằm thực hiện
  12. công bằng xã hội. Tất cả các biện pháp này sẽ có ảnh hưởng đến cầu tiêu dùng của dân cư trước mắt và lâu dài Tuy nhiên, muốn thực hiện tốt tất cả những chủ trương chính sách và những chương trình hành động trên cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, các nghành, các cơ quan, doanh nghiệp với nhau và giữa các tổ chức đó với các ngân hàng thương mại.
  13. 1.1.6.2. Các nhân tố vi mô. Những nhân tố vi mô ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng nằm trong phạm vi ngân hàng bao gồm các nhân tố khách quan từ phía khách hàng và nhân tố chủ quan từ bản thân ngân hàng. * Những nhân tố khách quan: Trong nhóm các nhân tố khách quan này, trước hết phải kể đến đạo đức khách hàng, được đánh giá dựa trên năng lực pháp lý và độ tín nhiệm. Vì rằng nếu thực sự khách hàng có thu nhập cao, ổn định để trả nợ, thậm chí đưa ra được điều kiện đảm bảo tốt thì chưa chắc họ đã có thiện trí khi trả nợ. Bởi lẽ, khi đi vay, có thể người vay vẫn có ý định trả nợ đầy đủ, nhưng trong sử dụng tiền vay, có thể do tư cách, do lòng tham hoặc muốn làm giàu nhanh chóng họ sử dụng vốn vay sai mục đích vì không phải lúc nào ngân hàng cũng có đầy đủ thông tin về người đi vay. Mặt khác, với những lĩnh vực có rủi ro cao thì khả năng mang lại lợi nhuận cũng cao do đó người đi vay sẽ tìm mọi cách để có được khoản vay đó. Nên trước khi cho vay, các cán bộ tín dụng phải đánh gíá độ tín nhiệm của khách hàng trên cơ sở tính thật thà của người vay, ý muốn kiên quyết của khách hàng trong việc thực hiện tất cả các giao ước trong hoạt động tín dụng, điều này được thể hiện một phần trong hồ sơ của người xin vay. Năng lực pháp lý là những quy định cụ thể về mặt pháp lý mà người vay cần phải có, đây là cơ sở hình thành nghiệp vụ trả nợ của khách hàng trong quan hệ tín dụng, thông qua thẩm định về năng lực pháp lý. Ngân hàng có thể biết được hiện khách hàng có liên quan đến vụ án nào hay không, tài sản đảm bảo có liên quan đến các vụ kiện hoặc các tranh chấp hay có quan hệ với các tổ chức tín dụng khác không. Khả năng tài chính của khách hàng cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng, nếu khách hàng có thu nhập cao và ổn định thì việc trả nợ ngân hàng thường ít ảnh hưởng đến các chi tiêu khác trong gia đình, đặc biệt là các nhu cầu thiết yếu và với những người này họ sẵn sàng thanh toán tiền cho ngân hàng để tránh những rắc rối về mặt pháp lý có thể gây ảnh hưởng đến nghề nghiệp công việc của họ. Ngược lại, với những cá nhân hoặc hộ gia đình có thu nhập không ổn định hoặc thu nhập ở mức trung bình thì việc thu hồi nợ của ngân hàng sẽ gặp rất nhiều khó khăn do họ không biết trước thời điểm sẽ nhận được thu nhập là khi nào, và bao giờ mới tích luỹ đủ để trả nợ ngân
  14. hàng. Ngày nay, phần lớn các món vay tiêu dùng quy định nguồn trả là thu nhập thường xuyên của khách hàng trong tương lai, ngoại trừ các khoản cho vay ngắn hạn. Tài sản đảm bảo là cơ sở pháp lý có thêm nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng ngoài nguồn thu nợ thứ nhất, mang tính dự phòng rủi ro. Mặc dù nắm giữ tài sản đảm bảo song nếu khách hàng không trả nợ thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thu nhập vì muốn phát mại tài sản phải có thời gian và phải mất chi phí khác liên quan, đó là chưa kể đến có thể tại thời điểm đó giá trị tài sản trên thị trường không được duy trì như khi định giá để cho vay. Vì vậy, tài sản đảm bảo không giữ vai trò quyết định trong việc khách hàng vay hay không mà nó chỉ là một tiêu chuẩn để xét duyệt khi cho vay. * Những yêu tố chủ quan: Các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại nằm trong các quy định và các định hướng phát triển của ngân hàng. Nếu ngân hàng không có một định hướng toàn thể về phát triển cho vay tiêu dùng thì cũng có nghĩa là không có một hoạt động nào dành cho sự phát triển của hoạt động này. Nội dung làm việc và chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng ảnh hưởng nhất định đến hoạt động cho vay tiêu dùng, nội quy làm việc quy định nghiêm ngặt sẽ nâng cao trách nhiệm của các cán bộ trong công việc cũng như thái độ của họ đối với khách hàng. Việc thưởng phạt nghiêm minh sẽ khuyến khích các cán bộ ngân hàng học hỏi, phấn đấu để nâng cao khả năng trình độ của mình, những yếu tố trên không những tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng khi đến ngân hàng mà còn thu hút được sự quan tâm của số lượng lớn các khách hàng đối với những sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Nếu như đạo đức người vay được xếp vào vai trò hàng đầu các nhân tố khách quan thì đạo đức cán bộ tín dụng cũng ở vị trí tương đương trong nhóm các nhân tố chủ quan. Nhiều cán bộ tín dụng vì tư lợi cá nhân mà làm tổn hại cho cả ngân hàng và khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, các khách hàng sẵn sàng tìm đến ngân hàng khác nếu họ thấy rằng không đáng tin cậy vào cán bộ trực tiếp quản lý khoản vay của họ, nếu bên cạnh trình độ nghiệp vụ cao và trình độ hiểu biết rộng, các cán bộ ngân hàng phải luôn trau dồi đạo đức, đặt lợi ích khách hàng và ngân hàng lên hàng đầu, sẵn sàng từ chối các khoản vay nếu thấy có vấn đề và càng không vì nhu cầu cấp thiết của người vay mà ép họ tư lợi cho bản thân.
  15. Kỹ thuật và thủ tục thẩm định hiệu quả và không rườm rà, phức tạp là một trong những phương thức quan trọng để thu hút khách hàng. Tuy nhiên sự tồn tại các kỹ thuật và thủ tục này là không chỉ nhằm mục đích đó mà nhằm đưa ra các đánh giá đúng đắn về khách hàng, về các khoản vay, từ đó có các quyết định cho vay đúng đắn. Một hệ thống kỹ thuật thẩm định hợp lý, khoa học, thống nhất là yếu tố quyết định chất lượng thẩm định và do đó quyết định chất lượng khoản vay. Bên cạnh các yếu tố trên, yếu tố vốn cũng giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tín dụng nói riêng. Cũng như các doanh nghiệp kinh doanh khác, muốn tiến hành kinh doanh ngân hàng cũng phải có vốn. Vốn tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng mở rộng phạm vi cho vay và tăng cường cung cấp các sản phẩm dịch vụ… Mặt khác, khi có vốn lớn, các ngân hàng cũng có điều kiện đầu tư vào các cơ sở hạ tầng, máy móc công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín của ngân hàng đồng thời đảm bảo được an toàn, hạn chế được rủi ro trong hoạt động. 1.2. Tổng quan thực trạng cho vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay. 1.2.1. Khái quát nhu cầu vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có nhiều đổi thay: tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên đáng kể, hàng hoá phong phú, đa dạng, vị thế đất nước được cải thiện rõ rệt trong khu vực và trên thế giới. Có được điều đó, bên cạnh sự nỗ lực của tất cả các thành viên trong xã hội còn có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước thể hiện trong việc hoạch định đường lối, chính sách theo hướng thông thoáng hơn, phù hợp với tình hình chung trên thế giới. Năm 2006, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định ở mức gần 8,2%, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, vốn viện trợ phát triển chính thức đạt mức kỷ lục (10,2 tỷ USD), xuất khẩu tăng trưởng cao với tổng kim ngạch đạt 39,6 tỷ USD, thị trường chứng khoán bùng nổ với chỉ số VN – Index đã lên tới trên 1000 điểm. Sự kiện Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) từ tháng 1 – 2007 và Tổng thống Mỹ ký Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR) tạo cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập bình đẳng với nền kinh tế thế giới.
  16. Kinh tế phát triển đã thúc đẩy nhiều hoạt động, một trong số đó là hoạt động tiêu dùng của người dân. Nếu như trước đây, mong ước của họ chỉ là “ăn no mặc ấm” thì đến nay điều họ quan tâm là “ăn ngon mặc đẹp” và làm sao đảm bảo cuộc sống tốt hơn cho bản thân và những người xung quanh. Mặc dù, thu nhập hiện nay trong dân đã tăng nhưng chưa đồng đều, một bộ phận nhỏ là có thu nhập cao còn lại là có thu nhập thấp và trung bình, số thu nhập này thường không đáp ứng đủ nhu cầu chi tiêu và họ phải đi vay. Nắm bắt được thực tế đó, các tổ chức tín dụng đã thực hiện cung cấp các khoản cho vay tiêu dùng dưới nhiều hình thức và quy mô, đáp ứng nhu cầu khác nhau của người dân. Các Ngân hàng thương mại quốc doanh, trước đây, không quan tâm chú trọng nhiều đến lĩnh vực cho vay tiêu dùng nên thường cung cấp những khoản cho vay có quy mô nhỏ nhưng hiện nay đã bắt đầu nhìn ra tiềm năng to lớn của thị trường này và có những chiến lược cạnh tranh hợp lý. Các Ngân hàng thương mại cổ phần và ngân hàng nước ngoài thực hiện cho vay tiêu dùng khá sớm (Ngân hàng thương mại Cổ phần Á Châu, Ngân hàng nhà Hà Nội, Sacombank…) với các sản phẩm như cho vay mua nhà, cho vay tiêu dùng đối với các cán bộ công nhân viên chức, cho vay các tiểu thương … nhưng do quy mô vốn nhỏ nên khả năng cạnh tranh chưa cao. Trong khi các ngân hàng đẩy mạnh hoạt động cho vay tiêu dùng thì các công ty cho thuê tài chính, ngân hàng tiết kiệm bưu điện … lại chưa thực sự quan tâm đến lĩnh vực này. Đây là một thuận lợi cho các ngân hàng hiện nay. Nhưng trong tương lai, khi đội hội đủ điều kiện, các tổ chức tín dụng trên sẽ trở thành những đối thủ cạnh tranh mạnh với các ngân hàng về sản phẩm, dịch vụ cũng như công nghệ hiện đại và quy mô vốn. 1.2.2. Những thuận lợi và khó khăn của hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam hiện nay. * Những thuận lợi - Sự phục hồi và phát triển kinh tế của nước ta trong nhưng năm qua Trong thời gian qua nền kinh tế của Việt Nam có mức tăng trưởng nhanh, mạnh và đứng thứ hai trong khu vực chỉ sau Trung Quốc. Kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định là môi trường thuận lợi thúc đẩy các hoạt động đầu tư, xây dụng, kinh doanh… phát triển. Tốc độ tăng trưởng trong GDP trong nhưng năm vừa qua:
  17. Bảng 2 : Tốc độ tăng trưởng GDP Năm 2001 2002 2003 2004 2005 Tốc độ 6.9 7.1 7.3 7.8 8.4 tăng GDP (%) (Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2006) Và trong nghị quyết của kỳ họp thứ 8 quốc hội khóa XI, GDP năm 2006 sẽ tăng trưởng 8% so với năm 2005, qua đó có thể nhận thấy quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta biến Việt Nam là một môi trường đầu tư thuận lợi thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước thúc đẩy nên kinh tế phát triển hơn nưa, tạo ra nhiều công ăn việc làm. Với sự tăng trưởng manh mẽ trong những năm vừa qua đã cho chúng ta thấy một vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế. Những đấu hiệu đó đã chứng tỏ nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi và sãn sàng bước vào hội nhập quốc tế, tạo điều kiện cho các hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tín dụng nói riêng ngày càng phát triển. - Những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế đất nước vượt qua khó khăn thử thách, tiếp tục quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá và tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất- kinh doanh, hoạt động tài chính- tiền tệ, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trưng, chính sách mới, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của người dân, trong số đó có quyết định tăng số ngày nghỉ lên 2 ngày/tuần và quyết định tăng lương với mức tối thiểu là 450.000 đồng/1lao động/1 tháng đã thúc đẩy hoạt động tiêu dùng của người dân tăng mạnh Hoạt động tiền tệ- tín dụng cũng đạt được những kết quả mới sau khi chuyển từ ấn định lãi suất sang áp dụng lãi suất thỏa thuận, làm cho tăng trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động- điều chưa từng xảy ra trong các năm trước đó. Tâm lý nắm giữ USD giảm hẳn do tỷ giá VND/USD ổn định, tốc độ tăng giá đồng USD năm 2005 là 1.2%, bằng một nửa tốc độ tăng giá hàng tiêu dùng và bằng một nửa so với năm 2003.
  18. Bảng 3: Tổng phương tiện thanh toán, huy động vốn và dư nợ tín dụng so với GDP trong thời kỳ 1989-2004 (Nguồn: Thông cáo của ngân hàng nhà nước Viêt Nam3/2007) * Những khó khăn - Tỷ lệ thất nghiệp tại các đô thị còn khá lớn và diễn biến phức tạp Bảng 4: Tỷ lệ thất nghiệp tại các thành phố lớn 2000 2001 2002 2003 Năm Chỉ tiêu 7.95 7.39 7.08 6.84 Tp Hà Nội 5.95 5.54 5.30 5.16 Tp Đà Nẵng
  19. 6.48 6.04 6.73 6.58 Tp Hồ Chí Minh (Nguồn: Tổng cục thống kê) Từ bảng số liệu trên chúng ta có thể nhận thấy tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta còn khá cao, đặc biệt là tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh. Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao (khoảng 6.01% vào năm 2002). Đặc biệt, cơ cấu lao động của nước ta còn nhiều điểm bất cập, xuất phát từ cơ chế đào tạo chưa hợp lý, bộ phận quản lý thì thừa biên chế trong khi các ngành kỹ thuật vẫn thiếu kỹ sư. Mặc dù, Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động cho hợp lý nhưng công việc tiến hành rất chậm, chẳng những làm ảnh hưởng đến năng suất lao động của cả nước nói chung mà còn làm cho thu nhập của dân cư và sức mua có khả năng thanh toán không được cải thiện nhiều. - Cơ cấu và thu nhập của dân cư còn nhiều điểm chưa hợp lý Dân cư nước ta phân bố không đều và có sự chênh lệch về mức sống, trình độ, tích luỹ và thói quen chi tiêu….Những người có thu nhập trung bình và cao tập trung ở thành thị cũng có nghĩa là số này chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng 25%, còn lại khoảng 75% dân số sống ở nông thôn có thu nhập cũng như mức sống thấp, khả năng tiêu dùng hàng hoá rất hạn chế. Thêm vào đó, mức cầu tiêu dùng của người dân ở khu vực đô thị, tức bộ phận có thu nhập trung bình và cao, đã giảm so với thu nhập của họ từ 77.48% năm 1996 xuống còn khoảng 65,15% hiện nay. Bản chất của hoạt động cho vay nói chung và cho vay tiêu dùng nói riêng là cho phép sử dụng trước thu nhập trong tưng lai. Việc giảm tiêu thụ hàng hoá cũng có nghĩa là nhu cầu vay để sử dụng hàng hoá giảm, điều này sẽ có ảnh hưởng xấu đến hoạt động cho vay tiêu dùng của các ngân hàng. Ngoài các yếu tố trên, các yếu tố về văn hoá- xã hội, cạnh tranh ngân hàng… cũng có ảnh hưởng rất mạnh đối với hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng của các ngân hàng. 1.2.3. Các đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đang ngày càng gay gắt, không chỉ giữa các ngân hàng trong nước với nhau, mà còn giữa các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, giữa các ngân hàng với các tổ chức tài chính. Tuy nhiên trong lĩnh vực cho
  20. vay tiêu dùng, các tổ chức tài chính chưa thực sự là đối thủ cạnh tranh mạnh vì họ chưa quan tâm nhiều đến lĩnh vực này. Còn lại, hầu hết các ngân hàng đều tích cực phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, bởi lẽ, hơn ai hết, họ ý thức được những lợi ích to lớn mà cho vay tiêu dùng mang lại: việc tập trung tương đối vào khu vực dân cư đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng tạo dựng danh tiếng trong khu vực này đồng thời có thể thu hút nguồn vốn ổn định và tưng đối rẻ do đó, thu về một tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Hiện nay, đối thủ cạnh tranh trong hoạt động cho vay tiêu dùng có thể được chia thành 3 nhóm chính: + Nhóm 1: Bao gồm các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là các ngân hàng có ưu điểm nổi trội về vốn, thị trường, bề dày hoạt động và mạng lưới đối tác. Các ngân hàng này có quy mô hợp lý, cơ cấu tối ưu, giá thành huy động vốn rẻ vì vậy họ cạnh tranh mạnh về giá song điểm yếu của họ là chất lượng và tinh thần phục vụ, tác phong làm việc còn mang nặng tính quan liêu. Tuy nhiên, gần đây họ đã bắt đầu đầu tư vào nâng cấp chất lượng dich vụ và cạnh tranh ngày càng mạnh trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng, tạo sức ép ngày càng tăng lên các ngân hàng cổ phần. + Nhóm 2: Gồm các ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng liên doanh vốn. Các ngân hàng này nhằm vào các khách hàng truyền thống là cộng đồng người nước ngoài tại Việt Nam do họ có ưu thế về chất lượng dịch vụ, nổi bật trong số này là HSBC, ANZ…. Bên cạnh đó, trên tiến trình hội nhập WTO vào ngày 1-4-2007 vừa qua, thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ký quyết định cho phép các ngân hàng nước ngoài được phép lập ngân hàng chi nhánh tại Việt Nam. Đây chính là những đối thủ cạnh tranh trước mắt của các ngân hàng thương mại cổ phân nói chung. + Nhóm 3: Các ngân hàng cổ phần. Đây là nhóm không đồng nhất. Các ngân hàng cổ phần thành công nhất là có định hướng khách hàng rõ ràng, tập trung vào một thị phần nhất định. Hiện nay, các ngân hàng ACB và SACOMBANK đang dẫn đầu về hoạt động cho vay mua nhà, cho vay cán bộ công nhân viên và cho vay các tiểu thương. 1.3. Những văn bản pháp luật quy định hoạt động cho vay tiêu dùng Tính đến thời điểm hiện nay, các văn bản pháp luật quy định các vấn đề có liên quan đến hoạt động cho vay tiêu dùng như sau:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1