intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:32

121
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ khi hoà bình được lập lại năm 1945, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:" Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên Chủ nghĩa Xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản Chủ nghĩa". Trước đây, trong một thời gian dài, ở nước ta cũng như các nước Xã hội Chủ nghĩa khác đã có những nhận...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

  1. LUẬN VĂN: Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
  2. Lời mở đầu Từ khi hoà bình được lập lại năm 1945, miền Bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội với đặc điểm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:" Đặc điểm to nhất của nước ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên Chủ nghĩa Xã hội không trải qua giai đoạn phát triển tư bản Chủ nghĩa". Trước đây, trong một thời gian dài, ở nước ta cũng như các nước Xã hội Chủ nghĩa khác đã có những nhận thức không đúng về kinh tế hàng hoá, coi sản xuất hàng hoá là thuộc tính của Chủ nghĩa tư bản, dẫn đến sự kỳ thị với kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường; không chấp nhận nền kinh tế hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội. Công cuộc đổi mới do Đảng đề ra trước hết là đổi mới tư duy kinh tế đã khẳng định rằng quá độ quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là bỏ qua sản xuất hàng hoá, mà trái lại nằm phát triển hàng hoá nhằm tăng trưởng kinh tế, thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Như vậy, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ kinh tế giữa cá nhân, các doanh nghiệp được thể hiện qua việc mua bán sản phẩm, dịch vụ trên thị trường thông qua giá cả thị trường. Vì vậy em đã chọn đề tài"Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam".
  3. A. Lý luận chung về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam Chương I Cơ sở hình thành nền kinh tế thị trường I.Sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường 1.Quá trình chuyển kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đã tồn tại trong lịch sử. Hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên chỉ gồm hai khâu: sản xuất - tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều manh hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích của sản xuất là trao đổi hay để mua bán. Mục đích đó được xác định trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường. 1.2. Những tiền đề của quá trình chuyển kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển đến trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá chính là sự xuất hiện những tiền đề phủ định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế - xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với
  4. sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: - Phân công lao động xã hội - Sự độc lập tương đối về kinh tế giữa nhữmg người sản xuất. - Lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ. - Hệ thống thông tin và giao thông vận tải. Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành, nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội cho nên mỗi người chuyên làm một việc trong một ngành với một nghề nhất định và chuyên sản xuất ra một hoặc một số sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần dùng nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu của mình, những người sản xuất phải lương tựa vào nhau, trao đổi sản phẩm cho nhau. Phân công lao động xã hội làm nảy sinh những quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất với nhau. Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau. Do có phân công lao động xã hội và sự độc lập tương đối về kinh tế giữa những người sản xuất, cho nên quan hệ giữa những người sản xuất là quan hệ mâu thuẫn: họ vừa liên hệ, phụ thuộc vào nhau vừa độc lập với nhau. Giải quyết mối quan hệ mâu thuẫn này tất yếu phải có quan hệ trao đổi dựa trên cơ sở giá trị, nghĩa là dựa trên cơ sở trao đổi ngang giá. Khi trao đổi trở thành tập quán và là một mục đích của sản xuất thì sản xuất hàng hoá ra đời . Phân công lao động xã hội phát triển thì quan hệ trao đổi cũng được mở rộng và ngày càng phức tạp. Phân công lao động xã hội làm xuất hiện thủ công nghiệp và tách nó ra khỏi ngành nông nghiệp, làm hình thành xu hướng công nghiệp thành thị dần dần tách khỏi nông nghiệp nông thôn. Phân công lao động xã hội phát triển cũng dần tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đời, quan hệ trao đổi có sắc thái mới. Người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qua người thứ ba là thương nhân. Việc mở rộng phạm vi xã hội hoá sản xuất đồng thời cũng kéo theo việc chuyên môn hoá ngành nghề. Quan hệ trao đổi được mở rộng và phát triển đòi hỏi hệ thống giao thông vận
  5. tải cũng phải mở rộng và phát triển. Đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi, mở rộng thị trường. Sự phát triển và hoàn thiện của hệ thống giao thông vận tải có vai trò thúc đẩy sản xuất và lưu thông hành hoá phát triển cao hơn. Điều này dẫn đến sự ra đời của các hoạt động dịch vụ, chế biến… làm cho dân cư chịu sự chi phối của những quy luật phổ biến củn xuất và lưu thông hàng hoá. 2. Bước chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. 2.1. Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường chỉ khác nhau về trình độ phát triển. Kinh tế thị trường chính là hình thức phát riển cao của kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù thị trường được phát triển và mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao hàm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường. 2.2. Sự cần thiết khách quan phát triển kinh tế thị trường ở Việt nam. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt nam, sự tồn tại của sản xuất hàng hoá là một tất yếu khách quan. Bởi vì, trong nền kinh tế nước ta lực lượng sản xuất xã hội còn thấp, đang tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong những điều kiện đó, việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau không thể thực hiện theo nguyên tắc naò khác là nguyên tắc trao đổi ngang giá, tức là thực hiện sự trao đổi hàng hoá thông qua thị trường, sản phẩm phải trở thành hàng hoá. ở nước ta trong thời kỳ quá độ mới phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hoá chuyên môn hoá lao động. Qua trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất càng xã hội hoá, chuyên môn hoá thì càng đòi hỏi phát triển sự hợp tác và trao đổi hoạt động trong xã hội, càng phải thông qua sự trao đổi hàng hoá giữa các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các loại hoạt động sản xuất khác. Chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hoá mới làm cho nền kinh tế nước ta phát
  6. triển năng động. Kinh tế tự nhiên, do bản chất của nó, chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống vì động lực phát triển sản xuất. Sử dụng sản xuất hàng hoá là sử dụng quy luật giá trị, quy luật này buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hoá do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở lên sống động. Mỗi người sản xuất đều chịu sức ép buộc phải quan tâm sự tiêu thụ trên thị trường, sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận và cũng từ đó họ mới có được thu nhập. Phát triển sản xuất hàng hoá có thể đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và lao động. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều và đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ kỹ thuật kinh tế. Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hoá là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được nhờ tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trong những năm 1991 - 1995 là 8,3% vượt mức đề ra ( 5,5 - 6% ). 2.3. Những điều kiện hình thnàh kinh tế thị trường. 2.3.1. Sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Trước hết cần khẳng định sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Người lao động được tự do, anh ta có quyền làm chủ khả năng lao động của mình và là chủ thể bình thường trong việc thương lượng với người khác. Chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được bước tiến bộ lịch sử đó trong khuôn khổ lợi dụng tính chất đặc biệt của hàng hoá sức lao động để thuyết phục túi tiền của nhà tư bản. Vì vậy đã làm nảy sinh mâu thuẫn giữa nhà tư bản với lao động làm thuê. Trong điều kiện lịch sử mới - thời kỳ quá độ lên CNXH - không phải mọi người có sức lao động đem bán đều là những người vô sản. Do sự chi phối lợi kinh tế của chi phối cơ hội, những người lao động vẫn có thể bán sức lao động của mình cho người khác
  7. nếu như họ cảm thấy việc làm này có lợi hơn so với việc tổ chức quá trình sản xuất. Kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển. Nó có năng suất lao động cao. Ngoài những sản phẩm cần thiết còn có những sản phẩm thặng dư. Hàng hoá sức lao động là hàng hoá đặc biệt. Nhờ có sự xuất hiện của hàng hoá lao động và thị trường sức lao động mà tiền tệ không chỉ đơn thuần là phương tiện lưu thông mà còn trở thành phương tiện làm tăng giá trị, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế . 2.3.2. Kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng. Để hình thành được nền kinh tế thị trường cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển. Không thể có được kinh tế thị trường nếu như hệ thống tài chính, ngân hàng còn quá yếu ớt, hệ thống quan hệ tín dụng còn quá giản đơn không đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất và kinh doanh. 2.3.3. Sự hình thành kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối phát triển. Trên cơ sở đó mới đảm bảo lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, mới tăng được phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. 2.3.4. Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta. Đây là điều kiện có tính then chốt để hình thành nền kinh tế thị trường. Nhà nước đã tạo ra môi trường và hành lang cho thị trường phát triển lành mạnh. Đồng thời nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính cần thiết để phát huy những ưu thế và hạn chế nhữmg mặt tiêu cực của thị trường. Nhà nước thực hiện chính sách phân phối và điều tiết theo nguyên tắc kết hợp công bằng xã hội với hiệu quả kinh tế xã hội. Nhà nước còn thực hiện sự điều tiết nhằm xử lý hài hoà quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó được tiền tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ. II. Thị trường - cơ chế thị trường. Đặc điểm của sự phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường.
  8. 1. Thị trường. Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vậy thị trường là gì? Theo nghĩa ban đầu - nghĩa nguyên thủy, thị trường gắn liền với một địa điềm nhất định. Nó là nơi diến ra các quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian. Theo nghĩa này, thị trường có thể là hội thợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú, thị trường được mở rộng. Thị trường được hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường. Nói tới thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng và tiền ( H và T ) người mua, người bán. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, mua - bán, cung - cầu và giá cả hàng hoá. Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng. 2. Cơ chế thị trường Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự vận động của nền kinh tế thị trường. Sự hoạt động của quy luật giá trị biểu hiện : Giá cả thị trường lên xuống quanh giá thị trường của hàng hoá, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trường phải dựa trên cơ sở giá cả thị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quan hệ cung - cầu hàng hoá. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung - cầu được biểu hiện: Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ lớn hơn giá trị thị trường. Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung - cầu hàng hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống, nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu về thị trường hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ
  9. kích thích mức cung, làm cho mức cung tăng lên, vậy có thể nhận biết được quan hệ cung - cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa những người mua và người bán cũng như quan hệ giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng. Trên thị trường, người bán luôn muốn bán hàng hoá của mình với giá cao, người mua lại luôn muốn mua hàng với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết quả của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Giá cả thị trường điều hoà được quan hệ giữa người mua với người bán. Quy luật lưu thông tiền tệ xác định khối lượng tiền tệ trong lưu thông nhằm bảo đảm sự hoạt động nhịp nhàng của cơ chế thị trường. Việc thừa nhận hoặc thiếu tiền đều dẫn tới những tác động tiêu cực. Nếu thiếu tiền, hàng hoá không lưu thông được. Nếu thừa tiền sẽ gây nên tình trạng lạm phát, giá cả hàng hoá tăng vọt. Thị trường bất ổn định. Nói tới kinh tế thị trường cần phải nói tới cạnh tranh. Đó là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế nhằm giành phần sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi cho mình để thu lợi nhuận cao. Cạnh tranh là môi trường tồn tại của cơ chế thị trường. Nó đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phải chuẩn bị cho mình khả năng cạnh tranh thắng lợi trên thị trường. Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trường là yêu cầu khác quan đối với mỗi xã hội còn tồn taị nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của nền kinh tế thị trường là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực kinh tế. Trong lịch sử cơ chế thị trường có được không gian rộng lớn ở giai đoạn cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa. Vì vậy tác động của ciư chế thị trường được phát triển khá sớm. Cơ chế thị trường được coi là : bàn tay vô hình" điều tiết sự vận động của nền kinh tế hàng hoá. 3. Đặc điểm của sự phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường. Trước đây, quy luật phân phối theo lao động được nhận thức và vận dụng vào thực tiễn trong điều kiện nền kinh tế hiện vật. Việc chuyển sang nền kinh tế hàng hoá phát triển theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa không phải định tính tất yếu khách quan của quy luật phân phối theo lao động trong các hình thức của các thnàh phần kinh tế Xã hội Chủ nghĩa, vì cơ sở của phương thức phân phối này vẫn là chế độ công hữu về
  10. tư liệu sản xuất. Tuy nhiên, trong cơ chế thị trường, sự phân phối theo lao động có đặc điểm mới, biểu hiện tập trung ở mức thu nhập không thống nhất trong phạm vi chế độ công hữu. Sự biến động của thị trường: thị trường là hình thức đầy biến động khó ai có thể dự báo được một cách chính xác. Mọi sự biến động trên thị trường cuối cùng đều biểu hiện tập trung quan hệ cung - cầu. Sự biến động trong quan hệ cung - cầu là yếu tố khách quan của thị trường tác động trực tiếp tới mức thu nhập của các chủ thể sản xuất kinh doanh và do đó tác động trực tiếp tới mức phân phối theo lao động của từng cơ sở. Trong sự biến động nào có những cơ sở sản xuất kinh doanh đạt mức thu nhập cao và ngược lại. Sự biến động trong phân phối theo lao động và sự khác nhau về mức phân phối thu nhập của các thành viên của các cơ sở khách nhau cũng là điều không thể trách khỏi. Do những tác động của quy luật phân phối theo lao động trong nền kinh tế thị trường cho nên đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước nhằm xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích toàn dân, lợi ích của cơ sở sản xuất kinh doanh và lợi ích của cá nhân người lao động. Không thể chỉ chú trọng lợi ích này mà xem nhẹ lợi ích kia. Nhưng trong bất cứ tình huống nào, sự can thiệp của Nhà nước cũng không được triệt tiêu động lực sản xuất kinh doanh của các chủ thể là lợi ích kinh tế của cơ sở ngày càng nhiều. Do vậy, một mặt, Nhà nước cần khống chế mức lương tối thiểu phù hợp với từng thời điểm lịch sử; mặt khác, cần có sự điều tiết hợp lý, vừa khuyến khích cơ sở sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh tế hơn nữa, vừa ngăn chặn sự chênh lệch quá đáng về mức thu nhập trong nội bộ các cơ sở thuộc chế độ công hữu, giữa tiền công và tiền lương của các đơn vị sản xuất kinh doanh và các đơn vị hành chính sự nghiệp. * **
  11. Chương II Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là xác định nội dung của thể chế thị trường, định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Đây là vấn đề vừa phức tạp vừa cấp bách, bởi lẽ nếu không có thể chưa đúng với các đặc trưng cơ bản nhất làm định hướng sẽ kéo dài tình trạng mò mẫm, không xác định được lộ trình tổng quát và mục tiêu cuối cùng của bước chuyển. Chúng ta đang có nhiều cách phân tích, lý giải, bình luận khác nhau khi nhằm vào sự vận động của nền kinh tế hiện nay. Để có một cái nhìn tương đối thống nhất về đặc điểm cơ chế vận hành của thị trường hiện nay, cũng như luận giải đặc trưng mô hình thị trường hướng tới cần có cách tiếp cận chung. Để phân tích các đặc điểm và đặc trưng của cơ chế thị trường trên cơ sở nhìn lại thực tiễn những năm đổi mới, đồng thời có liên hệ đến bước đi, những quá trình có quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang tìm con đường tương tự. Với cách tiếp cận trên, em xin được nên lên một vài đặc trưng lớn cảu cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta. I. Sự phát triển kinh tế phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội. Chúng ta từng bước thực hiện vì quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền kinh tế tạp trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước với tự do hoá thương mại và tự do hoá giá cả là khâu trung tâm đột phá, từng bước tiến tới một cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế đó phát huy vai trò điều tiết cảu thị trường hình thành bước đầu một thị trường cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông suốt, cung cầu được cân đối, thoát khỏi tình trạng khủng hoảng thiếu, giá cả được ổn định dần, lạm phát được đẩy lùi và tiến tới ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp cũng đã giải phóng khỏi các chỉ tiêu pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này đã thúc đẩy việc phải xử lý những vấn đề sở hữu với thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của chính sách kinh tế nhiều thành phần, chuyển từ thái
  12. đọ kỳ thị phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang chính sách đối xử bình đẳng, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta. Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa không thể chỉ dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với nó phải không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống với tiền lương và thu nhập thực tế tăng trưởng mạnh y tế, giáo dục phát triển, sự phân hoá giàu nghèo không làm phương hại lớn tới phúc lợi xã hội hay làm đảo lộn vị trí xã hội tương đối của đa số dân chúng. Cơ chế thị trường không thể dẫn đến sự xuống cấp, thậm chí tha hoá trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội, các quan hệ về đạo đức truyền thống xã hội. Trên khía cạnh này, thành tựu của mấy năm chuyển đổi chẳng những không nhiều thậm chí còn đánh mất đi một số giá trị dã đạt được trước đây. Nhận thấy được điều đó, Nhà nước đã từng bước can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế nhằm phát triển nó phải gắn liền sản xuất với các vấn đề xã hội. II. Phát triển kinh tế với tốc độ cao, luôn bền vững ổn định gắn liền với sự ổn định chính trị. Chúng ta chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị, lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức nó phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của Nhà nước, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nó cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị, đưa cải cách tiến lên bước phát triển mới. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng Xã hội Chủ nghĩa là không thay đỏi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Khẳng định, chủ nghĩa xã hội có thể sử dụng các công cụ phổ biến là chủ nghĩa tư bản đã từng sử dụng như thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ, quy luật giá trị vào mục tiêu định hướng của mình. Xuất phát từ thực tiễn thị trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển, còn những yếu tố mất ổn định. Từ chỗ nền kinh tế về thực chất đã từ lâu là nền kinh tế nhiều thành, nên đã không chủ chương tư nhân hoá tràn lan, mà trái lại chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh
  13. thành thực làm chỗ dựa của Nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt, để làm ổn định và định hướng thị trường. Mặc dù còn rất nhiều thiếu sót và yếu kém, nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mô và gần đây nhất là nạn tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý Nhà nước các cấp. Nhưng nhìn chung tính ổn định và theo hướng đổi mới tiến đến một Nhà nước pháp quyền là nhân tố quan trọng đảm bảo cho thành công của cuộc cải cách. Đảng ta đã khẳng định vai trò Nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hài hoà giữa tăng trưởng, phát triển và cân bằng ổn định giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và công bằng xã hội. Phân tích sâu vào luận điểm này, ta lại thấy đêr tiếp tục thực hiện phương châm ổn định để phát triển thì bộ máy Nhà nước ta phải đổi mới nhiều hơn nữa. Nhận thức rõ vai trò của mình trong điều kiện đổi mới, đặc biệt cần phải thay đổi chất lượng, tác phong của bộ máy, chuyển từ tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang tác phong hỗ trợ, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho thị trường phát triển, đưa bộ máy thoát khỏi tình trạng "cửa quan" và nạn tham nhũng. Điều đó nói lên tầm quan trọng của Nhà nước trong hoạt động của thị trường nước ta. III. Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thể chế kinh tế của nước ta là thể chế của những chủ thể tự chủ do kinh tế thị trường theo pháp luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt được trình độ xã hội hoá cao. Tín hiệu thị trường ngày càng đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn sản xuất kinh doanh lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả cũng như đối với việc phân phối tài nguyên, tài sản quốc gia dưới sự điều khiển vĩ mô của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh được củng cố, phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế cũng như an ninh quốc phòng, ở các lĩnh vực du lịch xã hội cần thiết mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không sinh lãi hoặc ít lãi. Có thể nói, sự cần thiết của tư nhân hoá trong nền kinh tế hiện đại luôn luôn là một luận điểm được các nhà kinh tế học quan tam, nhấn mạnh nhưng ở hầu hết các nước đang phát triển Nhà nước vẫn đóng vai trò quyết định trong một số khâu then chốt.
  14. Chẳng hạn ở Nam Triều Tiên, các xí nghiệp Nhà nước chiếm 30,5% các ngành giao thông vận tải, viễn thông, 60% ngành điện, cung cấp nước và vệ sinh (tính theo giá trị gia tăng), song chỉ chiếm 15% các ngành công nghiệp. Brazin là một nước mà tỷ trọng sở hữu công cộng rất lớn, chiếm khoảng 3/4 các ngành khai thác, phân bón, sắt thép và viễn thông, 1/2 trong ngành hoá dầu. Đặc biệt, trong ngành tài chính tiền tệ, một ngành mà tầm quan trọng của nó không thể do bằng tỷ lệ so với tổng sản phẩm quốc dân, sở hữu Nhà nước vẫn giữ tỷ trọng lớn. ở Singapo, Malaixia, Thái Lan... phần lớn các ngân hàng thương mại là của tư nhân, nhưng những thành phần chủ chốt nhất thuộc sở hữu công cộng và có những tài sản rất lớn. Còn ở nước ta, hầu hết các ngân hàng kho bạc ở trung ương cũng như địa phương, các cơ sở đều thuộc sở hữu Nhà nước. Điều đó chứng tỏ rằng, ở nước ta không chỉ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước (xí nghiệp quốc doanh) là nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa mà các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành tài chính, tiền tệ vẫn giữ vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Như vậy, thành phần kinh tế Nhà nước ta có một vị trí và vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý. Tuy nhiên, mỗi cơ chế kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường với những điều kiện kinh tế xã hội cần và đủ. Bởi lý do đó, để sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực kinh tế của nước ta, cần phải cấu trúc lại theo phương hướng đa dạng hoá chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Em cho rằng: việc giải quyết vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất ở nước ta trong thời kỳ chuyển đổi này cần phải lấy hiệu quả kinh tế trong việc sử dụng các nguồn lực kinh tế khan hiếm làm chuẩn mực lựa chọn các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất thích hợp. Theo luận điểm này, không có hình thức sở hữu nào có hiệu quả đối với tất cả các lĩnh vực, các đối tượng, các thời kỳ. Mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ đòi hỏi có một hình thức sở hữu thích hợp. Vì vậy không nên duy trì chế độ công hữu (dưới hình thức quốc doanh, tập thể) hay tư hữu hoá, cổ phần hoá một cách máy móc và cứng nhắc. Nơi nào công hữu có hiệu quả, nơi ấy để cho quốc doanh, nơi nào tư hữu có hiệu quả, nơi ấy để cho tư nhân, nơi nào cổ phần hoá có hiệu quả cho cổ phần hoá... IV. Hoà nhập kinh tế nước ta vào hệ thống kinh tế thế giới về mọi mặt.
  15. ở nước ta, nền kinh tế từ trạng thái khép kín, đã dần dần mở cửa, thị trường trong nước ngày càng được mở rộng, thông suốt và chặt chẽ với nền kinh tế của các nước trên thế giới, trước hết là các nước trong khu vực. Vì vấn đề này, dự thảo chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2000 cũng đã khẳng định : "Khai thác và phát huy tối đa mọi nguồn lực trong nước đi đôi với việc ra sức tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giành vị trí ngày càng có ý nghĩa trong phân công lao động quốc tế... phù hợp với điều kiện mở rộng kinh tế thị trường ở nước ta và nó góp phần làm nền tảng cho sự phát triển thể chế chính trị và xã hội ở nước ta". Có chính sách kinh tế đối ngoại cởi mở, bảo đảm môi trường chính trị, xã hội ổn định và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và quan hệ giao lưu hợp tác với bên ngoài. Như vậy, Nhà nước ta đã có một hệ thống các chính sách về kinh tế đối ngoại, điều đó cho thấy các nhà kinh tế, chính trị nước ta đã có những chú ý, quan tâm đến việc mở cửa quan hệ, giao lưu, hợp tác với bên ngoài và sự thành công của các chính sách kinh tế đối ngoại này chắc chắn sẽ đem lại cho chúng ta những thuận lợi, đưa nền kinh tế đất nước vượt lên một tầm cao mới. B. Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam I. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. 1. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước một thực trạng là : đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ 1 xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả dể lại còn nặng nề. Những tàn dự thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Với những đặc điểm xuất phát như trên, có thể nhận xét rằng: nền kinh tế nước ta không còn là hoàn toàn kinh tế tự cấp tự túc, nhưng cũng chưa phải là kinh
  16. tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác, do có sự đổi mới về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói thực trạng nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực trạng đó được biểu hiện ở các mặt sau đây: 1.1. Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Sự yếu kém của kinh tế hàng hoá nước ta được thể hiện ở những dấu hiệu có tính điển hình dưới đây: - Trình độ cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém. - Hệ thống kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường ở trong nước và chưa có khả năng để mở rộng giao lưu với thị trường quốc tế. - Cơ cấu còn mất cân đối và kén hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế của nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nong nghiệp. Hiện tượng độc canh cây lúa vẫn còn tồn tại - ngành nghề chưa phát triển. Từ đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay, tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi, nhưng vẫn chưa hình thành được một cơ cấu kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả. Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản ánh đúng yêu cầu của các quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi năng lực của đất nước và thực hiện được sự phân công, hợp tác quốc tế. - Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và đang phát triển, vì vậy thị trường ở nước ta cũng đang được hình thành và phát triển. Xem xét một cách khách quan về thị trường ở trình độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sơ, dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn. Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở
  17. khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ. Trog khu vực kinh tế Nhà nước về cơ bản còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất, tỷ giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỷ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường. - Năng suất lao động xã hội và thu nhập quốc dân tính theo đầungươid còn thấp. Phần này phản ánh tổng hợp thực trạng kinh tế hàng hoá cònkém phát triển. Do trình độ cơ sở kỹ thuật và công nghệ còn thấp, kết cấu hạ tầng dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội còn kém; cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển... cho nên năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở nước ta tất yếu vẫn còn thấp. 1.2. ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa cho nên trong nhiều thập kỷ vừa qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm. Nó gần như đối lập với kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. Việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hoá là một tất yếu lịch sử, cho nên sự hạn chế quan hệ hàng hoá tiền tệ và quy luật giá trị trở thành sự cản trở tiến bộ kỹ thuật, kìm hãm nhân tố mới, do đó làm cho Nhà nước không thể làm chủ những quá trình kinh tế khách quan mặc dù trong tay Nhà nước có lực lượng kinh tế to lớn. Vì vậy đại hội lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định: "Xoá bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động...thực hiệ giao lưu kinh tế thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới". 2. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
  18. 2.1. Từ sự phân tích thực trạng của nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường có thể rút ra kết luận: Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa là quá trình kết hợp giữa chuyển nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta có đặc điểm khác với các nước Đông Âu và Liên Xô (cũ). Những nước này đã có nền kinh tế phát triển, nền kinh tế đã được cơ khí hoá, không có tính tự nhiên tự cấp tự túc như nền kinh tế nước ta, vì vậy quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta trước hết là quá trình chuyển nền kinh tế kém phát triển mang nặng tính cự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mặt khác, ở nước ta cũng đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Cơ chế này đã được phân tích ở phần trên. Nó gần như đối lập với tính giá, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường. Thị trường được coi là trung tâm của sản xuất và toàn bộ quá tình tái sản xuất xã hội. Vì vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường còn là quá trình xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ cơ chế tập trung có sự quản lý của Nhà nước. 2.2.Quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập thị trường trong nước với thị trường thế giới. Kinh tế mở là đặc điểm và xu thế thời đại ngày nay mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải coi trọng. Trong điều kiện của nước ta, bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây một lần nữa lại sống động trong công cuộc phát triển đất nước với bối cảnh và điều kiện mới. Trong quan hệ kinh tế quốc tế chúng ta đã có nhiều đổi mới quan trọng. Chúng ta đã chuyển biến quan hệ kinh tế quốc tế từ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong khi hoạt động vào thị trường thế giới và thúc đẩy mạnh hoạt động
  19. ngoại thương, cần áp dụng có hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sánh. Từ đó cân nhắc và quyết định cụ thể xem nên sản xuất và cung ứng cho thị trường khu vực và thị trường thế giới những loại hàng hoá nào, với số lượng bao nhiêu. Từ đó xác định rõ quy mô sản xuất cho thích hợp. Chúng ta tiếp tục coi trọng các thị trường thuyền thống, nhanh chóng thâm nhập vào những thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực, cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông, lâm, thuỷ sản... chú ý phát triển dịch vụ, vận tải hàng không, thông tin bưu điện quốc tế..vv. Xuất phát từ lợi thế và khả năng thực tế trong nước, phương hướng mở rộng kinh tế quốc tế tập trung vào những vấn đề cơ bản: - Nhà nước cần có chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các ngành kinh tế phát triển, thu hút những sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ bên ngoài, ngăn chặn việc nhập khẩu những hàng hoá trong nước có khả năng sản xuất. - Nhà nước cần duy trì sự ổn định về mặt chính trị, kinh tế và xã hội nhằm tạo ra môi trường và hành lang cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế hoạt động, qua đó thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển. II. Các giai đoạn và biện pháp hình thành kinh tế thị trường theo hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta là một quan hệ phức tạp, có nhiều khó khăn, không nên quan niệm giản đơn và nóng vội, cần phải tuân thủ những tính quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Quá trình đó trải qua các giai đoạn sau đây: 1. Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Về mặt lịch sử giai đoạn này được bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sủ rất quan trọng là nghị quyết hội nghị Ban chấp hành trung ương lần thứ VI (khóa IV) tháng 9/1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự
  20. chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau đây: Một là, hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ trao đổi có tính hàng hoá tiền tệ. Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy không thể có được nền kinh tế hàng hóa nếu như không có những đơn vị sản xuất hàng hoá. Hai là, đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường. Ba là, chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hưu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất được coi là một điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hoá. ở nước ta để khắc phục tình trạng vô chủ, lãi giả, lỗ thật. trong các doanh nghiệp nhà nước, để tạo ra sự tự do kinh tế và hình thành nhiều nhà kinh doanh giỏi thích ứng với cơ chế thị trường, tất yếu phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Nó bắt nguồn từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội và xu hướng chung của thế giới. Bốn là, đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc, sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. Trong các chính sách kinh tế chúng ta đã đặc biệt quan tâm chính sách giá cả. Đã từng bước thực hiện tự do hoá giá cả. Thực chất của việc điều chỉnh giá cả ở nước ta trong những năm 80 là thay cơ chế hai giá bằng cơ chế 1 giá, cơ chế hai thực chất là 2 cơ chế xử lý giá cả, một là cơ chế xử lý giá cả trên cơ sở tập trung tính toán giá cả và điều chỉnh giá theo lệnh hành chính. Hai là, cơ chế xử lý giá cả trong quan hệ hạch toán theo nguyên tắc thoả thuận trên thị trường. Cả hai cơ chế đó đều đạt được mục tiêu làm chủ giá cả. Nhưng chúng khác nhau về cách thực hiện. Cơ chế thứ nhất dựa vào quyền lực hành chính là chủ yếu, còn cơ chế thứ hai lại dựa vào quan hệ thị trường là chủ yếu. Mục đích của việc điều chỉnh giá cả là nhằm từ bỏ cơ chế cũ chuyển sang cơ chế thị trường. Đây là khâu quan trọng tạo tiền đề cho đổi mới cơ chế trong giá cả đã làm cho sản xuất thích ứng nhạy cảm với nhu cầu thị trường và đem lại sức sống mới cho sản xuất.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2