intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Việt nam từ năm 1999-2001.Lời nói đầuTrong quá trình phát triển của một đất nước, Ngân hàng đóng vai trò rất quan tr

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

74
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong quá trình phát triển của một đất nước, Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Nó là hệ thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và có hiệu quả, không thể có tăng trưởng trong khi hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng yếu kém và lạc hâụ. Như vậy, đòi hỏi Ngân hàng phải phát triển tương xứng và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Việt nam từ năm 1999-2001.Lời nói đầuTrong quá trình phát triển của một đất nước, Ngân hàng đóng vai trò rất quan tr

  1. LUẬN VĂN: Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Việt nam từ năm 1999-2001
  2. Lời nói đầu Trong quá trình phát triển của một đất nước, Ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. Nó là hệ thần kinh của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế chỉ có thể phát triển với tốc độ cao nếu có một hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và có hiệu quả, không thể có tăng trưởng trong khi hệ thống tổ chức và hoạt động của ngân hàng yếu kém và lạc hâụ. Như vậy, đòi hỏi Ngân hàng phải phát triển tương xứng và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Điều hoà lưu thông tiền tệ chủ yếu thông qua hoạt động tín dụng, hoạt động tín dụng là xương sống của hệ thống Ngân hàng thương mại, cụ thể là quá trình huy động vốn và sử dụng vốn hiệu quả của ngân hàng sẽ giúp cho các thành phần kinh tế phát triển ổn định và ngược lại. Nước ta đang trong quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, với đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà nước đã tạo tiền đề khách quan cho sự khôi phục và phát triển các thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh với những tiềm năng và ưu thế sẵn có đã nhanh chóng thích nghi với cơ chế kinh tế thị trường, ngày càng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu của mình trong công cuộc đổi mới nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng có nhiều bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, trong nền kinh tế đầy biến động rủi ro là điều không thể tránh khỏi đối với tất cả các thành phần kinh tế. Những nguy cơ tiềm ẩn như sự không trung thực của khách hàng, vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản hay do suy thoái kinh tế… đều có thể biến một khoản vay có chất lượng cao thành một khoản nợ khó đòi. Đó là chưa kể đến những kẽ hở do hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh gây nên những phiền toái cho khách hàng và ngân hàng trong quá trình hoạt động cũng như tạo điều kiện cho những ý đồ xấu của khách hàng hay cán bộ Ngân hàng thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của nhà nước. Đây là mối đe doạ mà bất cứ Ngân hàng nào cũng phải đương đầu . Nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm của quản lý các Ngân hàng Thương mại, đặc biệt đối với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội là phải nâng cao chất lượng tín
  3. dụng, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng đối với các thành phần kinh tế nói chung và đối với kinh tế ngoài quốc doanh nói riêng. Nhận thức rõ tính cấp bách của vấn đề trên, sau thời gian thực tập và nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP Quân đội. Tôi xin được trình bày một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng qua đề tài : “Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Việt nam từ năm 1999- 2001” bố cục của luận văn gồm ba chương: Chương 1. Ngân hàng Thương mại và rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường. Chương 2. Thực trạng rủi ro tín dụng và vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với Công ty Đầu tư xây dựng công trình tại Ngân hàng TMCP Quân đội. Chương 3. Một số biện pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Quân đội đối với Công ty Đầu tư xây dựng công trình. Chương I Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường I. Ngân hàng thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 1. Vài nét về ngân hàng thương mại
  4. Nguồn gốc, định nghĩa Khi sản xuất phát triển trao đổi hàng lấy hàng không thể đáp ứng được yêu cầu của lưu thông hàng hoá, để đáp ứng được yêu cầu đó tiền đã xuất hiện đóng vai trò là vật trung giản trong quá trình trao đổi, lưu thông. Khi tiền ra đời lưu thông hàng hoá trở nên dễ dàng hơn và sản xuất cũng phát triển hơn. Nhưng mỗi vùng lãnh thổ lại có một đồng tiền khác nhau, sự khác biệt giữa các đồng tiền của các khu vực đã gây khó khăn cho lưu thông hàng hoá cho các vùng này. Có một số thương gia tách ra làm nhiệm vụ đổi tiền cho các thương gia kinh doanh, đó là những thương gia tiền tệ. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hoá, nhu cầu tiền tệ tăng lên vì thế đã phát sinh nghiệp vụ cho vay. Các thương gia tiền tệ đã chuyển hoàn toàn từ hoạt động kinh doanh hàng hoá sang kinh doanh tiền tệ, đó chính là tiền thân của ngân hàng thương mại. Tại những nước phát triển ngân hàng thương mại ra đời sớm hơn Ngân hàng Quốc gia hàng thế kỷ, Ngân hàng Quốc gia ra đời trên cơ sở một trong những ngân hàng thương mại lớn, có nguồn gốc khổng lồ nhất, thoát ly hẳn việc trực tiếp cho vay đối với các doanh nghiệp, mà chỉ cho vay đối với các ngân hàng thương mại; ngân hàng này trở thành ngân hàng phát hành, sau đó được Nhà nước quốc hữu hoá bằng cách mua lại và trở thành Ngân hàng Quốc gia. Mặc dù ngân hàng thương mại ra đời từ rất lâu nhưng các nhà kinh tế học, các nhà nghiên cứu vẫn chưa nhất trí với nhau về định nghĩa ngân hàng thương mại, đó là do sự khác biệt về luật pháp, phong tục tập quán, số lượng các nghiệp vụ ngân hàng, điều kiện nền kinh tế … ở Việt nam theo nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12-9-2000 của Chính phủ: “Ngân hàng thương mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước”. Hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân
  5. hàng là nhận tiền gửi của khách hàng, sử dụng số tiền nàyđể cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Phân loại Ngân hàng thương mại Ngày nay, trên thế giới và ở Việt nam hình thành nhiều loại ngân hàng thương mại khác nhau. - Theo phạm vi nghiệp vụ người ta chia ngân hàng thương mại thành hai loại hình: + Loại hình kinh doanh đa năng: Thường là các Ngân hàng Quốc doanh được phép hoạt động rộng, sử dụng nhiều loại nghiệp vụ. + Ngân hàng thương mại chuyên môn hoá : Loại ngân hàng này hoạt động với phạm vi hẹp như ngân hàng phát triển nhà, ngân hàng cầm cố bất động sản. - Theo đối tượng khách hàng, người ta chỉ ra: + Ngân hàng bán buôn: Loại ngân hàng này chỉ đầu tư vào các doanh nghiệp lớn. + Ngân hàng bán lẻ: Loại ngân hàng này đầu tư vào các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cá nhân. - Theo mô hình phổ biến hiện nay: + Ngân hàng thương mại Quốc doanh: Các ngân hàng này được Nhà nước cấp vốn. + Ngân hàng phát triển: Mục đích ngân hàng này là cung ứng vốn dài hạn cho công cuộc xây dựng và kiến thiết đất nước. Loại hình này có thể là Quốc doanh hoặc cổ phần. + Ngân hàng chính sách: Ngân hàng này hoạt động không vì mục đích lợi nhuận, mà hoạt động theo những mục tiêu riêng do Chính phủ giao, như phục vụ người nghèo, phục vụ miền núi… + Các ngân hàng cổ phần có thể hoạt động đa năng, hoặc theo từng quy chế riêng, từng lĩnh vực phạm vi nhất định.
  6. Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại Tạo tiền Một trong những chức năng chủ yếu của ngân hàng thương mại là tạo tiền và huỷ tiền. Chức năng tạo tiền xuất phát từ chính nhu cầu bên trong của mỗi ngân hàng thương mại riêng lẻ và sự tăng trưởng của toàn hệ thống, thông qua các hoạt động tín dụng, đầu tư và thanh toán. Trong mỗi ngân hàng riêng lẻ, khả năng tạo tiền chỉ đạt từ trên một lần đến giữa hai lần tuỳ theo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Mỗi khoản tiền gửi của khách hàng gửi vào ngân hàng, được ngân hàng lưu giữ tại quỹ nghiệp vụ của ngân hàng, đồng thời phản ánh trên tài khoản của khách hàng. Sau đó khách hàng trích tài khoản thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt. Thông qua các bút toán này, dùng “tiền ghi sổ” và thanh toán chuyển khoản, để tạo ra một khoản tiền mới. Đối với toàn hệ thống ngân hàng thương mại thì bội số tạo tiền còn lớn đến mức kinh ngạc. Một khoản tiền mặt gửi vào ban đầu của khách hàng là U1, ngân hàng thương mại đầu tiên này để lại dự trữ 10% chẳng hạn. Còn lại số tiền U2 bằng 90% (tức 9/10) số tiền U1 đem cho vay hoặc thực hiện các bút toán thanh toán. Đến ngân hàng tiếp theo nhận được các giấy tờ thanh toán hoặc cho vay là U3 bằng 90% U2 nói trên. Cứ thế, hệ thống ngân hàng thương mại đã tạo ra một bội số tiền tệbằng tất cả U1,U2,U3,…,Un so với khoản tiền gửi U1 ban đầu.
  7. Tuy nhiên khi chuyển dịch như vậy, chúng cũng có giới hạn nhất định, tức là khi n tiến tới vô cùng thì khoản tiền Un cũng tiến tới không(0). Tổng số tiền mà hệ thống ngân hàng thương mại tạo ra đã là một con số rất lớn, tính theo công thức của một cấp số nhân lùi vô hạn ta có: Sn = U1 + U2 +…+ Un = U1(1- qn)/(1- q) (1) Khi n , gỉa sử q = 10% = 1/10, tức q
  8. chức năng thanh toán của ngân hàng thương mại có liên quan đến việc cung ứng tổng khối lượng thanh toán cho toàn xã hội, một tác nhân của tăng trưởng kinh tế. Chức năng thanh toán là chức năng cổ truyền của ngân hàng thương mại. Ngày nay những sản phẩm hiện đại của nó là những tấm các điện tử, những tấm mica thay cho vàng bạc châu báu, thay cho tiền tệ, là do sự phát triển của chức năng này. Tín dụng Phạm trù tín dụng trở thành chức năng của ngân hàng thương mại ngay từ thuở ngân hàng chào đời. Tín dụng bao hàm ý nghĩa huy động vốn, thu hút tiền gửi và cho vay. Các nhà khoa học kinh tế đã coi ngân hàng là một ngành công nghiệp, thì việc cung ứng tín dụng được coi như việc thực hiện một trong các “sản phẩm” chủ yếu, một “sản phẩm gián tiếp”. Sản phẩm này đem ra tiêu dùng sẽ tạo ra việc làm, tạo ra sản phẩm xã hội do khai thác tài nguyên. Trong nền kinh tế thị trường, đại bộ phận quỹ cho vay tập trung qua ngân hàng và từ đó đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho các doanh nghiệp và cá nhân. Tín dụng ngân hàng không những chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doang nghiệp và cá nhân mà còn tham gia cấp vốn cho đầu tư xây dựng cơ bản, đổi mới cải tiến kỹ thuật công nghệ sản suất. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần đáng kể nhu cầu tiêu dùng của cá nhân. Như vậy, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế thị trường, nó đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế rất linh hoạt và kịp thời. Cung ứng dịch vụ Ngân hàng
  9. Một xã hội văn minh được đánh giá bằng hệ thống cung ứng dịch vụ, một chức năng quan trọng của ngân hàng hiện đại cũng được phát triển theo sự tiến bộ của nền văn minh. Đó là dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng thương mại cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu và khách hàng là cá nhân những loại dịch vụ thông thường và thanh toán chuyển tiền uỷ thác, tư vấn đầu tư, mua trả góp, các dịch vụ lữ hành…. Ngày nay hiện đại hơn là các loại thẻ điện tử, máy rút tiền tự động, dịch vụ chứng khoán, các dịch vụ ngân hàng tại gia, thẻ séc…Chức năng này trong nền kinh tế thị trường phát huy hơn bao giờ hết. Tóm lại bốn chức năng chủ yếu nói trên quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại. Các nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại Nghiệp vụ Nợ Ngân hàng là một tổ chức kinh tế có tỷ lệ vốn tự có trong tổng số vốn kinh doanh thấp nhất, nguồn vốn hoạt động chủ yếu của ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế. Khoản vốn huy động này được phép gấp 20 lần so với vốn điều lệ. Trong vốn huy động thì nguồn vốn lớn nhất là vốn do thu nhận tiền gửi ( còn gọi là vốn ký thác). Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới quy mô tiền gửi như lãi suất, phương thức trả lãi, tình hình kinh tế xã hội, phong tục tập quán, lòng tin của khách hàng… ở Việt Nam các loại tiền gửi chủ yếu gồm: - Tiền gửi thanh toán: Các tổ chức, cá nhân ký thác ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả trong kinh doanh và tiêu dùng. Họ có thể rút ra, chuyển nhượng hoặc yêu cầu chi trả hộ bất cứ lúc nào. Mục đích của khách hàng đối với tiền gửi loại này không phải là lãi tiền gửi mà là các dịch vụ ngân hàng.
  10. - Tiền gửi tiết kiệm: Bao gồm tiền gửi không kỳ hạn và tiền có kỳ hạn. + Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không nhằm mục đích thanh toán mà để an toàn tài sản và hưởng lãi suất. Với tiền gửi loại này khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào và thời gian gửi tiền thường ngắn. + Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian giữa khách hàng và ngân hàng. Về nguyên tắc thì khách hàng chỉ được phép rút tiền khi đến hạn nhưng để nâng cao tính cạnh tranh, ngày nay các ngân hàng thường cho phép rút tiền trước hạn nhưng hưởng lãi suất không kỳ hạn. Ngoài ra còn có các loại tiền gửi khác như: Tiền gửi theo thời gian thực gửi, tiền gửi báo trước( khi rút tiền phải báo trước 8- 15 ngày),… Các khoản tiền gửi của các tổ chức, cá nhân là rất quan trọng đối với ngân hàng nhưng không phải là tất cả. Trong những trường hợp nhất định ngân hàng cũng có thể đi vay các ngân hàng và các tổ chức khác, vay của Ngân hàng Trung ương hoặc của ngân hàng mẹ. Thời hạn của các khoản vay khác nhau, có khi kéo dài vài năm, cũng có thể chỉ vài ngày ( vay qua đêm, vay hôm nay ngày kia trả…). Trong các hình thức đi vay thì vay từ dân cư và vay từ các tổ chức thông qua phát hành trái phiếu, kỳ phiếu có chi phí thấp hơn các hình thức khác. Còn khi vay qua các tổ chức tín dụng khác thì chi phí sẽ cao hơn do đã qua một trung gian ( tổ chức tín dụng ). Gần như cuối cùng các ngân hàng thương mại mới đi vay từ Ngân hàng Trung ương bởi mức lãi suất cao hơn và kèm theo những điều kiện khắt khe. Vốn tự có của ngân hàng tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng nó rất quan trọng, nó quyết định quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng. 1.2.4.Nghiệp vụ Có
  11. Đồng thời với việc thực hiện nghiệp vụ huy động vốn, ngân hàng phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả, khả năng sinh lời cao để trang trải cho các hoạt động của ngân hàng và có lợi nhuận. Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng được thể hiện qua các nghiệp vụ sau: - Hoạt động ngân quỹ: Là hoạt động nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng phải thường xuyên xác định số tiền mặt tại quỹ; số tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và tại các ngân hàng khác. Đây là các tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp, nhưng là khoản có tính lỏng cao. Ngân hàng phải duy trì lượng tài sản này ở một mức hợp lý sao cho vừa đảm bảo khả năng thanh khoản, vừa bảo đảm khả năng sinh lợi. + Tiền mặt tại quỹ: Bao gồm tiền giấy, tiền kim loại, ngân phiếu thanh toán đang có giá trị lưu hành, tồn quỹ ở các kho ngân hàng. ở các nước, khoản mục này chiếm tỷ trọng từ 8 đến 12%. ở Việt Nam chiếm tỷ trọng từ 15 đến 20%. Nguyên nhân chủ yếu hiện nay nền tiền tệ nước ta là “nền tiền tệ tiền mặt”; việc sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại, các loại tiền điện tử, các loại séc, thẻ thanh toán…chưa ưa chuộng, chưa phát triển. Các doanh nghiệp chi tiêu những khoản tiền rất lớn nhưng đều sử dụng tiền mặt, buộc các ngân hàng đều phải sử dụng tồn quỹ cao để đáp ứng. + Tiền gửi tại Ngân hàng Trung ương và các ngân hàng khác: Các ngân hàng thương mại gửi tiền tại Ngân hàng Trung ương để thanh toán tại các ngân hàng khác trong trường hợp không thực hiện phương thác thanh toán liên hàng; tiền gửi này có thể rút để nhập vào quỹ nhằm chi trả cho khách hàng. Tiền gửi tại các đại lý ở nước ngoài, trên tài khoản NOSTRO là tiền gửi để thanh toán đồng thời cũng nhằm mục đíchkinh doanh tiền tệ khi nhận định có sự thay đổi về tỷ giá. - Hoạt động cho vay: Là hoạt động quan trọng nhất, nó thường đem lại cho ngân hàng khoản lợi nhuận cao nhất (khoảng 60-70% tổng lợi nhuận) nhưng đồng thời là hoạt động chứa đựng nhiều tiềm ẩn của sự rủi ro. Vì vậy, Ngân hàng phải thực hiện tốt hoạt động này, quản
  12. lý tiền vay một cách chặt chẽ, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. Đặc biệt đối với những khoản cho vay trung và dài hạn. - Hoạt động thuê mua tài chính: Ngân hàng tham gia vào hoạt động thuê mua với tư cách là người cung cấp tài chính cho người thuê. Đặc điểm nổi bật của hoạt động thuê mua là quyền sở hữu vẫn thuộc về bên cho thuê và sau khi kết thúc hợp đồng người thuê có quyền mua lại tài sản thuê ở mức giá thấp hơn giá thị trường đã được thoả thuận ngay từ khi ký kết hợp đồng. - Hoạt động đầu tư và kinh doanh: Ngân hàng dùng tiền tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là người mua cổ phiếu để hưởng lợi tức hoặc góp vốn liên doanh… Mặt khác ngân hàng có thể kinh doanh chứng khoán bằng cách mua chứng khoán với gía thấp hơn và bán với giá cao hơn nhằm thu chênh lệch giá. Nghiêp vụ trung gian. Ngoài nghiệp vụ Nợ và nghiệp vụ Có, Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng hàng loạt dịch vụ qua đó ngân hàng nhận được thu nhập dưới hình thức hoa hồng. Khi hệ thống ngân hàng phát triển thì nghiệp vụ trung gian càng phát triển và đem lại tỷ trọng thu nhập ngày càng cao cho ngân hàng. Các họat động trung gian bao gồm: - Dịch vụ thanh toán và cung ứng phương tiện thanh toán: Ngân hàng thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng các khoản mua bán hàng hoá, dịch vụ thu hộ, chi hộ thông qua tài khoản của khách hàng hoặc dưới các hình thức séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, thẻ tín dụng… - Dịch vụ bảo lãnh: Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho các công ty phát hành chứng khoán, bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh mua bán hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo lãnh thực hiện công trình, bảo lãnh thanh toán…
  13. - Dịch vụ môi giới: Ngân hàng làm việc mua bán các chứng khoán cho khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng thực hiện mua bán hộ chứng khoán, vàng bạc, đá quý, ngoại tệ. - Dịch vụ ngân quỹ: Ngân hàng thực hiện thu hộ và phát tiền mặt cho khách hàng, ngân hàng đóng vai trò như một người thủ quỹ của doanh nghiệp. - Dịch vụ chuyển tiền: Trong đó nổi bật là dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, đối với các ngân hàng trong cùng hệ thống thì chỉ cần sau 15 phút gửi tiền người nhận đã có thể nhận được. - Dịch vụ tư vấn: Dịch vụ này giúp khách hàng trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, hoạt động tiền tệ. - Dịch vụ bảo quản hộ các chứng từ tài sản cho khách hàng. Dịch vụ này đặc biệt phát triển ở các ngân hàng Thụy Sỹ. 2.Vai trò của Ngân hàng thương mại Cổ phần Cùng với sự chuyển đổi cơ chế quản lý, vai trò ngân hàng cũng có sự thay đổi về hoạt động. Trước đây, trong thờ kỳ bao cấp; ngân hàng như là một tổ chức cấp phát vốn Ngân sách. Chính vì vậy thường xảy ra tình trạng nơi cần vốn để sản xuất thì không có hoặc không kịp thời, nơi thì lại để vốn nằm ứ đọng trong một thời gian dài. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hầu như tình trạng đó đã chấm dứt. Với sự cải tổ hệ thống ngân hàng từ một cấp sang hai cấp, hàng loạt các ngân hàng thương mại được thành lập, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại cổ phần. Các ngân hàng thương mại cổ phần được hình thành nhằm mục đích huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển các thành phần kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của toàn xã hội. Sự hình thành và phát triển của Ngân hàng Thương mại Cổ phần là một thách thức đối với các Ngân hàng thương mại Quốc doanh. Các Ngân hàng thương mại Cổ phần luôn đổi mới công nghệ, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, gắn trách nhiệm
  14. của mình với công việc. Vì thế hoạt động của các Ngân hàng thương mại Cổ phần luôn đạt hiệu quả cao, góp phần tích cực cho quá trình phát triển của nền kinh tế. ở các nước tiên tiến thì các ngân hàng thương mại cổ phần chiếm tỷ lệ rất lớn trong tổng số các ngân hàng thương mại và hoạt động của các ngân hàng này đạt hiệu quả rất cao. Việt Nam đang trong quá trình CNH-HĐH đất nước, các Ngân hàng thương mại cổ phần mới được thành lập vì vậy còn có nhiều hạn chế. Sau đây là vai trò Ngân hàng thương mại Cổ phần trong nền kinh tế thị trường. 2.1. Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế Hoạt động ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế Quốc dân, là cầu nối giữa cung và cầu về vốn. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, các ngân hàng thương mại thực hiện nhiệm vụ mà Ngân hàng Trung ương giao phó, các Ngân hàng thương mại cổ phần luôn luôn cố gắng đạt lợi nhuận tối đa để tự khẳng định mình. Như với mọi ngân hàng thương mại khác, hoạt động chính của Ngân hàng thương mại cổ phần là hoạt động tín dụng, nó đem lại 70 - 80% thu nhập cho ngân hàng. Chính vì vậy thông qua hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã góp phần tích cực tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi cho các thành phần kinh tế. Trên cơ sở đó các Ngân hàng thương mại Cổ phần lại bơm nguồn tiền đó trở lại nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho quá trình tái sản xuất và mở rộng với quy mô ngày càng lớn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Việc tập trung và phân phối tín dụng đã góp phần điều hoà vốn trong toàn bộ nền kinh tế Quốc dân. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực khuyến khích tiết kiệm và đầu tư. Như vậy hệ thống ngân hàng thương mại nói chung và các Ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng là cánh tay đắc lực của Ngân hàng Trung ương, góp phần nâng cao chất lượng điều hoà tiền tệ, thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, kìm chế và đẩy lùi lạm phát, tạo ra môi trường kinh doanh ổn định. 2.2. Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng cho đầu tư phát triển
  15. Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải cạnh tranh gay gắt với nhau nếu không muốn tụt hậu và đào thải. Do đó, nhu cầu đầu tư phát triển không những là nhu cầu tự thân mà còn do đòi hỏi của cơ chế thị trường. Để có thể mở rộng, phát triển sản xuất các doanh nghiệp cần có nhiều yếu tố như: nguồn nhân lực, công nghệ, đất đai, kỹ thuột, vốn… Tuy nhiên, có thể khẳng định vốn là quan trọng nhất vì nếu có vốn doanh nghiệp sẽ có được các yếu tố khác do thị trường luôn sẵn sàng cung ứng. Để có vốn, các doanh nghiệp có thể tìm kiếm ở các nguồn như chiếm dụng vốn của đơn vị cùng làm ăn, đi vay trên thị trường chợ đen … nhưng những hình thức này không ổn định mà chi phí lại lớn. Bởi vậy, thường thì các doanh nghiệp tìm đến Ngân hàng. Đối với hầu hết khách hàng, ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp tư vấn và bổ sung vốn. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội. Như vậy Ngân hàng có vai trò quyết định đối với quá trình tái sản xuất mở rộng và đầu tư phát triển của nền kinh tế. Ngân hàng thương mại Cổ phần cũng không nằm ngoài vai trò quan trọng đó. 2.3. Tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ Trong nền kinh tế thị trườngthường xuyên xuất hiện những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, trong khi các thành phần kinh tế khác lại xuất hiện hiện tượng hặc thiếu vốn tạm thời, hoặc thiếu vốn bổ sung đầu tư tài sản cố định. Sự có mặt của Ngân hàng được coi như một giải pháp để giải quyết mâu thuẫn này. Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ, ngân hàng đã huy động được các nguồn tiết kiệm từ dân cư và các tổ chức để phân phối lại cho các thành phần kinh tế có nhu cầu vốn, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế hoạt động đạt hiệu quả cao, góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế. Dựa vào quy luật lưu thông tiền tệ trong quá trình cân đối nguồn vốn tín dụng với nhu cầu
  16. vay, Ngân hàng Trung ương thực hiện pháp lệnh đưa tiền vào lưu thông. Việc này đôi khi gây mất cân đối trong quan hệ tiền hàng, dẫn đến lạm phát. Do đó sự vận động vốn của ngân hàng dựa trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế để tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ. Hơn nữa, quá trình hoạt động của ngân hàng gắn liền với việc thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần giảm bớt lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường thiến sự quản lý của nhà nước, từ đó ổn định lưu thông tiền tệ. Điều này góp phần làm giảm lạm phát, căn bệnh kinh niên của nền kinh tế, nhất là đối với những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như nước ta. Tất cả mọi quốc gia đều dùng ngân hàng như là một công cụ hữu hiệu để điều hoà vốn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 2.4. Thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ là công cụ kinh tế phục vụ cho tất cả các mặt hoạt động kinh tế xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng nhanh vòng quay vốn. Cơ hội kinh doanh không nhiều và chỉ mang tính thời điểm. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này, vốn đầu tư là yếu tố quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp đều tìm đến ngân hàng. Tuy nhiên, để được vay vốn không chỉ đối với Ngân hàng Quốc doanh mà cả đối với Ngân hàng thương mại cổ phần, các doanh nghiệp phải chứng tỏ được tính khả thi của dự án đầu tư, sự lành mạnh của tình hình tài chính cũng như khả năng hoàn trả lãi và gốc đúng hạn. Nguồn vốn của ngân hàng không phải là vô hạn nên chỉ những dự án có mức sinh lời cao mới được ngân hàng xét duyệt. Các đơn vị kinh tế, cá nhân khi vay vốn ngân hàng đều phải cam kết thực hiện đầy đủ các điều kiện nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của đơn vị. Nếu không thực hiện đúng cam kết, các doanh nghiệp phải chịu lãi suất phạt, tài sản thế chấp bị phát mại và quan trọng hơn là uy tín của doanh nghiệp bị giảm sút. Đây là một khó khăn đối với doanh nghiệp trong lần vay vốn lần sau.
  17. Chính vì những lý do trên, các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp để tăng hiệu quả sử dụng vốn như tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành…nhằm tạo ra lợi nhuận cao hơn, đồng thời hoàn thiện công tác hạch toán kế toán. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác trong công cuộc chạy đua đầy khốc liệt này. Như vậy ngân hàng đã gián tiếp thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả kinh doanh, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2.5. Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế kém phát triển và các ngành mũi nhọn Hoạt động chủ yếu của ngân hàng là huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế rồi đầu tư trở lại cho các ngành kinh tế cần vốn. Nhưng việc cho vay này không phải trả đều cho các chủ thể có nhu cầu mà việc đầu tư được thực hiện qua một quá trình thẩm định kỹ lưỡng. Quá trình này là rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng cổ phần nói riêng, nó mang tính sống còn của ngân hàng. Tuy nhiên đất nước ta đang trên con đường Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, có những ngành kinh tế đòi hỏi phải được đầu tư, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững. Mặc dù các ngành này tỷ lệ sinh lời thấp, thời gian thu hồi vốn chậm đòi hòi nguồn vốn đầu tư lớn nhưng đây là các ngành kinh tế mũi nhọn, xương sống của nền kinh tế, là cơ sở để phát triển đất nước. Bên cạnh đó có những vùng kinh tế kém phát triển cần được đầu tư như đầu tư phát triển vùng nông thôn, miền núi… để nâng cao mức sống cho nhân dân. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra những biện pháp chính sách khuyến khích các ngân hàng thương mại cổ phần cho vay hỗ trợ các dự án phát triển Nhà nước. Từ đó đạt được mục tiêu phát triển kinh tế. Sự phát triển đa dạng các thành phần kinh tế đã tạo cho nước ta thế và lực mới, thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, bắt đầu sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Để đạt được mục tiêu đó, chúng ta cần phải tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước tạo ra môi trường thuận lợi để phát huy vai trò và thế
  18. mạnh của từng thành phần kinh tế, song song với các chính sách hỗ trợ các ngành kinh tế kém phát triển, tập trung phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn. II. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại và cơ chế phòng ngừa rủi ro tín dụng 1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng Khái niệm về rủi ro nói chung Trong cuộc sống, lao động cũng như trong sản xuất kinh doanh, mặc dù con người đã rất chú ý đề phòng, ngăn ngừa tai nạn nhưng rủi ro vẫn có thể xảy ra. Nguyên nhân của rủi ro là: -Thiên nhiên gây ra lũ lụt, bão, động đất…làm thiệt hại đến sản xuất, tài sản và thậm chí còn làm chết con người. - Lực lượng sản xuất phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất nhưng mặt khác chính sự phát triển đó cũng gây ra nhiều tai hoạ cho con người như tai nạn giao thông (ô tô, máy bay, tàu biển, xe lửa…), tai nạn lao động…
  19. - Môi trường xã hội cũng là một trong những nguyên gây ra rủi ro cho con người: mất cắp, mất trộm tài sản, ốm đau, bệnh tật, hoả hoạn… - Một nguyên nhân chủ quan của con người đó là trình độ hiểu biết kém, không cập nhật những thông tin cần thiết dẫn tới rủi ro xẩy ra. Đặc biệt là trong hoạt động sản xuất kinh doanh, rủi ro có thể làm giảm lợi ích kinh doanh của con người và có thể sẽ làm cho con người bị phá sản. Sự tồn tại của rủi ro là một tất yếu khách quan, nó xẩy ra sẽ mang lại những hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Để đảm bảo ổn định cuộc sống và đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, con người đã tìm đến các biện pháp để xử lý rủi ro. Các biện pháp để xử lý rủi ro gồm hai nhóm: Nhóm một: Các biện pháp đề phòng rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng khi chưa có rủi ro xảy ra. Trên thực tế các biện pháp này đối với một số rủi ro chỉ có tính chất phòng ngừa chứ không làm mất đi tính rủi ro. Nhóm hai: Các biện pháp khắc phục, hạn chế hậu quả của rủi ro. Đây là các biện pháp được sử dụng sau khi có rủi ro xẩy ra. Để khắc phục, hạn chế hậu quả của rủi ro con người có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau như tiết kiệm, dự phòng, lập quỹ chung, cứu trợ…thực tế đã chứng minh cách khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua sự đảm bảo về tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm cho khách hàng là một trong những biện pháp khắc phục hậu quả của rủi ro có hiệu quả. 2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng Thương mại Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại đều phải đối đầu với các loại rủi ro khác nhau, nhưng nổi bật nhất vẫn là rủi ro tín dụng. Sau đây là một số rủi ro cơ bản trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 2.1. Rủi ro tín dụng - Rủi ro mất vốn: Là rủi ro cho vay không thu hồi được nợ. Bản chất của tín dụng ngân hàng chứa đựng nội dung ứng trước tiền cho doanh nghiệp (người vay), sau một
  20. chu kỳ sản xuất hoặc kỳ luân chuyển hàng hoá thì khách hàng mới có tiền trả nợ ngân hàng. Nội dung “ứng trước” của tín dụng ngân hàng càng cao thì mức độ rủi ro càng lớn. Ngân hàng thương mại cho vay bằng tín chấp mức độ rủi ro cao hơn cho vay có tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp bằng giấy tờ có giá dễ chuyển đổi ra tiền thì rủi ro ít hơn tài sản thế chấp là bất động sản ( ruộng, vườn, ao hồ, nhà cửa kèm theo thổ cư). Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, rủi ro này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản kinh doanh. Vì hơn 2/3 tài sản có của ngân hàng là các món cho vay và đầu tư, đem lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng, do đó nếu các khoản cho vay của ngân hàng không được hoàn trả, ngân hàng sẽ mất cả vốn lẫn lãi. Số tiền thiệt hại này khi đã vượt quá vốn tự có của ngân hàng sẽ khiến ngân hàng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. - Rủi ro sai hẹn: Là các khoản cho vay mà đến hạn khách hàng vẫn chưa thu hồi được vốn để trả cho ngân hàng. Thông thường trường hợp này khách hàng sẽ xin ngân hàng gia hạn thêm thời hạn trả nợ. Nếu lý do của khách hàng không được ngân hàng chấp thuận, họ sẽ phải chịu lãi suất phạt. Khoản tiền thu hồi chậm này có thể làm đảo lộn kế hoạt kinh doanh của ngân hàng và luôn tiềm ẩn nguy cơ mất vốn. 2.2.Rủi ro lãi suất Quá trình chuyển hoá tài sản của ngân hàng bao gồm việc huy động vốn và việc sử dụng vốn. Kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản nợ thường không cân xứng với kỳ hạn và độ thanh khoản của các tài sản có làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất. Giả sử lãi suất huy động vốn là 9%/năm và lãi suất đầu tư là 10%/ năm. Sau năm thứ nhất, bằng cách vay ngắn hạn 1 năm và cho vay dài hạn hai năm, ngân hàng thu được lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất là 10% - 9% = 1%. Tuy nhiên lợi nhuận thu của năm thứ hai chưa biết trước là bao nhiêu cho nên sẽ là một số không chắc chắn. Nếu lãi suất thị trường không thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ hai thì ngân hàng có thể tái tài trợ tài sản nợ với mức lãi suất không thay đôỉ là 9%; và do đó, mức lợi nhuận thu được trong năm thứ hai sẽ bằng năm thứ nhất và bằng 1%. Vì lãi suất thị trường có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2