Luận văn: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực của FDI vào Việt Nam trong thời gian tới
lượt xem 126
download
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể khẳng định các hoạt động đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò là một nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Thực vậy, đối với các nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như “một cái hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế bởi phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực của FDI vào Việt Nam trong thời gian tới
- Luận văn Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò tích cực cảu FDI vào Việt Nam trong thời gian tới 1
- Lời Mở đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có thể khẳng định các hoạt động đầu tư trong đó có đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng vai trò là một nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Thực vậy, đối với các nước đang phát triển, đầu tư đóng vai trò như “một cái hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế bởi phát triển về bản chất được coi là vấn đề đảm bảo các nguồn vốn đầu tư đủ để đạt được một tỷ lệ tăng thêm sản phẩm quốc dân dự kiến. Có thể coi FDI là một biện pháp rất hữu hiệu để khắc phục tình trạng thiếu vốn - một vấn đề đang đặt ra đối với hầu hết các nước đang phát triển. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tuy mới bắt đầu từ năm 1988 nhưng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Đặc biệt kể từ khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 và sửa đổi bổ sung năm 2000 hoạt động FDI đã có những bước phát triển mới. Việc đánh giá vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế nhằm thấy rõ hơn tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư này từ đó có các biện pháp thu hút và sử dụng FDI ngày càng có hiệu quả hơn. 2
- Chương một Cơ sở lý luận I/ Khái niệm và đặc điểm của FDI 1) Khái niệm: Có thể hiểu đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kêt quả nhất định nào đó trong tương lai lớn hơn các nguồn lực bỏ ra. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có bản chất như đầu tư nói chung, đó là sự tìm kiếm lợi nhuận từ việc sử dụng các nguồn lực để thực hiện một hoạt động. Tuy nhiên, FDI nhấn mạnh đến địa điểm thực hiện hoạt động này- là ở quốc gia khác chứ không phải tại quốc gia của nhà đầu tư trong đó nước nhận đầu tư gọi là nước chủ nhà còn nước chủ đầu tư gọi là nước đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc chủ đầu tư của quốc gia này (thường là một công ty hay một cá nhân cụ thể) mang các nguồn lực cần thiết sang thực hiện tại một quốc gia khác. Chủ đầu tư trực tiếp tham gia vào quán trình trình khai thác kết quả đầu tư và chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng vốnc của mình. 2) Đặc điểm: Đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đều có những đặc điểm chung như tính rủi ro và khả năng sinh lời, tuy nhiên đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tại một một nước khác với những điều kiện có thể hoàn toàn khác biệt với so với nước của mình do đó chủ đầu tư thường gặp rủi ro nhiều hơn so với những dự án thực hiện tại nước của mình. Bên cạnh đó, với việc di chuyển nguồn lực sang nước khác, chủ đầu tư sẽ phải đối mặt với những vần đề về thuế nhập khẩu, thủ tục hải quan và hàng loạt các chính sách liên quan như như chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái... mà chủ đầu tư trong nước không phải lo lắng. II/ Vai trò của FDI đối với tăng trưởng kinh tế 1) FDI tác động đến tổng cung và tổng cầu: - Về mặt cầu: Đầu tư tăng lên làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch chuyển sang D’) kéo sản lượng cân bằng từ tăng theo từ Q0 đến Q1 và giá cả của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 đến P1. Điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1. 3
- P S P1 E1 P2 E0 S’ P3 E2 Q0 Q1 Q2 Q 2) FDI có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế: Đầu tư làm cho sản lượng tăng, giá cả giảm, kích thích sản xuất, tạo việc làm và duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Tuy nhiên, khi tăng đầu tư làm cho giá các hàng hoá có liên quan tăng (giấ chi phí vốn, công nghệ, lao động, vật tư...) tăng từ đó dẫn đến tình trạng lạm phát, thất nghiệp. Như vậy, đầu tư vừa duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế đồng thời cũng phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Do đó, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác dụng tích cực, duy trì được sự ổn định của nền kinh tế. 3) FDI làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước: Về công nghệ hiện nay, trình độ của Việt Nam rất thấp so với các nước trên thế giới (theo UNIDO nếu chia quá trình phát triển công nghệ làm 7 giai đoạn thì Việt Nam đang ở giai đoạn thứ 2- là một trong những nước kém nhất về công nghệ). Công nghệ là trung tâm, là điều kiện rất quan trọng để tiến hành công nghiệp hoá do đó để cải thiện tình hình này thì ngoài việc tự nghiên cứu nhất thiết phải nhập công nghệ từ nước ngoài. Và như vậy vốn đầu tư là rất quan trọng bởi 4
- mọi phương án đổi mới công nghệ đều không khả thi nếu không gắn với nguồn vốn đầu tư. 4) FDI góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế được xác định bởi số lượng tỷ trọng các bộ phận trong nền kinh tế và mối quan hệ giữa các bộ phận đó. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy muốn phát triển kinh tế thì cần tập trung vào các bộ phận tạo ra tăng trưởng cao là khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, chính đầu tư đã quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu nhằm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, FDI có tác động giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo đồng thời phát huy tối đa những lơị thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 5) FDI có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế: Kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào vốn đầu tư, quan hệ này được biểu diễn bởi phương trình: I = ICOR x GDP I ICOR = GDP ICOR là một hệ số phản ánh thực trạng đầu tư của nền kinh tế, là tỷ lệ giữa lượng vốn đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị GDP gia tăng. Nếu ICOR càng nhỏ thì hiệu quả vốn đầu tư càng cao. Các yếu tô ảnh hưởng đến ICOR như sau: Thứ nhất là cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế, theo vùng kinh, theo thành phần kinh tế. Đầu tư nhiều vào các cơ sở sản xuất, trực tiếp tạo ra GDP và làm tăng giá trị GDP thì hệ số vốn có xu hướng giảm. Ngược lại, nếu tập trung nhiều hơn vào các ngành và lĩnh vực không trực tiếp sản xuất ra sản phẩm hàng hoá (đầu tư vào giao thông, hạ tầng xã hội, xoá đói giảm nghèo...) sẽ làm cho hệ số vốn cao hơn, xét vế mặt nào đó kém hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong đầu tư phải cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, các vùng và các thành phần kinh tế. Thứ hai là quy mô của các dự án đầu tư. Có càng nhiều công trình với quy mô lớn, thời gian xây dựng kéo dài thì sẽ có xu hướng làm tăng hệ số vốn. Ngược lại, nếu đầu tư nhiều dự án quy mô nhỏ thì hệ số vốn sẽ nhỏ đi và do nhanh chóng đưa vào khai thác sử dụng, tạo ra sản phẩm hàng hoá. Thứ ba là trình độ quản lý trong đầu tư và xây dựng cũng có tác dụng tăng hoặc giảm hệ số ICOR. Quản lý tốt, không để thất thoát lãng phí, suất đầu tư nhỏ, sẽ tạo điều kiện để giảm hệ số vốn đầu tư. 5
- Như vậy, việc bố trí cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ tạo điều kiên để tăng hiệu quả đầu tư, tác động không cho hệ số vốn tăng nhanh. Tuy nhiên, xu thế hệ số vốn sẽ tăng dần do càng ngày càng có nhiều công trình dự án với quy mô lớn hơn, càng ngày càng phải đầu tư các dự án ở những nơi kém lợi thế hơn về mặt sử dụng tài nguyên thiên nhiên, suất đầu tư lớn hơn. Trước mắt, việc kết hợp giữa yêu cầu tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo, tạo nhiều việc làm, giải quyết công bằng xã hội cũng là những yếu tố làm tăng hệ số vốn đầu tư. Do vậy vấn đề đặt ra là phải tìm ra cơ cấu đầu tư thât hợp lý cả về cơ cấu ngành, lĩnh vực; cơ cấu quy mô các loại dự án; cơ cấu điều đầu tư theo các thành phần kinh tế... đồng thời phải có chính sách thích hợp để quản lý tốt hơn nguồn vốn đầu tư. Do đặc điểm của FDI là ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị, bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất nên FDI ngày càng có vai trò to lớn thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và nước nhận đầu tư. Cụ thế là: + Đối với các nước đầu tư, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở nơi tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng. Mặt khác, thông qua việc đầu tư ra nước ngoài các nước đầu tư sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. + Đối với nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển, FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế thông qua việc tạo ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết một phần nạn thất nghiệp. Quan trọng hơn, FDI còn giúp tăng thu ngân sách thông qua việc đánh thuế các công ty nước ngoài. Ngoài ra, với các máy móc, thiết bị cũng như những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được đưa vào sản xuất, FDI sẽ giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh cũng như bắt kịp với phương thức quản lý công nghiệp hiện đại góp phần hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. Đối với các doanh nghiệp: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trước hết, để tạo dựng cơ sở vật chất cho sự ra đời của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải thực hiện các hoạt động đầu tư (xây dựng nhà xưởng, lắp đặt thiết bị máy móc...). Sau một thời gian hoạt động, để duy trì được hoạt động bình thường cần tiến hành sửa chữa lớn, mua sắm trang thiết bị mới nhằm đáp ứng với điều kiện mới. Điều này cũng có nghĩa là phải đầu tư. Như vậy, sự tồn tồn tại của doanh nghiệp được quyết định bởi đầu tư tái sản xuất giản đơn tài sản cố định và các tài sản khác. Đầu tư quyết định sự phát triển thể hiện ở chỗ đầu tư tái sản xuất mở rộng. 6
- III/ Các hình thức FDI 1) Hợp đồng hợp tác kinh doanh:Là hình thức đầu tư mà các bên tham gia hợp đồng ký kết thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ, trách nhiệm và phân chia các kết quả kinh doanh cho các bên tham gia. Hình thức này không đòi hỏi vốn lớn và thời hạn hợp đồng thường ngắn, cũng chính vì vậy mà ít thu hút được những nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng. 2) Doanh nghiệp liên doanh: Là doanh nghiệp được hình thành giữa một bên là nước nhận đầu tư (nước chủ nhà) với một bên là hoặc các bên nước ngoài trong đó các bên cùng đóng góp vốn, cùng kinh doanh và hưởng quyền lợi nghĩa vụ theo tỷ lệ góp vốn. Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài hoặc các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định. Doanh nghiệp liên doanh là hình thức đầu tư phổ biến được các nước chủ nhà đặc biệt là các nước đang phát triển khuyến khích áp dụng bởi ưu điểm của hình thức này là nước nhận đầu tư được tham gia vào điều hành quá trình kinh doanh do đó tiếp thu được công nghệ tiên tiến đồng thời nâng cao được kinh nghiệm quản lý. 3) Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh. Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là hình thức được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng vì được tự mình quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư tạo ra đồng thời giữ được các bí mật về công nghệ. Ngoài ra, còn có một vài dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật: + Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao (BOT): Với hình thức này, các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng, kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. Saukhi dự án kết thúc, toàn bộ công trình sẽ được chuyển giao cho nước chủ nhà mà không thu bất cứ một khoản tiền nào. 7
- + Hợp đồng xây dựng- chuyển giao- kinhdoanh (BTO): Khác với hình thức BTO, sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. + Hợp đồng xây dựng- chuyển giao (BT): Với hình thức này, sau khi xây dựng xong, chủ đầu tư chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà, nước chủ nhà sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý. IV/ Các nhân tố ảnh hưởng đến FDI 1) Đối với nước chủ nhà 1.1 Môi trường chính trị ổn định chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự thu hút đầu tư bởi nó đảm bảo việc thực hiện các cam kết của chính phủ trong các vấn đề sở hữu vốn đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư của một nước. ổn định chính trị sẽ tạo ra sự ổn định về kinh tế - xã hội và giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn định sẽ dẫn tới việc bất ổn về chính sách và đường lối phát triển không nhất quán. 1..2 Môi trường luật pháp Môi trường luật pháp ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để quản lý và thực hiện đầu tư một cách có hiệu quả. Môi trường này bao gồm các chính sách, quy định, luật cần thiết dảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo và có tính hiệu lực cao. - Chính sách sở hữu: với mục đích chính là kiểm soát các hoạt động của các nhà đầu tư, việc khống chế một mức vốn sở hữu là một biện pháp quan trọng để hạn chế sự can thiệp của nhà đầu tư nước ngoài. Việt Nam quy định các nhà đầu phải góp vốn không ít hơn 30% đối với hình thức liên doanh. - Chính sách thuế: bao gồm các nội dung liên quan đến các loại thuế, mức thuế, thời gian miễn giảm thuế, thời gian khấu hao và các điều kiện ưu đãi khác. - Chính sách lệ phí: quy định về các khoản tiền phải nộp như phí dịch vụ cấp giấy phép, dịch vụ cơ sở hạ tầng (điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc...) - Chính sách quản lý ngoại hối: bao gồm các quy định về việc mở tài khoản ngoại tệ, tỷ giá hối đoái, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài. Việc chuyển đổi giữa đồng nội tệ và ngoại tệ cũng như việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài được quy định khác nhau giữa các nước. - Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài: Trong quá trình hình thành và triển khai dự án, chủ đầu tư phải chịu sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền đại diện cho nước chủ nhà từ khâu cấp giấy phép, thẩm định dự án đến quản lý việc thực hiện dự án. Theo đó, một dự án được chấp nhận phải có sự nhất trí của 8
- tất cả các cơ quan này gây không ít khó khăn cho các nhà đầu tư. Để khắc phục những hạn chế này, một số nước đã áp dụng hình thức “một cửa”, có nghĩa là nhà đầu tư chỉ phải liên hệ với một cơ quan chức năng để đề nghị thẩm định dự án của mình. Mọi thủ tục thẩm định sẽ do cơ quan này phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan khác tiến hành. Hình thức này đã được áp dụng tại một số nước như Thái Lan, Malayxia, Singapore... - Các chính sách và quy định khác như chính sách về công nghệ, chính sách môi trường, chính sách lao động tiền lương, chính sách sử dụng các nguồn tài nguyên, thủ tục khai báo hải quan, quy định về việc khiếu nại, tranh chấp... 1.3 Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên: Đó là những yếu tố tự nhiên như khí hậu, tài nguyên, dân số... liên quan đến việc lựa chọn lĩnh vực để đầu tư và khả năng sinh lời của dự án. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thường ảnh hưởng không tốt đến tuổi thọ của máy móc thiết bị có nguồn gốc từ phương Tây. Nguồn nguyên vật liệu đầu vào phong phú sẽ thu hút các nhà đầu tư, giảm chi phí và giá thành. Dân cư đông sẽ là nguồn cung ứng sức lao động dồi dào và là thị trường tiềm năng để tiêu thụ hàng hoá. 1.4 Điều kiện phát triển kinh tế Mức độ phát triển về quản lý kinh tế vĩ mô thấp dẫn tới các hiện tượng lạm phát cao, nợ nước ngoài nhiều, tham nhũng, thủ tục hành chính rườm rà, tăng trưởng kinh tế thấp... là nguyên nhân tiềm ẩn gây nên khủng hoảng. Chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng kém ảnh hưởng trực tiếp tới sự vận hành các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của các nhà đầu tư nước ngoài, khiến tăng chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm không cao. Chất lượng các dịch vụ khác như cung ứng lao động, tài chính cũng là những yếu tố rất cần thiết để thu hút các nhà đâu tư nươc ngoài. Tính cạnh tranh của nước chủ nhà cao sẽ giảm được rào cản đối với đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư có thể lựa chọn lĩnh vực đầu tư để phát huy lợi thế so sánh của mình. 1.5 Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội Bao gồm các yếu tố về ngôn ngữ, tôn giáo, phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mỹ, hệ thống giáo dục, đạo đức... Sự bất đồng về ngôn ngữ và văn hoá trong một số trường hợp đã mang lại những hậu quả không lường trong kinh doanh. Tinh thần tự trọng dân tộc quá cao cùng với thái độ bài ngoại sẽ là rào cản lớn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN không muốn đầu tư vào một nước có quá nhiều phong tục tập quán khác nhau bởi điều này khiến cho họ khó hoà nhập và không thuận lợi trong hoạt động kinh doanh của họ. 9
- Thẩm mỹ dân tộc của nước chủ nhà là một yếu tố quan trọng để thu hút ĐTNN chọ các hình thức quảng cáo và bao bì sản phẩm. Trình độ phát triển giáo dục- đào tạo sẽ quyết định chất lượng của đội ngũ lao động. 2) Đối với nước chủ đầu tư 2.1 Thay đổi chính sách kinh tế vĩ mô Sự thay đổi của các chính sách tài chính- tiền tệ tác động mạnh đến lãi suất, làm tăng hoặc giảm khả năng tạo lợi nhuận của các nhà đầu tư. Việc thay đổi chính sách từ “nới lỏng tiền tệ- thắt chặt tài chính” sáng “thắt chặt tiền tệ - nới lỏng tài chính” sẽ làm cho mức lãi suất trong nước cao hơn, cải thiện môi trường đầu tư trong nước từ đó làm giảm đầu tư ra nước ngoài. Thay đổi chính sách tiền tệ sẽ làm ảnh hưởng đến lạm phát, lạm phát cao có nghĩa là đồng nội tệ mất giá khiến hoạt động đầu tư ra nước ngoài giảm và ngược lại. ảnh hưởng của chính sách XNK của nước đầu tư đến dòng vốn đầu tư ra nước ngoài được thể hiện ở chỗ: các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương mại sẽ khiến cho hàng hoá và dịch vụ của nước đầu tư có cơ hội thuận lợi thâm nhập thị trường nước khác, do đó động cơ đầu tư ra nước ngoài để vượt qua rào cản thương mại sẽ giảm mạnh. Đối với nhập khẩu cũng vậy, nếu nước đầu tư hạ mức rào cản đối hàng hóa từ nước ngoài nhất là từ các nước đang phát triển thì các nhà đầu tư trong nước sẽ có nhiều cơ hội tiến hành hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm nguồn nguyên liệu mới để sản xuất hàng hoá và lại nhập khẩu lại nước mình. Nếu nước đầu tư nới lỏng các chính sách quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá thị trường vốn thì các nhà đầu tư được quyền tự do chuyển vốn ra nước ngoài và ngược lại. Thực tế cho thấy việc xoá bỏ các quy định quản lý ngoại hối của một số nước như Nhật Bản(1983), Anh (1979), Thuỵ Điển (1980)... đã thúc đẩy mạnh mẽ dòng đầu tư ra nước ngoài của những quốc gia này. 2.2 Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài Việc ký kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư nươc ngoài. Các hiệp định đầu tư song phương và các hiệp định đa biên được ký nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, từ cuối những năm 80, số hiệp định đầu tư song phương giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển tăng nhanh khiến cho dòng đầu tư ra nước ngoài của các nước phát triển vào các nước đang phát triển cũng tăng theo. Cùng với các hiệp định trên, hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa nước đầu tư với nước ngoài cũng tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư bởi họ chỉ chịu một lần thuế ở nước nhận đầu tư mà thôi. 10
- Việc các nước đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cũng là yếu tố tác động mạnh đến luồng đầu tư ra nước ngoài. Chẳng hạn, năm 1992, chính phủ Nhật Bản tuyên bố bảo hiểm đầu tư cho các nhà đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam đã khiến cho dòng đầu tư của Nhật vào Việt Nam tăng mạnh. 2.3 Tiểm lực kinh tế, khoa học công nghệ và các chính sách xã hội Một nước chỉ có thể đầu tư ra nước ngoài khi tiềm lực kinh tế đã đủ mạnh, lượng tích luỹ lớn nên lượng vốn cần cho đầu tư trong nước dư thừa. Như vậy, mức độ tích luỹ của nền kinh tế có vai trò làm tăng hoặc giảm áp lực đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Trình độ khoa học công nghệ luôn là một lợi thế cho nước đầu tư. Một nước có khả năng nghiên cứu thường là nước tạo ra công nghệ nguồn và quyết định giá cả công nghệ trên thị trường. Các công nghệ nguồn tạo ra lợi thế cạnh tranh độc quyền và cần sản xuất với quy mô lớn, đây chính là yếu tố quyết định để đầu tư ra nươc ngoài. Thông thường việc đầu tư ra nước ngoài và tạo việc làm trong nước có mối quan hệ ngược với nhau, việc tăng cường đầu tư ra nước ngoài dẫn tới giảm đầu tư nội địa và cùng nghĩa với việc giảm cơ hội tạo việc làm trong nước, tăng tình trạng thất nghiệp và gia tăng tệ nạn xã hội. Nếu nuớc đầu tư có chính sách trợ cấp xã hội tốt dặc biệt là trợ cấp thát nghiệp sẽ làm giảm áp lực của làn sóng phản đối đầu tư ra nước ngoài. 3. Môi trường đầu tư quốc tế 3.1. Xu hướng dối thoại giữa các nước Xu hướng đối thoại chính trị được hiểu là việc giải quyết xung đột giữa các nước được thực hiện bằng đàm phán, là yếu tố quan trọng tác động tích cực tới luồng đầu tư trên thế giới. 3.2. Liên kết khu vực Sự tạo ra các khối thị trường chung cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy dòng đầu tư bởi tuy không đưa ra những chính sách trực tiếp song thông qua các chính sách tự do hoá thương mại đã xoá bỏ rào cản giữa các nước. Việc liên kết khu vực tạo sự phát triển ổn định cho các nước thành viên, đồng thời buộc các nước cam kết những chính sách tự do hoá đầu tư tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. 11
- Chương Hai Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài I/ Khái quát về môi trường đầu tư tại Việt Nam thời gian qua 1) Vài nét về Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực từ năm 1/1/1988, là một trong những cải cách quan trọng được hình thành trong khuôn khổ đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tuy nhiên, Bộ luật này còn rất nhiều điều chưa đồng bộ, chưa hoàn thiện và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế cần được sửa đổi. Chính vì vậy, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ xung lần thứ nhất vào ngày 30 tháng 6 năm năm 1990, lần thứ hai vào tháng12 năm 1992 và đặc biệt Luật đầu tư nước ngoài được tiến hành sửa đổi bổ xung lần thứ 3 vào cuối năm 1996 với một số nội dung mới như sau: - Quy định một số điều kiện cởi mở hơn nhằm khuyến khích ĐTNN tập trung vào các hướng ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. - Theo Luật ĐTNN sửa đổi lần 3, chế độ miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu bị thu hẹp để xích lại gần với chính sách thuế của doanh nghiệp trong nước nhằm đảm bảo sự bình đẳng hơn trong cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp. Ngược lại, ưu đãi nhiều hơn đối với các dự án có tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu cao, đầu tư vào những ngành ưu tiên. Mức ưu đãi cao nhất là thuế lợi tức: thuế suất áp dụng ở mức thấp 10% và được miễn thuế suất lợi tức 8 năm thay vì 4 năm trước đây và giảm 50% trong 4 năm tiếp theo như trước đây. - Ngoài những khuyến khích về thuế, luật năm 1996 còn quy định một số các chính sách và biện pháp khuyến khích hỗ trợ khác như: (1) Bảo đảm việc cân đối ngoại tệ cho các dự án quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam nhưng thiếu khả năng tự tái tạo ngoại tệ để thu hồi vốn. (2) Cho phép Bên nước ngoài góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc đầu tư tại VN thay vì chỉ bó hẹp bằng ngoại tệ phải chuyển từ nước ngoài vào như trước đây. (3) Cho phép đầu tư theo một số hình thức mới như BTO, BT, BOT. (4) Thu hẹp tối đa vần để phải biểu quyết 100% trong Hội đồng quản trị xuống còn 4 vấn để chính là bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng giám đốc, phó tổng giám đốc thứ nhất, Kế toán trưởng; duyệt quyết toán thu chi hàng năm; sửa đổi bổ sung điều lệ doanh nghiệp, vay vốn đầu tư. (5) Cho phép bệnh viện, trường học viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên được hợp tác đầu tư với nước ngoài. Như vậy, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, theo luật lần này tuy có một số quy định thay đổi theo hướng bất lợi cho họ như thuế nhập khẩu vật tư. Bù lại, họ 12
- được ưu đãi nhiều hơn, được hỗ trợ nhiều hơn, cụ thể hơn khi thực hiện các dự án thuộc diện khuyến khích. Việc đẩy mạnh CNH-HĐH trong thời kỳ mới đăt ra những yêu cầu mới do đó Luật ĐTNN được sửa đổi bổ xung lần 4 được tiến hành sửa đổi vào tháng 6 năm 2000 với các định chế hướng vào ngành vùng ưu tiên như ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu, công nghệ cao, CN cơ khí, điện tử là những ngành mà ta có thế mạnh nguyên liệu và lao động. Cụ thể luật ĐTNN sửa đội một số vấn đề sau: - Tiếp tục thu hẹp phạm vi quy định về nguyên tắc nhất trí trong doanh nghiệp liên doanh. - Tạo điều kiện cho nhà ĐTNN tự do lựa chọn hình thức và chuyển nhượng vốn đầu tư cho phù hợp với thông lệ quốc tế hơn. - Giảm bớt mức can thiệp của nhà nước vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong DN liên doanh bằng việc sửa lại quỹ dự phòng do doanh nghiệp quyết định (trước đây giới hạn ở mức 10% vốn phấp định của doanh nghiệp). - Một số quy định về tài chính, ngoại hối đã được sửa đổi hoặc luật hoá: (1) Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài: điều chỉnh từ mức 5%, 7% và 10% xuống còn 3%, 5% và 7%. (2) Về quy định chuyển lỗ: mở rộng phạm vi đối tượng điều chỉnh bao gồm cả DN liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh( trước đây chỉ có DNLD). (4) Về quản lý ngoại hối: các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được mua ngoại tệ ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai và các giao dịch khác được phép theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối (trước đây là doanh nghiệp phải tự cân đối). (5) Vè thế chấp tài sản vay vốn: cho phép các doanh nghiệp có vốn ĐTNN được thế chấp tài sản gắn liền đất và giá trị quyền sử dụng đất để đảm bảo vay vốn tại các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam. Bên cạnh Luật ĐTTN, Chính phủ và các cấp ngành có liên quan đã ban hành hàng loạt các văn bản dưới luật để ngày càng hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ĐTNN ở Việt Nam. Nói tóm lại, kể từ khi Luật ĐTNN chính thức có hiệu lực, trong quá trình thực hiện nhà nước ta đã bổ sung nhằm hoàn thiện dần và ngày càng lôi cuốn được các nhà đầu tư. Nếu so sánh với các nước ASEAN Luật ĐTNN của Việt Nam đã đạt tới mức tương đối hấp dẫn tuy nhiên vẫn cần phải tiếp tục hoàn thiện để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế nhằm thu hút và thực hiện có hiệu quả hơn nữa đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 2) Vài nét về kinh tế- xã hội 2.1 Về tình hình phát triển kinh tế: 13
- Sau một số năm giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính khu vực và những khó khăn nội tại nền kinh tế, từ năm 2000, nền kinh tế của Việt Nam đã và đang ngày càng được phục hồi duy trì được khả năng tăng trưởng cao. Kinh tế phát triển theo chiều hướng tích cực, năm sau tăng hơn năm trước + Trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể về cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm. Kinh tế nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề, tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, giảm sản xuất thuần nông. Nhiều làng nghề đã được khôi phục, cơ sở hạ tầng nông thôn nhất là đường giao thông, thuỷ lợi, cấp điện, cấp nước, trường học, bệnh xá, chợ... đã được chú ý đầu tư. Thu nhập của người nông dân cũng từng bước được cải thiện. + Trong công nghiệp đã có bước tiến khá rõ nét trong việc cơ cấu lại sản xuất đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, hình thành một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghiệp kỹ thuật cao tạo cơ sở ban đầu cho công nghiệp hoá, hiện đại hóa; phát huy lợi thế của từng ngành, gắn sản xuất với thị trường, sản phẩm tiêu thụ khá. + Các ngành dịch vụ đã có bước chuyển biến tích cực, theo hướng đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Ngành thương mại hoạt động sôi nổi đảm bảo lưu thông hàng hoá và vật tư trong cả nước và trong từng vùng. Dịch vụ vận tải hành khách và hàng hoá tiếp tục phát triển, cơ bản đáp ứng được nhu cầu giao lưu hàng hoá và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính viễn thông phát triển nhanh, mạng lưới viễn thông về cơ bản đã được hiện đại hoá, chất lượng dịch vụ được cải thiện trong khi giá cả liên tục giảm dần. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn pháp luật, y tế, giáo dục đào tạo... đều có những bước phát triển khá so với thời kỳ trước năm 2000. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuồng còn 24,5 % trong năm 2000 xuống còn 20,4% năm 2009, các ngành sản xuất dịch vụ đã có sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực và hiệu quả, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các cân đối chủ yếu trong nến kinh tế như cân đối tích luỹ – tiêu dùng, tổng thu- tổng chi ngân sách đã bắt đầu được duy trì với một mức độ thích hợp để đảm bảo duy trì khả năng tăng trưởng kinh tế. Cuối cùng, các quan hệ quốc tế được củng cố và mở rộng bằng việc gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực, các cam kết quốc tế đa phương và song phương. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều yếu kém tồn tại cần khắc phục như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, kém bền vững, lĩnh vực xuất nhập khẩu còn gặp nhiều khó khăn, 14
- việc sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế đạt hiệu quả chưa cao... trong quá trình phát triển và hội nhập săp tới. 2.2 Về các mặt văn hoá - xã hội: Nhìn chung, các hoạt động xã hội đều có bước phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện, tình hình chính trị và an toàn xã hội được đảm bảo. Cụ thể là: + Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được các kết quả đáng khích lệ. + Số lượng lao động được giải quyết việc làm cũng như cơ cấu lao động có sự dịch chuyển theo hướng tích cực. + Hệ thống cung cấp y tế đã được mở rộng và ngày càng hoàn thiện, tuổi thọ bình quân ngày càng được nâng lên. + Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả khá. + Lĩnh vực văn hoá thông tin và thể dục thể thao đã có những hoạt động sôi nổi thúc đẩy các hoạt động kinh tế và ổn định đời sống xã hội. + Cơ cấu lao động đã sự chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ lệ thất nghiệp giảm, tỷ trong lao động lao động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm trong khi tỷ trọng lao động làm việc trong các ngành lao động, dịch vụ lại tăng lên + Lĩnh vực giáo dục đã có những chuyển biến tích cực trong các bậc học, ngành học. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đat được, về mặt văn hoá - xã hội vẫn còn rất nhiều vấn đề bức xúc như tệ nạn xã hôị, nạn tham nhũng, tai nạn giao thông, trật tự trị an ở một số vùng còn phức tạp... cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới. II/ Vai trò của FDI tại Việt Nam thời gian qua. 1)Các số liệu thực hiện: 1.1) Về quy mô vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Theo“Báo cáo nghiên cứu đánh giá giữa kỳ,dựa trên kết quả kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm2006-2010”(Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa thực hiện đó cho thấy: “Số vốn FDI đăng ký và thực hiện tăng kỷ lục trong cả ba năm, năm sau cao hơn năm trước, nên tỷ trọng FDI trong tổng vốn đầu tư xã hội tăng từ 14,9% năm 2005 lên 31,5% năm 2008. Điều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào môi trường kinh doanh minh bạch và thuận lợi hơn sau khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO.” Trong Năm 2009, do tình hinh kinh tế có nhiều biến động.Thế giới lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế.Nên tổng số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam thấp.Trong 11 tháng đầu năm 2009,các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 19,7 USD,bằng 28% so với cùng kỳ năm 2008.Tuy nhiên,chất lượng lại rất đáng lạc quan. Theo phân tích của Tiến Sỹ Võ Trí Thành Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, số vốn FDI đầu tư vào Việt Nam nhiều hay ít ở thời 15
- điểm này không phải là vấn đề cốt lõi mà điều quan trọng nhất là thực hiện nguồn vốn đó như thế nào và thực hiện được bao nhiêu. Nguồn FDI năm 2007, 2008 cam kết đầu tư cho Việt Nam rất lớn, việc mở rộng đầu tư của những doanh nghiệp FDI đang hoạt động sản xuất kinh doanh ở Việt Nam cũng cung cấp thêm lượng vốn không nhỏ. Mặc khác, con số hơn 10 tỷ USD vốn FDI (trong 7 tháng đầu năm 2009) cho thấy ngay trong bối cảnh khó khăn này vẫn có những lĩnh vực, những khu vực kinh tế của Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong con số 10 tỷ USD cam kết đầu tư nước ngoài có nhiều dự án du lịch, bất động sản – đây đều là những lĩnh vực có sức hút đối với đầu tư dài hạn, và các nhà đầu tư nước ngoài thường gọi là đặt chỗ để đón đầu triển vọng phát triển của Việt Nam trong tương lai. Chia sẻ thêm về điều này, Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Phan Hữu Thắng cũng cho rằng con số 10 tỷ USD của 7 tháng đầu năm tuy chỉ bằng 18,8% của năm ngoái nhưng cũng không phải là con số quá bi quan. Thực tế thì với các điều kiện của Việt Nam hiện nay, mỗi năm nền kinh tế cũng chỉ có thể hấp thụ khoảng 10 tỷ USD, vậy mà trong 7 tháng, chúng ta đã giải ngân được gần 50% số này trong bối cảnh kinh tế khó khăn như vậy, đây là một sự nỗ lực rất đáng khích lệ. 1.2) Về cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Trên phương diện cơ cấu kinh tế, FDI được tập trung vào lĩnh vực sản xuất. Công nghiệp nặng được xếp hàng đầu với khoảng 21% tổng FDI đăng ký, tiếp theo là xây dựng và khách sạn, nhà ở. Nông nghiệp, ngư nghiệp và lâm nghiệp chỉ chiếm khoảng 6% tổng số vốn cam kết mặc dù Chính phủ Việt Nam đã áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi để khuyến khích FDI trong những lĩnh vực này. Sự đóng góp của FDI vẫn thể hiện một vị trí tương đối nhỏ trong các lĩnh vực dịch vụ do vẫn còn rào cản lớn. Các lĩnh vực này bao gồm cả ngân hàng, viễn thông, quảng cáo, văn hoá, y tế và giáo dục. Với mối lo nếu như mở rộng các lĩnh vực này sẽ ảnh hưởng lớn đến các công ty nội địa hoặc đưa các lĩnh vực này nằm ngoài sự kiểm soát của Chính phủ, Chính phủ đã ban hành hàng loạt quy định hạn chế FDI trong các lĩnh vực này (cụ thể là dự án 100% vốn nước ngoài trong viễn thông, quảng cáo, …). Quy tắc này có thể cần được thay đổi do Hiệp định Thương mại Song phương và việc Việt Nam tham gia vào WTO. Đóng góp theo lĩnh vực của FDI thể hiện sự thay đổi cơ cấu trong suốt 10 năm qua. Trong giai đoạn đầu, trọng tâm của dòng FDI có vẻ như được đặt vào thị trường dịch vụ trong nước như xây dựng, khách sạn và nhà ở, nguyên liệu xây dựng, ngân hàng và tài chính, viễn thông. Thời gian trôi qua, nhiều hoạt động FDI liên quan đến sản xuất hàng xuất khẩu như may mặc, điện tử, đẫ trở nên rõ nét hơn. Xu hướng này dẫn đến sự thay đổi từ khuyến khích về vốn sang khuyến khích về công nghiệp lao động. Điều đó có thể dễ nhận thấy qua việc tiếp tục giảm quy mô trung bình của dự án đầu tư. Xu hướng này phản ánh sự thay đổi của các chính sách FDI từ thay thế hàng nhập khẩu sang các hàng xuất khẩu. Trên cơ sở các điều kiện của thị trường, đây không phải là một dấu hiệu bất lợi. Một yếu tố quan trọng dẫn đến sự thay đổi trong mô hình FDI là sự phát triển về số lượng các nhà đầu tư doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). 16
- Như vậy, FDI chủ yếu tập trung hướng mạnh vào xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng... trong khi tỷ trọng đầu tư vào các ngành dịch vụ và đặc biệt là lĩnh vực nông- lâm- nghư nghiệp chưa cao nguyên nhân là do tỷ suất lợi nhuận không cao, độ rủi ro lớn và thường phải đầu tư ở vùng sâu, vùng xa nơi có điều kiện kinh tế- xã hội còn khó khăn. Về cơ cấu vùng, lãnh thổ FDI đã có sự phân bố đồng đều hơn. Tuy nhiên, các vùng kinh tế trọng điểm nơi có các tỉnh, thành phố lớn vẫn là nơi dẫn đầu trong việc thu FDI đặc biệt là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút tới 41, 8%. 2) Đánh giá tình hình thực hiện FDI thời gian qua 2.1) Thành tựu Trong thời gian từ 2006-2009 hoạt động FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội đặc biệt là đối với vấn đề tăng trưỏng kinh tế. Cụ thể là: - FDI đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. Thực vậy, Khu vực kinh tế có vốn FDI luôn là khu vực phát triển năng động, với tốc độ tăng trưởng cao, luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của cả nước đã góp phần tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của cả nước.Bình quân mối năm, khu vực kinh tế có vốn FDI đã bổ sung trên 2,5 tỷ USD nguồn vốn cho đầu tư phát triển. - Việc tăng cường thu hút FDI hướng về xuất khẩu đã góp phần quan trọng nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện khai thác tốt các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương. Ngoài ra, khu vực FDI đã góp phần mở rộng thị trường trong nước, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt trong lĩnh vực khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế. - Việc thu hút FDI đã chú trọng nhiều hơn đến chất lượng, phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ tại Việt Nam. 17
- Năm 2009, khu vực FDI đã tạo ra 36,2% giá trị sản lượng công nghiệp, 32,7% sản lượng thép cán, 50,3% về sứ vệ sinh, 89,4% về ô tô, 25% về thực phẩm và đồ uống, 76% về dụng cụ y tế... Đối với các địa bàn trọng điểm (Hà nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu...) khu vực có vốn FDI đã chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, giá trị sản xuất công nghiệp, xuất khẩu, thu ngân sách, cũng như góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nhờ đó các địa phương này có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn nhiều so với các nơi khác trong cả nước. Ngoài ra, việc thu hút FDI đã chú trọng kết hợp các dự án công nghệ hiện đại với các dự án thu hút nhiều lao động đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ trong nhiều ngành nghề, nâng cao trình độ kinh nghiệm quản lý kin h doanh từ đó góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước cải tiến chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh. Thông qua sự đóng góp của khu vực FDI, các quan hệ thương mại, đầu tư giữa Việt Nam với các nước ngày càng mở rộng đã tạo thêm nhu cầu và khả năng phát triển các ngành dịch vụ. Ngược lại, sự phát triển của các ngành dịch vụ cũng góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 2.2) Hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động FDI trong thời gian qua vẫn còn nhiều mặt hạn chế cần khắc phục. Cụ thể là: - Vốn đầu tư đăng ký tuy tăng, nhưng vẫn còn dưới mức tiềm năng. - Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng qua các năm nhưng tỷ trọng vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần do vốn FDI thực hiện tăng chậm hơn so với vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Tỷ trọng FDI giảm từ 24% trong thời kỳ 1996 -2000 xuống còn khoảng 17,6% trong thời kỳ 2001- 2004. Thời kỳ 2005-2009 chỉ còn 13,8% - Việc thu hút vốn đầu tư trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp còn hạn chế, mặc dù đã có nhiều chính sách ưu đãi nhất định. - Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô và pháp luật còn nhiều bất cập, gây tác động tâm lý cho nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta chưa thật sự hình thành được một “sân chơi bình đẳng” giữa đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Một số lĩnh vực sản xuất còn áp dụng các biện pháp hạn chế đầu tư nước ngoài như xi măng, sắt, thép, điện, nước. - FDI chỉ tập trung chủ yếu vào những vùng có điều kiện thuận lợi, trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc, một số tỉnh miền 18
- Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, đầu tư từ các nước phát triển nhất là các TNSs có thế mạnh về công nghệ nguồn như Nhật, EU, Mỹ còn tăng chậm. - Liên kết giữa khu vực kinh tế có vốn FDI với doanh nghiệp trong nước chưa chặt chẽ. Việc cung cấp nguyên vật liệu, phụ tùng của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp có vốn FDI còn hạn chế từ đó làm giảm khả năng tham gia chương trình nội địa hoá và xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. - Chủ trương phân cấp, uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư, quản lý hoạt động FDI cho các địa phương, Ban Quản lý các KCX đã phát huy tính năng động sáng tạo của các địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phân công quản lý hoạt động FDI cũng đã nẩy sinh hiện tượng cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương đã đến thua thiệt cho phía Việt Nam. - Công tác quy hoạch chưa được cải cách căn bản nhằm xác định lượng vốn đầu tư cần huy động của các ngành và trách nhiệm của Bộ, các ngành và địa phương trong cong tác thu hút vốn FDI. Kể từ tháng 10/2006, chính quyền địa phương đã được trao gần hết quyền cấp phép các dự án FDI. Đây là một bước đi được coi là đúng đắn. Nhưng, ba điều kiện tiên quyết để phân cấp quản lý đầu tư và xây dựng có hiệu quả đã bị xem nhẹ hoặc lãng quên. Đó là: năng lực của cơ quan được phân cấp phải đủ mạnh để thực hiện nhiệm vụ được giao; quyền được phân cấp phải gắn liền với trách nhiệm về quyết định đã ra; phải có các chế tài kiểm tra, giám sát thường xuyên. Đê có thể chọn lọc được các dự án FDI phù hợp với lợi ích dài hạn của quốc gia cần phải có bộ máy thẩm định, đánh giá dự án có năng lực. Tuy nhiên, không phải địa phương nào cũng có đủ năng lực đánh giá dự án. Trách nhiệm về việc ra quyết định phê duyệt dự án sai cũng ít khi bị truy cứu và có biện pháp sử lý thích đáng. Công tác giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có Bộ Kế hoạch và Đầu tư vẫn còn những bất cập... Đó là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến bảy nguy cơ tiềm ẩn trong nhiều dự án đầu tư mới đăng ký gần ba năm qua tại Việt Nam. Bao gồm: Nguy cơ “thổi phồng” về vốn và lợi nhuận; nguy cơ sử dụng quá nhiều nguồn lực khan hiếm hoặc đang thiếu trầm trọng như đất đai, năng lượng, tài nguyên thiên nhiên; nguy cơ hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường; nguy cơ không phù hợp với quy hoạch phát triển dài hạn, hoặc gây mất cân đối về cơ cấu trong quá trình phát triển dài hạn; nguy cơ sử dụng công nghệ lạc hậu, thải loại; Nguy cơ “cướp vốn” của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Và cuối cùng là nguy cơ thiếu hụt ngoại tệ và rủi ro tỷ giá. Nguyên nhân của những mặt hạn chế nói trên là : Thứ nhất, nhận thức và quan điểm về FDI chưa thực sự thống nhất và chưa được quán triệt đẩy đủ ở các cấp, các ngành. Sự phối hợp giữa các cơ quan 19
- quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài còn yếu, đôi khi còn chưa thống nhất quan điểm giữa các Bộ, ngành nên công tác xử lý dự án, thẩm định dự án còn tình trạng kéo dài. Thứ hai, môi trường đầu tư nước ta tuy đã được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, môi trường kinh tế, môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa đồng bộ. Thứ ba, công tác quản lý nhà nước về đâu tư trực tiếp nước ngoài còn nhiều yếu kém, các quy định về về thủ tục hành chính còn phiền hà, công tác cán bộ còn nhiều bất cập. Thứ tư, công tác xúc tiến đầu tư tuy đã có nhiều cố gắng nhưng gặp khó khăn lớn do thiếu kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài cũng như để hoàn chỉnh các tài liệu xúc tiến đầu tư. Xúc tiến đầu tư chưa chú trọng đến các đối tác quan trọng, các dự án điểm. Danh mục dự án kêu gọi FDI còn hạn chế về chủ trương và quy hoạch. Thứ năm, việc đa dạng hoá các hình thức FDI để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới cũng như việc thành lập và triển khai một số khu kinh tế mở còn chậm. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị nhân sự tại công ty xe đạp- xe máy Đống Đa - Hà Nội
78 p | 2265 | 1290
-
Luận văn: “Một số giải pháp hỗ trợ và thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT sang thị trường Nhật Bản”
85 p | 767 | 343
-
Luận văn: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng TMCP Phương Nam
72 p | 848 | 342
-
Luận văn: Một số giải pháp Marketing nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Thiết bị và phát triển chất lượng
67 p | 691 | 306
-
Luận văn "Một số giải pháp thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào VN"
63 p | 401 | 185
-
Luận văn: Một số giải pháp chủ yếu góp phần phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế
106 p | 409 | 159
-
Luận văn “Một số giải pháp nhằm thu hút FDI vào các KCN trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”
35 p | 368 | 136
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng theo chuẩn mực và thông lệ Ngân hàng quốc tế
144 p | 304 | 111
-
Luận văn: “Một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty Dệt May Hà Nội”
68 p | 320 | 92
-
Luận văn - Một số giải pháp nâng cao hiệu quả TTHH ở Công ty Thương Mại Gia Lâm Hà Nội
46 p | 213 | 82
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của đạo đức tín đồ Công giáo trong quá trình đổi mới của địa phương và của đất nước
71 p | 525 | 81
-
Luận văn: " Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty dâu tằm tơ I- Hà Nội "
72 p | 240 | 79
-
Luận văn: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động kế toán và nâng cao chất lượng thông tin kế toán trong các doanh nghiệp Việt Nam
93 p | 248 | 58
-
Luận văn: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu tại Công ty Cổ phần xuất nhập khẩu thương mại Việt Tuấn
66 p | 197 | 48
-
Luận văn: Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm bia hơi tại Công ty sản xuất kinh doanh đầu tư và dịch vụ Việt Hà
72 p | 175 | 26
-
Luận văn: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TUYỂN DỤNG GIÁO VỤ TẠI CÔNG TY TNHH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THẦN ĐỒNG.
75 p | 170 | 22
-
Luận văn: Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
42 p | 162 | 21
-
Luận văn: Một số giải pháp tài chính chủ yếu nâng cao hiệu quả tổ chức sử dụng vốn kinh doanh tại công ty cổ phần Thiờn Tõn
52 p | 156 | 19
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn