intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: Một số vấn đề chủ yếu về hoạt động đầu tư chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn 2000-2006

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:51

129
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thị trường chứng khoán (TTCK) được xem là đặc chưng cơ bản,là biểu tượng của nền kinh tế hiện dại.Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế,phù hợp với các diều kiện kinh tế chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhà nước ta xác định TTCK là …

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: Một số vấn đề chủ yếu về hoạt động đầu tư chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn 2000-2006

  1. LUẬN VĂN: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHÚNG KHOÁN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2006
  2. A.LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán (TTCK) được xem là đặc ch ưng cơ bản,là biểu tượng của nền kinh tế hiện dại.Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế,phù hợp với các diều kiện kinh tế chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế nhà nước ta xác định TTCK là một công cụ rất quan trọng trong việc huy động vôn cho công cuôc công nghiệp hóa ,hiện đại hóa đất nước.Sau 6 năm hoạt động và phát triển TTCK Việt Nam với những thành tưu đạt đựợc đầy ấn tượng đã là một minh chứng cho sự chuyển đổi thành công sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam.Một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy vảo sự phát triển của TTCK đó là sự sôi động của hoạt động đầu tư trên TTCK .Đây là hình thức đầu tư còn khá mới mẻ dối với nhà đầu tư Việt Nam.Với mong muốn có cái nhìn tổng quan và rõ ràng về hinh thức đầu tư này tôi đã chọn đề tài : “ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHỦ YẾU VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHÚNG KHOÁN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000- 2006 “. Ngoài lời mở đầu và kết luận,nội dung đề án gồm 3 phần: Phần I : Hoạt động đầu tư chứng khoán ở việt nam giai đoạn 2000-2006 Phần II : Một số kiến nghị về giải pháp nhằm phát triển hoạt động đầu tư chứng khoán ở Việt Nam. PHẦN I: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2006. I. Tổng quan về TTCK ỏ Việt Nam 1. Một số khái niệm 1.1Chứng khoán 1.1.1/Khái niệm
  3. Chứng khoán là những giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nh ượng, xác định số vốn đầu tư ( tư bản ban đầu); chứng khoán xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời gian nào đó. 1.1.2/Đặc điểm của chứng khoán Chứng khoán là một tài sản tài chính có các đặc điểm cơ bản sau: Tính thanh khoản( Tính lỏng) : Tính lỏng của tài sản là khả năng chuyển tài sản đó thành tiền mặt. Khả năng này cao hay thấp phụ thuộc vào khoảng thời gian và phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Chứng khoán có tính lỏng cao hơn so với các tài sản khác, thể hiện qua khả năng chuyển nhượng cao trên thị trường và nói chung, các chứng khoán khác nhau có khả năng chuyển nhượng là khác nhau. Tính rủi ro : Chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống. Rủi ro có hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới toàn bộ hoặc hầu hết các tài sản. Loại rủi ro này chịu tác động của các điều kiện kinh tế chung như: lạm phát, sự thay đổi tỷ giá hối đoái, lãi suất…. Rủi ro không hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản. Loại rủi ro này thường liên quan tới điều kiện của nhà phát hành. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét, đánh giá các rủi ro liên quan, trên cơ sở đó đề ra các quyết định trong việc lựa chọn, nắm giữ hay bán các chứng khoán. Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức - người ta sẽ không chịu rủi ro tăng thêm trừ khi người ta kỳ vọng được bù đắp lợi tức tăng thêm. Tính sinh lợi : Chứng khoán là một tài sản tài chính mà khi sở hữu nó, nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai. Thu nhập này được bảo đảm bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài
  4. sản , thể hiện trong nguyên lý - mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn. 1.1.3/Phân loại Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, chứng khoán có thể được chia theo ba tiêu thức chủ yếu, đó là theo tính chất của chứng khoán, theo khả năng chuyển nhượng và theo khả năng thu nhập -Phân loại chứng khoán theo tính chất : các loại chứng khoán được phân thành : Chứng khoán vốn Chứng khoán nợ Các chứng khoán phái sinh -Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng Chứng khoán vô danh Chứng khoán ký danh -Phân loại chứng khoán theo khả năng thu nhập Chứng khoán có lợi tức ổn định Chứng khoán có lợi tức không ổn định 1.2Thị trường chứng khoán 1.2.1/Khái niệm Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi, chuyển nhượng các loại chứng khoán nhằm mục đích kiểm lời. Các giao dịch có thể diễn ra ở thị trường sơ cấp ( Primary Market) hay thị trường thứ cấp (Secondary Market), tại Sở giao dịch (Stock Exchange) hay thị trường chứng khoán phi tập trung (Over The Counter Market), ở thị trường trao ngay (Spot Market) hay thị trường có kỳ hạn (Future Market). Các quan hệ mua bán trao đổi này làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán, và nh ư vậy, thực chất đây
  5. chính là quá trình vận động của tư bản, chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Thị trường chứng khoán không giống với thị trường các hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường chứng khoán là một loại hàng hoá đặc biệt, là sở hữu về tư bản. Loại hàng hóa này cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Như vậy, có thể nói, bản chất của thị trường chứng khoán là thị trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư mà ở đó, giá cả của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu tư. Th ị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. 1.2.2/Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán (TTCK) - một đ ịnh chế tài chính hữu hiệu trong việc thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy và phát triển kinh tế và là công cụ quan trọng cho quá trình cổ phần hoá. Sự tạo lập và phát triển thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Chức năng cơ bản của TTCK: Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Qua TTCK, các công ty cổ phần có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn trong và ngoài nước cho sản xuất và kinh doanh. Nếu doanh nghiệp hoạt động tốt, có uy tín thì có thể tiếp túc gọi vốn bằng việc phát hành các cổ phiếu mới, đồng thời còn có thể phát hành các loại trái phiếu để vay tiền của công chúng mà không cần đến sự giúp đỡ của tín dụng ngân hàng. Các nguồn vốn nhàn rỗi sẽ được TTCK thu hút và chuyển tải trực tiếp vào các doanh nghiệp để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội; Chính phủ và chính quyền đ ịa phương sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu của xã hội bằng việc phát hành trái phiếu của mình. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
  6. Với số tiền tiết kiệm đã có, nhiều người phân vân không biết đặt chúng vào đâu. Sự ra đời của TTCK đã cung cấp môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội đầu tư phong phú cho công chúng. Phần lớn các công cụ của TTCK đều có khả năng mang lại lợi ích do được hưởng lãi suất. Các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại chứng khoán phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình bởi các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro. Vai trò của thị trường chứng khoán: Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán. Nhờ TTCK, khả năng thanh khoản của các chứng khoán đ ược nâng cao, điều này làm tăng tính hấp dẫn của chứng khoán đối với nhà đầu tư, tạo tính linh hoạt và an toàn của vốn đầu tư. Nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Là công cụ để Nhà nước thực hiện chương trình phát triển KT-XH Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn đ ịnh và phát triển kinh tế. Ngân sách Nhà nước càng lớn thì ch ương trình phát triển kinh tế-xã hội càng dễ thành công. Nguồn thu chủ yếu của Ngân sách là thuế. Muốn có nguồn thu thuế dồi dào cần phải khuyến khích thành lập nhiều doanh nghiệp và mở rộng quy mô doanh nghiệp. Vốn của TTCK là tiền đề cơ bản cho sự nghiệp trên. Đây là chính sách bồi dưỡng nguồn thu cho Ngân sách. Trong thời gian ngân sách không đủ để chi tiêu thì nguồn thu khác là phát hành chứng khoán: trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương…Tính thanh khoản của TTCK sẽ giúp cho việc phát hành các công cụ tài chính này được dễ dàng hơn. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Để huy động vốn thông qua TTCK bằng việc phát hành chứng khoán, doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện như: kinh doanh hợp pháp, tài chính lành mạnh, có doanh lợi… và với sự tự do lựa chọn của người đầu tư, để bán được chứng
  7. khoán không có cách nào khác là những nhà quản lý doanh nghiệp phải tính toán, làm an đàng hoàng và có hiệu quả. Góp phần đánh giá đúng đắn doanh nghiệp, dự đoán tương lai. Các doanh nghiệp có chứng khoán niêm yết bắt buộc phải cung cấp định kỳ các thông tin về tình hình hoạt động, điều này cho phép các nhà đầu tư có một cách nhìn chính xác về doanh nghiệp đó, giúp họ đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện. Đồng thời, sự hình thành thị giá chứng khoán của doanh nghiệp niêm yết trên TTCK cũng đã bao hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó ở h iện tại và dự đoán trong tương lai. Từ đó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao h iệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Thước đo nền kinh tế trong từng thời kỳ. Khi chỉ số chứng khoán tăng nghĩa là giá trung bình các cổ phiếu tăng, đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp có cổ phiếu được tính trong chỉ số chứng khoán đang làm ăn phát đạt. Theo logic, nó là một hàn thử biểu phản ánh tình trạng của toàn bộ nền kinh tế. 1.3 Hoạt động đầu tư chứng khoán 1.3.1Khái niệm Đầu tư chứng khoán là một sự ký thác tiền hoặc các nguồn lực kinh tế khác với hị vọng sẽ thu được lợi nhuận trong tương lai. 1.3.2.Hoạt động đầu tư chứng khoán Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi luân chuyển và phân bổ các nguồn vốn từ khu vực có lợi nhuận thấp sang khu vực có lợi nhuận cao hơn, tạo điều kiện cho các nguồn vốn được sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Vì vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán được xem là hoạt động cơ bản nhất của thị trường. Tuy vậy, cũng như bất kỳ hoạt động kinh tế nào, bên cạnh hoạt động đầu tư chứng khoán thị hoạt
  8. động đầu cơ, hay các nhà kinh tế còn gọi là hoạt động đầu tư mang tính đầu cơ, cũng song song tồn tại và là nhân tố hết sức quan trọng và phức tạp trên TTCK. Đầu tư và đầu cơ chứng khoán là hai hoạt động kinh doanh đều nhằm mục tiêu thu lợi nhuận. Hai hoạt động này tuy có tính chất độc lập với nhau nhưng giữa chúng có một ranh giới hết sức mong manh. Để phân biệt được hai hoạt động này, trước hết chúng ta phải hiểu một cách thống nhất bản chất của hoạt động đầu tư và đầu cơ chứng khoán là gì. Ở nước ngoài, công chúng- những người mua chứng khoán- được gọi là các nhà đầu tư ch ứng khoán với ý nghĩa kinh tế của từ này. Các nhà đầu tư này là những người quyết định đầu tư vốn của mình vào một loại chứng khoán của một công ty nào đó trên cơ sở phân tích, thẩm đ ịnh một cách cẩn thận tình hình hoạt động, tình hình tài chính của doanh nghiệp đó, và quyết định giữ các chứng khoán này trong một thời gian dài với kỳ vọng vào các dự án đầu tư của công ty sẽ mang lại cho họ một tỷ suất sinh lời cao trong tương lai, dẫn đến sự gia tăng giá trị của doanh nghiệp và cũng có ngh ĩa là làm cho số vốn nhà đầu tư bỏ vào công ty tăng lên theo. Thật ra khi nhà đầu tư bỏ vốn của mình vào một công ty, cũng đồng nghĩa là họ mua tương lai của công ty đó. Người đầu tư đặt niềm tin vào đội ngũ quản lý điều hành công ty với hi vọng họ sẽ đem lại lợi nhuận cho mình. Như vậy, một nhà đầu tư thực thụ chỉ quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận cao, có tính chất ổn định trong một thời gian dài. Nhà đầu cơ là những người mua bán chứng khoán để tìm kiểm lợi nhuận từ sự chờ đợi chênh lệch giá chứng khoán qua những lần mua di bán lại trên TTCK. Các nhà đầu cơ không hề có ý định nắm giữ chứng khoán trong một thời gian dài để mong đợi sẽ nhận được một tỷ suất sinh lời cao do chứng khoán đó mang lại, mà họ chỉ quan tâm đến việc mua vào bao nhiêu, bán ra bao nhiêu và lãi được bao nhiêu sau lần mua bán này. Vì vậy, những người đầu cơ chỉ quan tâm khai thác các thông tin có tính chất nhất thời, liên quan và ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, họ sẽ nỗ lực phân tích, thẩm định, dự đoán những khả năng gây tăng giá hoặc giảm giá chứng khoán trong thời gian ngắn để đưa ra quyết định mua sau bán trước. Như vậy,
  9. nhà đầu cơ tìm kiểm cơ hội sinh lợi lớn trong một thời gian ngắn, và dĩ nhiên họ quan tâm nhiều đến tỷ suất lợi nhuận cao, ở tính chất bất thường. Đôi khi trong thực tế, một người mua chứng khoán với mục đích ban đầu là đầu tư, nhưng do giá chứng khoán họ đang nắm giữ lại lên giá hoặc sụt giá một cách nhanh chóng khiến họ phải quyết định bán đi các chứng khoán mình đang nắm giữ nhằm kiểm lời từ sự chênh lệch giá mua bán, hoặc bán đi để hạn chế rủi ro khi giá xuống, và vô tình, họ đã trở thành một nhà đầu cơ chứng khoán tạm thời. Như vậy, để phân biệt giữa đầu tư và đầu cơ, cần phải xem xét vào từng trường hợp cụ thể. Trên thực tế, chúng ta có thể dựa vào một số tiêu chí sau để phân biệt giữa hoạt động đầu tư và đầu cơ: -Mục đích của nhà đầu tư: một loại chứng khoán có thể được mua với tính chất là đầu cơ hoặc đầu tư phụ thuộc vào việc người mua nó với mục đích như thế nào. -Thông thường nhà đầu tư mua chứng khoán trên cơ sở đã nắm vững được các thông tin về loại chứng khoán đó, chẳng hạn như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát thành, tỷ suất sinh lời của loại chứng khoán đó, trong lần trả lãi gần nhất là bao nhiêu. Còn nhà đầu cơ mua chứng khoán khi chưa nắm vững được hết tất cả các thông tin về công ty đó mà chỉ nắm được một lượng thông tin không đầy đủ về khả năng chứng khoán của công ty đó có thể sẽ tăng giá hoặc có thể giảm giá để đ ưa ra quyết định mua bán chứng khoán đó nhằm kiểm lời. -Trên thực tế, TTCK nào cũng có những nhà đầu cơ chuyên nghiệp, và trong nhiều trường hợp, họ sẵn sàng phao tin đồn nhảm, gây hoang mang trong công chúng đầu tư và kích động công chúng hối hả tìm mua hoặc vội vã bán đi một loại chứng khoán nào đó. Các nhà đầu cơ thường tìm cách cấu kết với nhau để tao ra một cơn sốt giá giả tạo về một loại chứng khoán và lôi cuốn công chúng đi vào vòng xoắn ốc, đẩy giá lên hoặc dìm giá xuống nhằm thu lợi bất chính. Và kết quả là công chúng, các nhà đầu tư không có đủ điều kiện tiếp cận hoặc phân tích thực trạng của các loại chứng khoán, phải mua các loại chứng khoán với mức giá quá cao so với
  10. giá tr ị thực tế của nó hoặc bán đi các chứng khoán mình đang nắm giữ với mức giá quá thấp so với giá trị thực tế. - Nhà đầu tư mua chứng khoán và nắm giữ trong một khoảng thời gian dài với mong muốn thu được một tỷ suất lợi nhuận cao và thu nhập ổn định; còn nhà đầu cơ mua ch ứng khoán với mục đích bán đi kiểm lời trên cơ sở chênh lệch giá mua và giá bán nhằm thu lợi nhuận tối đa. - Nhà đầu tư thường tập trung vào các loại chứng khoán có mức độ rủi ro thấp, ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu của các công ty tốt hay trái phiếu chính phủ có hệ số tín nhiệm cao, còn nhà đầu cơ thường hay tập trung vào các loại chứng khoán có mức độ rủi ro cao. -Như vậy, qua các mặt phân tích trên, chúng ta thấy ranh giới hết sức mong manh giữa đầu tư và đầu cơ chứng khoán. Tuy nhiên, kinh nghiệm thực tế ở các TTCK cho thấy, các nhà đầu cơ thường không hoạt động đơn độc, nhất là các nhà đầu cơ lớn, như nhà tài phiệt G.Soros. Các nhà đầu cơ có thể gây ra những tác động tiêu c ực cho hoạt động của TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung khi họ kết hợp với nhau tạo ra các cơn sốt giá giả tạo trên thị trường nhằm mục đích thu lợi nhuận cao. Vì vậy chúng ta cũng cần phải có các biện pháp để ngăn chặn hành vi này. -Bên cạnh những mặt mang tính trục lợi phần nào tiềm ẩn các hành vi bất hợp pháp, chúng ta có thể nói nhà đầu cơ cũng có vai trò tích cực làm cho hoạt động của TTCK có tính thanh khoản cao, hoạt động giao dịch trên trên thị trường thêm phần sôi động. Chẳng hạn ngay khi nền kinh tế Malaysia khủng hoảng hai năm về trước, Thủ tướng nước này ông Mahathir Mohamed cũng đã nói “ Chúng tôi mời đón những nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí chúng tôi đón cả các nhà đầu cơ…”. Còn cựu Bộ trưởng Bộ tài chính Hoa Kỳ, ông Robert Rubin đã nói về vai trò của nhà đầu cơ trong TTCK: “ Sự đầu cơ là một phần quan trọng trong toàn thể hoạt động của thị trường thứ cấp, nhà đầu cơ làm cho thị trường tiền tệ mạnh hơn, hoạt động hơn và giảm được phí mua bán”.
  11. -Như vậy có thể khẳng định vai trò của nhà đầu cơ trong TTCK là rất quan trọng. Họ là những người dám bỏ tiền ra mua chứng khoán khi có nhiều người bán mà không có người mua. Và ngược lại, họ cũng sẵn sàng bán khi có người cần mua nhưng không có người bán. Chính họ, bằng kinh nghiệm, óc kinh doanh và tiền bạc của mình, họ đã giúp cho hoạt động của thị trường không bị gián đoạn. Những người đầu cơ luôn chấp nhận rủi ro khi tham gia vào cuộc chơi. -Đầu tư và đầu cơ- là hoạt động thường xuyên và liên tục diễn ra trên TTCK. Có thể nói, trong hoạt động đầu tư đã nhen nhóm những yếu tố mang tính chất đầu cơ và ngay trong đầu cơ cũng có nhân tố của đầu tư. Thực tiễn hoạt động của TTCK có rất nhiều ví dụ sinh động về mối liên hệ hết sức chặt chẽ cũng như ranh giới mỏng manh giữa đầu tư và đầu cơ. Điều quan trong là TTCK luôn tạo ra các cơ hội trong khuôn khổ pháp lý nhất định cho các nhà đầu tư và các nhà đầu cơ thực hiện hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Khi vượt ra khỏi khung pháp lý cho phép thì cả đầu tư và đầu cơ có thể mang lại lợi nhuận siêu ngạch hoặc mang lại các hậu quả xấu cho công chúng đầu tư cũng như sự ổn định và phát triển lành mạnh của TTCK. 1.3.3.Các yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư chứng khoán. Sự hiểu biết về chứng khoán và thị trường chứng khoán của công chúng và các nhà đầu tư tuy còn hạn chế, nhưng đây không phải là nguyên nhân chủ yếu để ngăn cản sự tham gia của người đầu tư và các tổ chức đầu tư. Điều cần thiết là phải thiết lập một TTCK hoạt động công bằng, hay nói cách khác, người đầu tư thấy rằng mình tham gia vào đầu tư trong đó tất cả đều bình đẳng và có cơ hội ngang nhau để giành được lợi nhuận. Họ có thể chấp nhận những thất bại nếu thất bại này là khách quan tạo ra chứ không phải là do hoạt động của TTCK không có công bằng. Có thể thấy, một trong những yếu tố cơ bản làm ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư cần chú trọng các vấn đề sau: 1.3.3.1/ Rủi ro
  12. Khi nhà đầu tư quyết định tham gia TTCK thì họ sẽ nghĩ đến thu nhập từ sở hữu chứng khoán, có thu nhập từ việc mua và bán chứng khoán với giá cao. Tuy nhiên việc có thu nhập từ đầu tư chứng khoán không phải lúc nào cũng thuận lợi. Nó phụ thuộc vào uy tín và hiệu quả kinh doanh của công ty phát hành chứng khoán, vào tình hình phát triển của ngành, của toàn bộ nền kinh tế,… Tính chất không chắc chắn của việc đầu tư chứng khoán có thể xuất hiện nhiều kết quả khác nhau ngoài thu nhập dự kiến mà còn phải nói đến rủi ro trong đầu tư chứng khoán. Ở đây, không chỉ nhắc tới lợi ích và hiệu quả đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư, mà cần phải nhấn mạnh những khía cạnh rủi ro trên TTCK. Họ quá dè dặt trong đầu tư do chưa hiểu bản chất của TTCK. Do đó, đối với người đầu tư dù là đầu tư trực tiếp hay gián tiếp, bất kỳ nhà đầu tư nào cũng rất quan tâm đến hai vấn đề lợi tức và rủi ro.Phân tích và đánh giá rủi ro là một cấu thành không thể thiếu được trong việc ra quyết định đầu tư ch ứng khoán. 1.3.3.2/ Công bố thông tin tuyên truyền Vấn đề công bố thông tin công khai là một trong những nguyên tắc cơ bản mà các công ty niêm yết trên TTCK phải tuân thủ. Đây là điều hết sức cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, giúp cho các nhà đầu tư có đầy đủ thông tin cần thiết để “chọn mặt gửi vàng”. Nguyên tắc này, mọi thông tin có liên quan đến tổ chức có chứng khoán niêm yết trên thị trường cũng như liên quan đến thị trường đều phải được công bố công khai, kịp thời và chính xác. Hiện nay việc công bố thông tin bao gồm : Công bố thông tin định kỳ: Định kỳ hàng năm, bán niên hoặc hàng quý tổ chức niêm yết phải gửi các báo cáo tài chính lên TTGDCK ( trong đó báo cáo tài chính hàng năm phải được kiểm toán). Công bố thông tin tức thời : Khi có các s ự kiện xảy ra ảnh hưởng tới hoạt động của tổ chức niêm yết ( theo quy đ ịnh của UBCKNN) thì tổ chức niêm yết phải công bố ra công chúng.
  13. Công bố thông tin theo yêu cầu : Trong trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho người đầu tư UBCKNN, TTGDCK có quyền yêu cầu các tổ chức niêm yết phải công bố các thông tin liên quan. 1.3.3.3/ Tính thanh khoản của chứng khoán Chất lượng của một chứng khoán phụ thuộc vào mục tiêu hàng đầu của tính thanh khoản. Một cổ phiếu có tính thanh khoản cao nếu nhà đầu tư có thể bán một số lượng cổ phiếu mà chuyển đổi thành tiền mặt nhanh chóng trên TTCK dễ dàng. Đây cũng là sự quan tâm của các nhà nghiên cứu cũng như các nhà đầu tư. Khả năng tạo tính thanh khoản nhanh của TTCK cho mọi người nhận thấy không cần phải tồn quỹ. Tính thanh khoản của chứng khoán đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự thất bại hay thành công của thị trường đó, một thị trường có tính thanh khoản tốt sẽ tạo ra cho thị trường tính năng động hơn. Về cơ bản tính thanh khoản có thể áp dụng cho mọi loại công cụ giao dịch trên TTCK. Gồm 4 khía cạnh : Độ rộng : liên quan tới chi phí giao dịch như phí môi giới phát sinh từ việc mua và bán một số lượng cổ phiếu nhất định. Độ sâu: liên quan tới số lượng cổ phiếu có thể mua, bán ở mức giá nhất định. Một thị trường có độ sâu cho phép thực hiện các giao dịch lớn mà không gây ra các biến động lớn về giá. Độ tức thì : tốc độ thực hiện việc mua hoặc bán một số lượng cổ phiếu nhất định với một mức chi phí nhất định. Nếu trên một thị trường có tính thanh khoản cao thì lệnh mua, bán một số lượng lớn cổ phiếu có thể được thực hiện một cách nhanh chóng. Độ co giãn : phản ánh tốc độ của giá cổ phiếu sau các biến đ ộng về giá gây ra do sự xuất hiện của các lệnh mua bán mới trên thị trường nhằm giảm bớt sự mất cân bằng giữa số lượng cổ phiếu cần mua và cần bán trên thị trường. 1.3.3.4/ Tính sinh lợi
  14. Khi mua chứng khoán, nhà đầu tư luôn kỳ vọng vào tính sinh lợi của chứng khoán. Khi đầu tư,nhà đầu tư phải lựa chọn chứng khoán đ ưa vào danh mục đầu tư của mình. Có nhiều khái niệm về tỷ suất sinh lợi, tuỳ theo nhà đầu tư mua chứng khoán vốn hay chứng khoán nợ : Mua chứng khoán vốn ( mua cổ phần) : cổ phần mang lại cho người đầu tư hai khả năng sinh lợi. Cổ tức hàng năm, lời trên vốn cổ phần. Mua chứngkhoán nợ ( mua trái phiếu dài hạn) nhà đầu tư cần phân biệt về lợi suất. Lợi suất danh nghĩa, đây là lãi suất mà đơn vị phát hành trái phiếu ghi trên bề mặt của nó; Lợi suất hiện hành, được tính bằng cách lấy lãi của trái phiếu chia cho số tiền bỏ ra mua trái phiếu của nhà đầu tư. Lợi suất đáo hạn, lợi suất mà nhà đầu tư được h ưởng hàng năm khi mua trái phiếu dài hạn với giá hiện tại. 2.Lợi ích và rủi ro của hoạt dộng đầu tư ch ứng khoán. Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Tp.HCM ra đời và đi vào hoạt động sẽ thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng và các doanh nghiệp. Trên thực tế, thị trường chứng khoán (TTCK) là một môi trường kinh tế có tính xã hội hoá cao độ, sự tham gia của đông đảo các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức có ý nghĩa quyết định sự thành công của thị trường. Tuy nhiên, tham gia vào hoạt động TTCK, các nhà đầu tư cần phải biết rõ những lợi ích và rủi ro của loại hình hoạt động thị trường này. 2.1.Lợi ích trong đầu tư chứng khoán Đầu tư là quá trình nhà đầu tư mang vốn của mình sử dụng vào mục đích nhất định nhằm thu được một khoản tiền lớn hơn, và đầu tư chứng khoán cũng không nằm ngoài mục đích đó. So với các loại hình đầu tư khác, đầu tư chứng khoán có những ưu việt hơn, được thể hiện qua một số mặt chủ yếu : Thứ nhất, tạo thêm kênh huy động vốn đầu tư trung và dài hạn cho nền kinh tế. Khi các nhà đầu tu mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ đ ược đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng
  15. sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, TTCK đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. Thứ hai, chuyển vốn từ lĩnh vực, ngành, công ty này sang lĩnh vực, ngành, công ty khác một cách dễ dàng. Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể bán chứng khoán khi họ thấy chứng khoán của công ty đó, ngành đó hay lĩnh vực đó đem lại cho họ khoản lợi nhuận lớn hơn. Đây là yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư và cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư khi đầu tư vào chứng khoán, và đó cũng là tính ưu việt nổi bật nhất của TTCK. TTCK hoạt động càng sôi động và càng có hiệu quả bao nhiêu thì càng nâng cao khả năng chuyển đổi của các chứng khoán giao dịch trên thị trường bấy nhiêu. Thứ ba, TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn đầu tư phong phú nhờ sự đa dạng về chứng khoán. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại chứng khoán phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Thứ tư, đa dạng hoá công chúng đầu tư. Để đ ược tham gia vào hoạt động đầu tư chứng khoán, chúng ta chỉ cần ít tiền cũng có thể đầu tư vào chứng khoán được bởi vì : theo quy định của tại Điều 4 Nghị định 48/1998/NĐ-CP ch ỉ cần có 10.000đ thì chúng ta có thể mua được một cổ phiếu hoặc một chứng chỉ quỹ đầu tư, và với 100.000đ mua được một trái phiếu. Với số tiền nhỏ, rải rác đó nếu tổng hợp lại sau khi đã mua chứng khoán – góp gió thành bão – thì chúng ta đã có được một khoản vốn lớn và dài hạn, và đem số tiền này đầu tư vào các dự án trung và dài hạn. Nếu so sánh với việc gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng, chúng ta phải có một khoản tiền đủ lớn mới nên gửi để bảo đảm nhận được một khoản tiền lãi trong khoảng thời gian nhất định trong tương lai, thì đầu tư vào chứng khoán là thuận lợi hơn.
  16. Thứ năm, giảm thiểu chi phí tìm kiểm và chi phí thông tin. Để cho các giao dịch có thể diễn ra, những người mua và những người bán cần phải tìm được nhau; muốn thế, họ cần phải tiêu tốn tiền và thời gian cho việc quảng cáo ý đồ của mình và tìm kiểm đối tác. Đó là những chi phí tìm kiểm. Bên cạnh đó là các chi phí thông tin gắn liền với việc nhận định các giá trị đầu tư tức là khối lượng và tính chắc chắn của các khoản tiền dự kiến thu được từ đầu tư. Nhờ tính tập trung, khối lượng giao dịch và giá trị giao dịch lớn , thông tin được cung cấp đầy đủ và nhanh chóng, thị trường tài chính cho phép giảm thiểu những chi phí này. Thứ sáu, đánh giá hoạt động của doanh nghiệp, nền kinh tế, từ đ ó giúp Chính phủ điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. Đồng thời, cũng dựa theo sự tăng lên hay giảm xuống của giá chứng khoán, cho chúng ta biết đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng hay cho biết các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và nhờ có tính chất này, nó trở thành một trong những công cụ quan trong giúp Chính phủ nhìn nhận nền kinh tế một cách đúng đắn; từ đó đưa ra các giải pháp điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô sao cho phù hợp, cân đối giữa các ngành, lĩnh vực… Mặt khác, trong thời gian đầu, khi TTCK mới đi vào hoạt động Chính phủ đã có những chính sách ưu đãi trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán ( Quyết định số 39/TTg của Thủ tướng chính phủ vào cuối tháng 3/2000 đã quy định những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán). Theo đó, các công ty chứng khoán ( CtyCK), Công ty quản lý quỹ, Tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết và các cá nhân đầu tư chứng khoán được tạm thời h ưởng ưu đãi về thuế. Nhà nước tạm thời không thu thuế giá trị gia tăng của CtyCK trong thời gian 3 năm. CtyCK và Công ty quản lý quỹ còn được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp thêm một năm,
  17. giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 2 năm tiếp theo. Tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết đuợc giảm 50% số thuế thu nhập phải nộp trong 2 năm tiếp theo, kể từ khi niêm yết chứng khoán lần đầu tại TTGDCK. Các cá nhân đầu tư chứng khoán đ ược miễn thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cho phần thu nhập từ cổ tức, lãi trái phiếu, chênh lệch mua bán chứng khoán. Như vậy đối với các nhà đầu tư, bước đầu cho thấy việc đầu tư vào chứng khoán sẽ hấp dẫn hơn so với việc gửi tiền vào ngân hàng. Và cũng là tiền để thêm phần thúc đẩy việc tham gia hoạt động trên TTCK đối với các doanh nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước điều hành, quản lý TTCK như một công cụ điều tiết sự phát triển của nền kinh tế một cách lành mạnh. 2.2.Rủi ro trong đầu tư chứng khoán Bên cạnh những lợi ích, TTCK vẫn luôn tiềm ẩn những khả năng rủi ro. Rủi ro ở đây là những nguyên nhân chính khiến cho các dự định kế hoạch của các nhà đầu tư không theo như ý muốn của họ, có thể là có lợi cho họ hoặc không có lợi cho họ nh ưng mặt không lợi thường là chủ yếu. Nguyên nhân của nó là sự giảm sút cổ tức, trái tức hay giá chứng khoán mà ta đã đầu tư. Như vậy, trong quá trình tiến hành đầu tư, các nhà đầu tư ( kể cả các nhà đầu tư có tổ chức và nhà đầu tư cá nhân) cần phải phân tích, đánh giá kỹ lưỡng các yếu tố rủi ro để có thể lượng hoá và từ đó lựa chọn các công cụ và giải pháp quản lý rủi ro một cách thích hợp nhằm giảm rủi ro tới mức tối thiểu để đạt đ ược lợi nhuận đầu tư vào chứng khoán như mong muốn ( lợi nhuận mong đợi). Việc đối đầu với những rủi ro trong đầu tư chứng khoán là điều không thể tránh khỏi, và cũng không thể ngăn chặn được tất cả mọi rủi ro; cho nên hạn chế được rủi ro càng nhiều thì càng tốt. Trong đầu tư chứng khoán, ta có thể phân chia làm hai loại rủi ro chính như sau : Một là, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được, có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống ( như rủi ro thị trường, rủi ro lạm phát, rủi ro lãi suất…).
  18. Hai là, những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi ro không hệ thống ( rủi ro tài chính, rủi ro kinh doanh…). Các yếu tố rủi ro không hệ thống thường độc lập với các yếu tố rủi ro liên quan đến toàn bộ thị trường nó i chung. Do những rủi ro này thường ảnh hưởng đến một công ty cụ thể nên nó phải được xem xét cho từng công ty một cách riêng biệt. Dưới đây là một số loại rủi ro mà các nhà đầu tư thường gặp : Rủi ro hệ thống : Rủi ro về thị trường Cổ phiếu và trái phiếu đều chứa đựng một mức độ rủi ro thị trường nhất định. Rủi ro thị trường là rủi ro mà nhà đầu tư có thể mất một phần vốn do tính không ổn định về giá trên thị trường ( còn gọi là rủi ro hệ thống). Cổ phiếu th ường bất ổn hơn trái phiếu, giá của cổ phiếu có thể tăng hay giảm đột biến tuỳ thuộc nhu cầu của nhà đầu tư. Rủi ro lãi suất Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung. Các nhà đầu tư thường coi trái phiếu Chính phủ là không có rủi ro. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ được xem như là lãi suất chuẩn, là mức phí vay vốn không rủi ro. Những thay đổi trong lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ làm ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống chứng khoán, từ trái phiếu cho đến các loại cổ phiếu rủi ro nhất. Việc tăng lên của lãi suất chuẩn làm giá cả của các loại chứng khoán khác giảm xuống. Tương tự, lãi suất chuẩn giảm lại làm cho giá của các loại chứng khoán tăng lên. Ngoài ảnh hưởng trực tiếp đối với giá chứng khoán, lãi suất chuẩn còn có ảnh hưởng gián tiếp đến giá cổ phiếu th ường do rất nhiều công ty kinh doanh chủ yếu bằng vốn đi vay. Ví dụ các tổ chức tài chính tham gia vào các hoạt động cho
  19. vay khi lãi suất tăng, các công ty vay nợ nhiều sẽ phải trích từ thu nhập của mình nhiều hơn để trả lãi, dẫn đến sự sút giảm thu nhập, cổ tức và giá cổ phiếu, một phần làm hoạt động của TTCK bị ngưng trệ. Tuy nhiên, việc tăng lãi suất lại mang đến thu nhập cao hơn cho những người cho vay (tổ chức tài chính) do nguồn thu chính của họ là lãi thu được từ các khoản cho vay. Đối với những công ty cho vay này, thu nhập tăng lại làm cho cổ tức và giá cổ phiếu của nó tăng. Rủi ro về lạm phát Khi lãi suất đầu tư vào chứng khoán thấp hơn tỷ lệ lạm phát, tiền của nhà đầu tư sẽ bị mất dần giá tr ị theo thời gian. Ví dụ, trong điều kiện lạm phát, nếu nhà đầu tư bây giờ bỏ một số tiền X để mua Y trái phiếu, khi đáo hạn số tiền thu được sẽ không còn đủ để mua Y trái phiếu tương đương. Mặt khác, giá cả chứng khoán được thể hiện bằng tiền nên những biến động tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến giá cả chứng khoán. Lạm phát làm cho sức mua tiền tệ giảm xuống, do đó làm cho giá cả tăng lên và thu nhập được thực tế của cổ tức và trái tức giảm đi, giá tr ị hoàn vốn của trái phiếu cũng giảm xuống. Rủi ro về sức mua Rủi ro này bắt nguồn từ những biến động của lạm phát, bởi lạm phát làm suy giảm độ hấp dẫn của tài sản. Trong khi đó, đối với các nhà đầu tư thì điều quan trọng nhất là lãi suất thực và giá trị thực của vốn ( lãi suất và giá trị vốn được điều chỉnh sau lạm phát). Như vậy, nhà đầu tư có nhận được giá trị tài sản thực dương hay không phục thuộc rất nhiều vào lạm phát kỳ vọng. Bởi vì, trên cơ sở của những tính toán đầu tư dựa trên các chỉ tiêu tài chính như giá trị hiện tài thuần ( NPV ), tỷ lệ hoàn vốn nội bộ (IRR), tỷ lệ lợi ích trên chi phí ( BCR)… đều được tính toán trên cơ sở tỷ lệ chiết khấu thực. Mà tỷ lệ này lại luôn bị ảnh h ưởng bởi lạm phát. Do đó việc ước lượng được rủi ro về sức mua phụ thuộc rất lớn vào khả năng dự tính lạm phát kỳ vọng. Rủi ro lãnh thổ
  20. Rủi ro này xuất hiện khi người cho vay cung cấp tài chính cho nước ngoài. Những rủi ro chính trong trường hợp này là việc cơ cấu lại nợ của Chính phủ nước nhận vốn vay, sự phá sản của những người vay vốn tại khu vực tư nhân. Tuy nhiên, rủi ro lãnh thổ thực sự chỉ phản ánh những biểu hiện, triệu chứng phá sản hay sai lầm của những nhà đầu tư tại nước nhận vốn. Những triệu chứng thể hiện qua sự quản lý kinh tế yếu kém dẫn đến thâm hụt ngân sách hay cán cân thanh toán, khủng hoảng kinh tế giới, rủi ro chính trị tự quốc hữu hoá, sự từ chối nợ, thảm hoạ tự nhiên như nạn đói, mất mùa, chiến tranh… Trong những năm gần đây, những ngân hàng hàng đầu trên thế giới đã cố gắng đo lường rủi ro vùng lãnh thổ thông qua việc xác định một tập hợp các tiêu chí như rủi ro chính trị, rủi ro cán cân thanh toán, thảm hoạ tự nhiên, sự phụ thuộc vào một số mặt hàng xuất khẩu, và một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác. Rủi ro tỷ giá Bất cứ một chủ thể nào nắm giữ một tài sản nợ hoặc tài sản có bằng ngoại tệ đều phải đối mặt với rủi ro về tỷ giá (cả trong trường hợp tăng giá cũng như phá giá). Để tránh loại rủi ro này có thể chuyển nó cho đối tác khác gánh chịu thông qua nghiệp vụ hoán đổi tỷ giá (SWAP), nghiệp vụ này cũng có những đặc điểm tương tự như nghiệp vụ hoán đổi lãi suất. Rủi ro tỷ giá cũng có thể tránh được bằng cách chỉ cho vay tiền mà khách hàng nắm giữ. Bên cạnh đó, người đi vay cũng có thể tránh được rủi ro tỷ giá bằng cách ký hợp đồng vay có cùng loại tiền với hợp đồng xuất khẩu. Ngoài ra người bảo lãnh thường chấp nhận rủi ro tỷ giá trong thanh toán. Những người bảo lãnh như vậy th ường là các Chính phủ hoặc các chủ thể đại diện Chính phủ ( thường là Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng Trung ương), trường hợp này thường xảy ra đối với đấu thầu xuất khẩu tín dụng. Tuy nhiên, đối với hầu hết các nhà đầu tư tài chính thì mục tiêu quan trọng nhất là xác định được mức độ rủi ro của các hạng mục đầu tư, và như vậy việc đưa các loại rủi ro về cùng một nhóm để tiện theo dõi là rất cần thiết. Biện pháp thường được sử dụng mà lý thuyết thị trường vốn đã áp dụng, đó là đã sử dụng độ nhạy cảm
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2