intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Bến Tre

Chia sẻ: Nguyenn Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

170
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Dân chủ (DC) xã hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật (PL) của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã tỉnh Bến Tre

  1. LUẬN VĂN: Năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xó tỉnh Bến Tre
  2. Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Dân chủ (DC) xã hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa đảng, Nhà nước và nhân dân. Nhà nước đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật (PL) của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo nhà nước và xã hội, nhất là trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng: Việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thu hút nhân dân tham gia có hiệu quả vào quản lý nhà nước phải đi đôi với việc đẩy mạnh đấu tranh khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, kết hợp giữa dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, thực hiện dân chủ ở cơ sở. Từ bài học kinh nghiệm trên ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Chỉ thị số 30/CT-TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Cụ thể hóa Chỉ thị này, ngày 15/5/1998, Chính phủ ra Nghị định số 29/NĐ-CP ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, đến ngày 07/7/2003 Nghị định này đã được thay thế bằng Nghị định số 79/NĐ-CP. Dấu mốc pháp lý quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của DC ở cơ sở (CS) là việc ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (20/4/2007). Thực hiện pháp luật (THPL) về DC ở xã, phường, thị trấn nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền (CQ) và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái; quan liêu, tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, theo định hướng XHCN. Vai trò đó của PL về DC ở CS phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng là năng lực (NL) THPL của đội ngũ cán bộ (CB) CQ cấp xã (CX). Đây là vấn đề có tính phổ biến đối với các địa phương trong cả nước, là chủ trương quan trọng của Chính phủ, được đề ra tại Báo cáo tổng kết 6 năm thực
  3. hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại Hội nghị tổng kết 6 năm thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở do Ban Dân vận Trung ương tổ chức. Cũng như các địa phương trong cả nước, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân (HĐND) và ủy ban nhân dân (UBND) các cấp trong tỉnh Bến Tre đã đặc biệt chú trọng triển khai THPL về DC ở CS, với nhiều thành tựu to lớn. Trong việc THPL về DC ở CS đã xuất hiện nhiều đơn vị điển hình, song cũng không ít đơn vị cơ sở còn khó khăn, lúng túng, thậm chí còn nhiều yếu kém. Cả ở những nơi thực hiện tốt, và nhất là ở những nơi yếu kém đều cho thấy NLTHPL về DC ở CS của đội ngũ CB, công chức (CC) CS là hết sức quan trọng. Điều này lại càng bức xúc trong điều kiện ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Vì những lý do trên, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến NLTHPL về DC ở CS, đánh giá đúng thực trạng năng lực đó của đội ngũ CBCQCX tỉnh Bến Tre, từ đó có những giải pháp phù hợp là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xó tỉnh Bến Tre để viết luận văn thạc sĩ luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề thực hiện DC ở CS và THPL về DC ở CS của đội ngũ CBCQCX được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, với nhiều công trình có giá trị, đáng chú ý là: - Đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước: + Đề tài Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay do PGS.TS Hoàng Chí Bảo làm chủ nhiệm, trong khuôn khổ của đề tài cấp Nhà nước Nghiên cứu một số vấn đề nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở, trong sự nghiệp đổi mới và phát triển ở nước ta hiện nay . đề tài đã xây dựng khái niệm hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn, đặc điểm và cấu trúc của nó, những tác động ảnh hưởng và những quan điểm, giải pháp tiếp tục xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống ấy ở Việt Nam. + Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng đối với cán bộ chủ chốt cấp huyện ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay, do TS Nguyễn Quốc Tuấn làm chủ nhiệm, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, nghiệm thu tháng 4 năm 2004. Nội dung đề tài nghiên cứu năng lực tổ chức thực hiện
  4. nghị quyết của Đảng đối với cán bộ chủ chốt cấp huyện vùng đồng bằng sông Cửu Long và đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực đó. Kết quả nghiên cứu đề tài cho phép tác giả kế thừa nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề phương pháp luận tiếp cận khái niệm năng lực của cán bộ, công chức. - Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: + Luận án tiến sĩ (1998), Vấn đề dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nông thôn Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay (qua khảo sát vùng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long), của Đào Bá Phương, thuộc chuyên ngành triết học. Nội dung luận án tập trung làm rõ tình hình thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nông thôn Việt Nam (dưới góc độ triết học), đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ thực hiện dân chủ trên lĩnh vực chính trị ở nông thôn hiện nay. + Luận văn thạc sĩ (1997) Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (qua thực thực tỉnh Long An), của Phạm Văn Hai, thuộc chuyên ngành triết học. Nội dung luận văn tập trung làm rõ khái niệm năng lực (dưới góc độ triết học), đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Long An. + Luận văn thạc sĩ (2003), Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, của Phạm Thị Thu Vinh, thuộc chuyên ngành quản lý nhà nước. Nội dung luận văn làm rõ khái niệm năng lực nói chung và các biện pháp nâng cao năng lực của cán bộ chính quyền cấp cơ sở ở Phú Thọ. + Luận văn thạc sĩ (2006), Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã tỉnh Hà Tỉnh hiện nay, của Trần ánh Dương, thuộc chuyên ngành luật. Nội dung của luận văn làm rõ khái niệm và hệ thống giải pháp nâng cao năng lực quản lý nhà nước của cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Hà Tĩnh. + Luận văn thạc sĩ (2006), Nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Hưng Yên trong giai đọan hiện nay, của Ngô Thị Hòa, thuộc chuyên ngành luật. Nội dung của luận văn đánh giá tình hình thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã; đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ ở cấp xã ở Hưng Yên.
  5. + Luận văn thạc sĩ (2006), Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội, của Nguyễn Tiến Thành, thuộc chuyên ngành luật. Nội dung của luận văn làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến việc kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; đề xuất và luận chứng các giải pháp tăng cường sự kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Các sách chuyên khảo và các bài viết được công bố trên các tạp chí chuyên ngành: + Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, của các tác giả TS Nguyễn Văn Sáu- GS Hồ Văn Thông(2005) Nxb chính trị quốc gia, HN. Nội dung của sách đề cập đến vấn đề thực hiện quy chế dân chủ, đề xuất những giải pháp xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay. + Nâng cao trình độ năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt hiện nay, của tác giả GS.TS Hồ Văn Vĩnh, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lý luận số 1/1994. Nội dung bài viết đề cập đến những giải pháp nâng cao trình độ, năng lực quản lý của cán bộ chủ chốt các cấp hiện nay. + Một số giải pháp tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ cơ sở, của tác giả GS.TSKH Vũ Huy Từ, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nước số 5/2002. Nội dung bài viết đưa ra những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nêu trên chỉ chủ yếu nghiên cứu năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, tổ chức thực hiện các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Việc nghiên cứu năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã ở mỗi địa phương cụ thể, và dưới góc độ luật học, thì chưa có công trình nào. Vì thế đề tài luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn - Về mục đích: Luận văn trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX, để đề xuất và luận chứng các giải pháp bảo đảm năng lực đó của đội ngũ CBCQCX ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
  6. - Về nhiệm vụ: Phù hợp mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau: + Xây dựng khái niệm NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX, chỉ ra các đặc điểm, các yếu tố cấu thành, ảnh hưởng và yêu cầu đối với việc bảo đảm năng lực của đội ngũ đó hiện nay. + đánh giá đúng thực trạng THPL về DC ở CS và thực trạng NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX ở Bến Tre. + đề xuất và luận chứng các giải pháp bảo đảm NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX ở Bến Tre hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn về NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX, thực trạng cũng như các giải pháp bảo đảm năng lực của đội ngũ cán bộ đó ở tỉnh Bến Tre hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn không nghiên cứu NLTHPL về DC ở CS của tất cả các chức danh trong bộ máy hệ thống chính trị cơ sở, mà chỉ nghiên cứu năng lực đó của các chức danh: chủ tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND và công chức cấp xã, và chỉ trên địa bàn tỉnh Bến Tre, thời gian nghiên cứu từ năm 1998 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn - Về cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về đổi mới nhà nước và pháp luật, về thực hiện dân chủ XHCN cũng như các quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Luận văn cũng kế thừa và vận dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài. - Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của triết học Mác - Lênin, trong đó sử dụng chủ yếu các phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể. Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp của các khoa học chuyên ngành, như
  7. của khoa học thống kê, xã hội học, lý thuyết hệ thống. Các phương pháp ấy được sử dụng trong luận văn như sau: + Luận văn sử dụng đồng thời các phương pháp của triết học Mác- Lênin để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra ở cả ba chương, trong đó phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng chủ yếu ở chương 1; phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, lịch sử cụ thể cũng như các phương pháp xã hội học , thống kê được sử dụng phổ biến ở chương 2 nhằm bảo đảm việc đánh giá thực trạng là khách quan, toàn diện. + Phương pháp của lý thuyết hệ thống được sử dụng trong luận văn để bảo đảm tính nhất quán trong toàn bộ nội dung, tính liên thông giữa các chương, các tiết của luận văn. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Từ những kết quả đạt được, luận văn có những điểm mới về mặt khoa học sau: - Xây dựng khái niệm NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX; xác định các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến năng lực đó. - Đánh giá khách quan thực trạng NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX tỉnh Bến Tre. - Xây dựng các luận chứng về các quan điểm, giải pháp bảo đảm NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX tỉnh Bến Tre hiện nay. 7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần phát triển lý luận về pháp luật, trực tiếp là những vấn đề lý luận về chủ thể thực hiện PL, NLTHPL của một loại chủ thể đặc biệt là CBCQCX đối với một lĩnh vực PL cụ thể (dân chủ ở cơ sở). Những giải pháp mà luận văn đưa ra có giá trị tham khảo đối với các cấp chính quyền, trực tiếp là chính quyền cấp xã trong xây dựng đội ngũ CBCQCX, bảo đảm NLTHPL về DC ở CS của đội ngũ cán bộ này. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo bổ ích để nghiên cứu, giảng dạy ở Trường Chính trị Bến Tre. 8. Kết cấu của luận văn
  8. Ngoài mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
  9. Chương 1 CƠ Sở Lý Luận Về NĂNG Lực Thực Hiện Pháp Luật Về DÂN Chủ ở CƠ Sở Của Cán Bộ Chính Quyền Cấp Xã 1.1. Khái niệm, đặc điểm của năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã 1.1.1. Khái niệm năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã Muốn hiểu rõ khái niệm năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của của cán bộ chính quyền cấp xã trước hết phải tìm hiểu một số khái niệm sau: Một là, khái niệm năng lực để hoàn thành một nhiệm vụ, con người phải có một năng lực nhất định. Mỗi nhiệm vụ xác định phải có một năng lực nhất định, với những khả năng tương ứng. để có thể xác định NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX cần làm rõ một số vấn đề cơ bản của năng lực của con người nói chung. Với tư cách là một khái niệm, "năng lực" đã được nhiều ngành khoa học tiếp cận với những cấp độ và khía cạnh khác nhau, đem lại kết quả mang tính đặc trưng của mỗi ngành. Theo Từ điển tiếng Việt, năng lực là "khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó ở mức độ cao, hoặc năng lực được hiểu là những phẩm chất của con người tạo ra cho con người đó khả năng hoàn thành có kết quả một quá trình hoạt động nhất định" [38, tr.639]. Năng lực còn được hiểu là "tổng hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành có kết quả tốt trong lĩnh vực hoạt động ấy" [22, tr.174]. Theo nghĩa thông thường, năng lực là khả năng thực tế mà con người có được thông qua trau dồi học vấn, hoạt động thực tiễn, tích lũy kinh nghiệm, tự giáo dục và tự đào tạo để đáp ứng một yêu cầu nào đó của công việc được giao phó nhằm giải quyết những nhiệm vụ hay xử lý những tình huống đặt ra trong công tác, trong đời sống hằng ngày.
  10. Năng lực là khả năng của chủ thể hoạt động được sử dụng để đáp ứng những đòi hỏi của công việc, của đối tượng và khách thể đặt ra. Nó bao gồm một tập hợp các dấu hiệu hay những chỉ báo cho phép xác định trình độ của một người nào đó được gọi là người có năng lực, có khả năng làm việc, có khả năng lao động. Năng lực phải được hình dung một cách cụ thể ở những con người cụ thể.Về cơ bản, đó là người đã trưởng thành về mặt xã hội, định hình được tư cách công dân, vị thế xã hội, là một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Tùy thuộc vào nghề nghiệp, vị thế xã hội, chức trách, bổn phận và những sắc thái riêng của từng cá nhân trong từng quan hệ xác định mà năng lực của con người có những hình thái (hình thức, dạng, kiểu, loại) biểu hiện những khả năng khác nhau một cách sinh động, tinh tế, đa dạng, phức tạp. Có thể khái quát những khả năng đó như sau: - Khả năng tư duy: đó là khả năng luôn có được những ý nghĩ chín chắn, sâu sắc đi đến nhận thức mới về đối tượng để tìm ra được những phương kế mới cho việc hoàn thành nhiệm vụ thực tiễn. để có tư duy sắc bén đòi hỏi chủ thể phải có khả năng tự hình thành cho mình một thế giới quan khoa học và một hệ thống phương pháp luận vững chắc về hoạt động chuyên biệt của mình trên cơ sở tự tiếp nhận những tri thức của nhân loại có liên quan đến đối tượng, xác lập quan điểm độc lập trước những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau. Xác lập quan hệ giữa các loại tri thức khác nhau mà mình đã thâu thái được với đối tượng để có thể sử dụng độc lập từng loại tri thức hay kết hợp giữa chúng với nhau tác động vào đối tượng theo những yêu cầu của xã hội. Đó còn là văn hóa tư duy biểu hiện ở văn hóa nghĩ, văn hóa nói, văn hóa viết; chúng trực tiếp giúp chủ thể có thể chuyển những "nguyên liệu" của tư duy thành sản phẩm tư tưởng bằng sự phong phú của ngôn ngữ, chất lượng của diễn đạt, trình bày lập luận. Khả năng tư duy còn đòi hỏi đến sự ghi nhớ nhanh chóng, sâu sắc, bền vững và nhớ một cách sáng tạo của chủ thể. Người ta thường ví trí nhớ là sức khỏe của tư duy. - Khả năng quan sát thực tế: Quan sát thực tế là khả năng phát hiện ra những nhu cầu và tiềm năng của đời sống hiện thực, những vấn đề đang đặt ra đối với chủ thể; thấy được phương thức giải quyết vấn đề của hiện thực bằng những phương tiện được lựa chọn từ hiện thực đó. Người có khả năng quan sát còn phải có khả năng cảm giác tốt "nghe" được những diễn biến nhỏ nhất, những biểu hiện tinh tế nhất của sự biến động, "thấy"
  11. được những dấu hiệu mờ nhạt nhất của sự kiện. đồng thời, còn có khả năng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhưng không rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm; biết lấy sự biến đổi trong đời sống hiện thực làm thước đo cho hiệu quả hoạt động của mình nhưng không rơi vào chủ nghĩa thực dụng. - Khả năng phát hiện tình huống: Phát hiện tình huống là khả năng đánh giá đúng thực trạng của những vấn đề gay cấn không bình thường, những việc ập đến bất ngờ đặt chủ thể trước sự thách thức; phát hiện được nguyên nhân của những tình huống đó, kịp thời đề ra được các phương án cùng những giải pháp xử lý một cách thỏa đáng. Khả năng này phụ thuộc vào tầm nhìn, vào sức khái quát, vào độ chính xác của sự dự báo xu hướng diễn biến của các sự kiện khác nhau trong đời sống hiện thực. Nói một cách khái quát hơn, đó là năng lực phát hiện các mâu thuẫn sâu xa nội tại của những diễn biến phong phú và phức tạp ở bên ngoài đưa đến tình huống ấy.để làm được điều đó, đòi hỏi chủ thể phải có khả năng phân tích và tổng hợp các sự kiện khác nhau, biết sàng lọc thông tin. - Khả năng giao tiếp xã hội: Giao tiếp xã hội là khả năng hiểu biết con người, nhận biết được khả năng của người khác và có thể khai thác được lợi thế của họ cho yêu cầu nhiệm vụ của mình. Biết cách làm việc với từng loại người, ứng xử đúng mực với từng mối quan hệ; biết "đối nhân xử thế". Không những biết đối xử chân thành và động viên, cổ vũ, khuyến khích, giúp đỡ những đồng nghiệp, các cộng sự mà còn phải biết bao dung, nhân ái, độ lượng đối với những người dưới quyền. đồng thời, chẳng những biết học tập, tiếp thu, vận dụng những cái hay, cái tốt của người khác cho sự hoàn thiện của chính mình mà còn phải hết sức khiêm tốn khi thể hiện mình, nhất là trong những mối quan hệ phức tạp, tế nhị. - Khả năng am hiểu công việc: Am hiểu công việc là khả năng nắm vững nội dung của vấn đề với đầy đủ cơ sở khoa học của nó, xác định đúng thực chất những nhiệm vụ phải giải quyết, biết lựa chọn phương thức hành động với các phương pháp và hình thức cùng những biện pháp và phương tiện cụ thể để giải quyết các nhiệm vụ đó một cách có hiệu quả. Khả năng am hiểu công việc đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm thực tế phong phú, có kỹ xảo làm việc đạt đến mức thành thạo và kỹ năng xác lập phương thức hành động mới khi tình hình có nhiều biến đổi. Người như vậy được gọi là người tinh thông chuyên môn nghiệp vụ.
  12. - Khả năng tổ chức triển khai: Khả năng này thể hiện ở chỗ: từ một ý đồ, một kết luận khoa học, một quyết định nào đó, con người có thể tổ chức triển khai thành ch ương trình hành động, thành kế hoạch thực thi trong đời sống xã hội bằng những hành động chuyên môn cụ thể. Tùy theo vị trí, nghề nghiệp, chức trách, thẩm quyền và thời điểm lịch sử cụ thể mà khả năng triển khai của mỗi người có sự đòi hỏi cao thấp về những khả năng xác định khác nhau. Nhưng, nhìn chung, khả năng triển khai của một người phải bao gồm các khả năng: nhận thức vấn đề, truyền đạt đến những đồng sự, tổ chức thành một thiết chế tổ chức, phối hợp nhiều loại hành động của nhiều người để giải quyết vấn đề đó; đồng thời, còn điều chỉnh và xử lý được các vấn đề phát sinh. - Khả năng làm việc độc lập: Làm việc độc lập là khả năng có được tinh thần chủ động trong công việc, có thể tự hoạch định chương trình và trù tính kế hoạch hành động cho mình để thực hiện mục tiêu đã định mà không trông chờ hay nhờ vào sự " chỉ bảo " hay sự " viện trợ " của người khác; biết tìm cho mình con đường riêng với những phương thức hành động đặc thù trong tính phổ biến; tránh sáo mòn, dẫm lại những lối mòn của người khác một cách không cần thiết. để có khả năng làm việc độc lập, con người không chỉ phải lao động bền bỉ, cần mẫn tìm tòi học hỏi với tinh thần trách nhiệ m cao, có kỳ luật tự giác mà còn là lòng say mê, ham thích công việc với một sự năng nổ và tháo vát đối với công việc. - Khả năng phê phán: Phê phán là khả năng tự phê phán mình, biết tiếp nhận sự phê phán của người khác đối với mình và phê phán người khác. Tự phê phán là khả năng tự phản tỉnh của chủ thể để nhận ra những khuyết điểm và yếu kém, những sai lầm và thiếu sót của bản thân trong quá trình thừa hành nhiệm vụ; dám chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hậu quả do hành vi của mình gây ra. Biết lắng nghe, chân thành và dũng cảm tiếp nhận sự đóng góp của đồng nghiệp, của bạn bè, của tổ chức và của xã hội một cách tự nhiên. Không những thế mà còn biết tìm ra con đường và những giải pháp tự hoàn thiện mình để không ngừng vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Phê phán người khác là khả năng có thể nhìn nhận đúng đắn về người khác, khẳng định những điểm mạnh và chỉ ra được những hạn chế của họ đối với yêu cầu của xã hội một cách vô tư, thẳng thắn nhưng vừa thấu lý vừa đạt tình với những biện pháp thật khéo léo, tế nhị để người được góp ý tiếp thu một cách thoải mái, nhẹ nhàng.
  13. - Khả năng kiềm chế: Kiềm chế là khả năng có thể tránh được những phản ứng bồng bột, vội vã có thể bình tĩnh đè nén những xúc động, sự tức tối, sự giận dữ trước sự kích thích tâm lý bất thường bởi những hành vi khiêu khích, chọc tức, thậm chí "lăng mạ" của đối phương. Dũng cảm chiến thắng những dục vọng và những "sợ hãi" của bản thân, vượt qua sự đe dọa hay mua chuộc, dụ dỗ, sự phỉnh nịnh, vuốt ve, tâng bốc của người khác; không thỏa mãn với những thành công và cũng không chán nản bởi những thất bại mà luôn biết "thắng không kiêu, bại không nản", gian khổ không sờn lòng, cường quyền không khiếp sợ. - Khả năng kiểm tra: Kiểm tra là việc giám sát, theo dõi, kiểm soát hoạt động của người khác trong quá trình thực thi một chương trình hay một kế hoạch hoặc nhiệm vụ đã được xác định. Khả năng kiểm tra cho phép chủ thể phát hiện những ách tắc, những biểu hiện lệch lạc, những sai lầm và hạn chế của người thừa hành nhiệm vụ. đồng thời, truy tìm được nguyên nhân của chúng, truy cứu được trách nhiệm của từng cá nhân, đề ra được những giải pháp xử lý các vấn đề đó một cách nhanh chóng và chính xác nhằm đảm bảo mục tiêu đã định. Năng lực này đòi hỏi người thực hiện sự kiểm tra phải có óc quan sát tinh tế, có năng lực chuyên môn, có nghiệp vụ làm công tác kiểm tra, có tinh thần trách nhiệm cao và có nhân cách tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Năng lực hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn của con người, nó là kết quả của quá trình giáo dục, tự giáo dục, tự phấn đấu và rèn luyện của cá nhân. Tư chất bẩm sinh chỉ là tiền đề của năng lực, là những đặc tính tâm lý bẩm sinh, trong đó có các đặc điểm của hệ thần kinh, bộ não, cấu tạo gen của con người. Những tư chất này cần phải được chú ý, tạo điều kiện để phát triển và chỉ có thông qua rèn luyện trong thực tiễn mới trở nên sức mạnh thật sự hữu hiệu của con người. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý dù ở cấp nào cũng phải có năng lực trí tuệ (tư duy) và năng lực tổ chức thực tiễn. Chính hai yếu tố này tạo nên tài năng của họ, cái này hỗ trợ cho cái kia phát triển. Không có năng lực trí tuệ thì không thể có trình độ khái quát cao. Trái lại, chỉ có năng lực trí tuệ mà không có năng lực tổ chức thực tiễn thì năng lực trí tuệ dần dần sẽ bị phai nhạt, sẽ dừng lại ở tư duy trừu tượng, ở lý thuyết, thoát ly thực tiễn, thoát ly cuộc sống, dễ rơi vào chủ quan duy ý chí.
  14. Như vậy, năng lực nói chung thường được hiểu là khả năng của chủ thể trong việc thực hiện có hiệu quả tối đa một công việc cụ thể, một hoạt động cụ thể nào đó trong những điều kiện nhất định; là những phẩm chất của con người tạo cho họ có khả năng hoàn thành một công việc nào đó hiệu quả nhất. Khi nói đến năng lực là nói đến năng lực của từng con người - chủ thể cụ thể. Đó là con người đã trưởng thành về mặt xã hội, một chủ thể có nhân cách, đang hoạt động cho mình và cho đồng loại. Do vậy, tùy thuộc vào nghề nghiệp, hoàn cảnh sống và hoạt động, chức trách cá nhân đảm nhiệm mà năng lực của họ được biểu hiện ra một cách sinh động, đa dạng, khác nhau. Tóm lại, năng lực là những phẩm chất bên trong tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân có được khả năng hoàn thành một hoặc một số hoạt động chung hay chuyên biệt nào đó với chất lượng và hiệu quả cao. Hai là, năng lực thực hiện pháp luật - Năng lực thực hiện pháp luật nói chung Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá trình THPL được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện PL của nhà nước. Thực hiện pháp luật là trách nhiệm của mọi tổ chức (kể cả các cơ quan nhà nước) và mọi công dân Việt Nam, cũng là trách nhiệm của cả các tổ chức, người nước ngoài làm việc, sinh sống trên đất nước Việt Nam. Về phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là một khái niệm pháp lý, song hiện đang có nhiều quan niệm khác nhau: + Theo Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của Trường đại học Luật Hà Nội, "thực hiện pháp luật” được quan niệm là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật [37, tr.463]. + Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa Luật-Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, "thực hiện pháp luật” là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật (cơ quan, tổ chức, cá nhân) [36, tr.369]. + Theo Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Viện Nhà nước và pháp luật- Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, "thực hiện pháp luật”
  15. được hiểu là quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật [24, tr.270]. Nhìn chung các định nghĩa trên đều có điểm tương đồng, theo đó “thực hiện pháp luật” là việc làm có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của PL, làm cho những quy định của PL trở thành hiện thực trong cuộc sống. Điều cần lưu ý trong các quan niệm trên là: + Thực hiện pháp luật là việc chuyển hóa những mệnh lệnh, chỉ dẫn của pháp luật thành những hoạt động cụ thể của các chủ thể pháp luật, được tiến hành thông qua hành vi hợp pháp của họ, nhằm đạt được mục đích của điều chỉnh pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật luôn là hành vi của con người, được tiến hành phù hợp với quy định pháp luật và không vượt ra khỏi những giới hạn mà pháp luật quy định, nói cách khác, những đòi hỏi, cấm đoán hay cho phép của pháp luật đối với các chủ thể đã được biểu hiện thành các hành vi thực tế thực hiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể pháp luật [19, tr. 2]. + Thực hiện pháp luật là một giai đoạn của cơ chế điều chỉnh pháp luật, luôn được tiến hành sau khi pháp luật được ban hành và có hiệu lực thi hành. Khi trong thực tế xuất hiện những tình huống (hoàn cảnh, điều kiện) nhất định đã được pháp dự liệu thì sẽ xuất hiện ở những chủ thể nhất định các quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể và chúng sẽ được thực hiện thông qua các hành vi thực tế của chủ thể. Do vậy, kết quả tác động, điều chỉnh của pháp luật trong cuộc sống như thế nào chỉ được thể hiện thông qua giai đoạn thực hiện pháp luật[19,tr.2]. + Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, có lý trí và có ý chí của các chủ thể pháp luật làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống tạo ra những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Nói cách khác, khi nào các thành viên xã hội hoạt động trên cơ sở pháp luật và hành vi của họ phù hợp với những đòi hỏi của pháp luật thì pháp luật đã được thực hiện và các mục đích điều chỉnh pháp luật khi ấy mới đạt được [19, tr.2]. + Thực hiện pháp luật có thể được tiến hành thông qua các hình thức như tuân thủ PL, thi hành PL, sử dụng PL và áp dụng PL.
  16. Mỗi loại chủ thể PL có cách thức thực hiện PL khác nhau. Đối với cá nhân, tổ chức không có thẩm quyền thì thực hiện PL chủ yếu dưới các hình thức tuân thủ, thi hành, sử dụng PL; đối với các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ, quyền hạn thì thực hiện PL thường là dưới hình thức áp dụng PL. Từ quan niệm trên về thực hiện PL có thể hiểu NLTHPL là khả năng của chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật nhằm làm cho các quy định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Chủ thể thực hiện PL khác nhau thì NLTHPL khác nhau. Về phương diện pháp lý, NLTHPL đồng nhất với năng lực hành vi, tức là khả năng của chủ thể bằng chính hành vi của mình để thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý. Tuy nhiên, từ quan niệm về “năng lực” như trên thì khái niệm “năng lực thực hiện pháp luật” có nội hàm rộng hơn nhiều, thể hiện cả một quá trình từ tư duy, nhận thức và tổ chức thực tiễn hết sức phức tạp, và do đó, khi nghiên cứu NLTHPL phải chú ý đầy đủ, toàn diện tất cả các yếu tố xuất hiện trong toàn bộ quá trình đó. Nhìn nhận dưới góc độ “ mô hình hóa”, NLTHPL là khả năng của cá nhân trong việc xác định và thực hiện một quy trình tối ưu trong việc chuyển tải các yêu cầu, đòi hỏi của PL vào cuộc sống, thường là bắt đầu từ sự nhận thức đúng và đầy đủ những quy định của PL; lập kế hoạch tổ chức thực hiện PL; sơ kết, tổng kết việc thực hiện PL; vận dụng những bài học kinh nghiệm vào hoạt động thực hiện PL tiếp theo. Ba là, năng lực thực hiện pháp luật của cán bộ chính quyền cấp xã Năng lực thực hiện PL của CBCQCX đóng vai trò hết sức quan trọng trong quy trình tổ chức thực hiện PL cũng như hiệu quả thực hiện PL của chính quyền cấp xã. Đó cũng là một quá trình từ tư duy, nhận thức PL cả ý nghĩa, nội dung, mục đích điều chỉnh của PL đến quá trình tự mình tổ chức thực hiện PL, gắn với từng chức danh cụ thể của đội ngũ CB,CCCX. Từ những quan niệm trên cho thấy NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX là NLTHPL về một lĩnh vực cụ thể nhưng vô cùng quan trọng của đời sống của chính quyền cơ sở, nhân dân ở cơ sở. Chính vì thế, khi nghiên cứu năng lực đó cần phải làm rõ một số khái niệm sau: - Khái niệm cơ sở và vai trò của cơ sở
  17. Cơ sở theo nghĩa rộng, là những đơn vị nhỏ nhất cấu thành chỉnh thể xã hội và đời sống xã hội, có thể là một tập thể lao động, một nhóm xã hội, một gia đình, trường học, cơ quan, xí nghiệp, đơn vị quân đội, tổ chức hành chính sự nghiệp…Đó là cộng đồng lao động, hoạt động, giao tiếp. Cở sở theo nghĩa hẹp, được quan niệm gắn với hệ thống đơn vị hành chính, là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong tổ chức các đơn vị hành chính, gồm: trung ương, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn. Cơ sở chính là xã, phường, thị trấn. Như thế, DC ở CS bao gồm DC ở xã, phường, thị trấn. Theo cách tiếp cận gắn với hệ thống kinh tế, với hệ thống bộ máy nhà nước thì cơ sở gồm doanh nghiệp nhà nước và cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan hành chính nhà nước. Giữa cơ sở là xã, phường, thị trấn có sự phân biệt, trong đó phường là cấp cơ sở ở đô thị, xã và thị trấn là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn. Sự khác biệt giữa đơn vị hành chính cơ sở với các đơn vị hành chính khác ở chỗ: + Xã, phường, thị trấn là nơi diễn ra mọi hoạt động và cuộc sống của dân, nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở sống và làm việc hàng ngày cùng dân, có điều kiện gần gũi trực tiếp và thường xuyên với dân chúng. Vì lẽ đó, cán bộ cơ sở phải là người hiểu rõ nhất tình hình đang diễn ra tại cơ sở, thấy được nhu cầu, nguyện vọng của dân, những đòi hỏi bức xúc mà cuộc sống của dân đang đặt ra. + Xã, phường, thị trấn là nơi thực hiện đường lối, chính sách, PL của Đảng và Nhà nước, nơi thể hiện rõ nhất PL của Nhà nước được tổ chức thực hiện và đi vào cuộc sống như thế nào, đến mức nào và tác dụng ra sao, cũng là cấp gần nhất với thực tiễn và trực tiếp với cuộc sống của dân.Từ đây chính quyền cấp cơ sở phải là cấp chính quyền tổ chức triển khai, thực hiện PL của Nhà nước để đảm bảo một cách thiết thực nhất những nhu cầu an sinh và an ninh cho dân, cho sự phát triển cộng đồng. Thước đo hiệu quả hoạt động và năng lực của cán bộ cơ sở là không ngừng nâng cao dân sinh, dân trí, dân chủ của dân, thực hiện và phát huy tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức tốt và ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và văn hóa tinh thần cho dân cư trong cộng đồng. Hơn bất cứ ở đâu, cơ sở và cán bộ cơ sở phải không được quan liêu hành chính, bệnh hội họp, giấy tờ, thói mệnh lệnh, áp đặt, nói suông, bàn suông, nói mà không làm, xa rời thực tiễn, thoát ly các công việc cụ thể, dẫn tới xa dân, cách biệt với dân chúng.
  18. + Cấp xã là nơi chính quyền trong lòng dân. Hiện trạng ở xã, phường, thị trấn là nơi kiểm nghiệm đánh giá đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước xem đúng hay sai. Phải dựa vào dân mà xây dựng hệ thống chính trị, mà chấn chỉnh tổ chức, giáo dục cán bộ. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, PL của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống của dân ở xã, phường, thị trấn, phải truyền đạt tới dân và giáo dục thuyết phục cho dân hiểu, dân tin, dân ủng hộ, dân hành động. + Cấp xã, do đó là cấp hành động, cấp tổ chức thực hiện, tập hợp và lãnh đạo dân chúng thực hiện. Cấp xã vừa thực thi chức năng quản lý nhà nước lại vừa diễn ra hoạt động tự quản của dân ở cộng đồng. Kết hợp tốt quản lý với tự quản đòi hỏi phải giải quyết mối quan hệ giữa xã và ấp. Phải có đội ngũ CBCQCX giỏi, năng động, tháo vát, gần dân, tận tụy phục vụ nhân dân, không quan liêu, tham nhũng. Phải có hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh đặc biệt là đội ngũ CBCQCX có NLTHPL về DC ở CS và đội ngũ trưởng ấp, khu phố phải sát dân, biết tập hợp và tổ chức cho dân hoạt động tự quản. Do vị trí, vai trò của cấp xã như trên mà việc thực hiện DC ở xã, phường, thị trấn là nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, phường, thị trấn, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị, xã hội, tăng cường đoàn kết, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, xây dựng Đảng bộ, chính quyền và các đoàn thể ở xã, phường, thị trấn trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu tham nhũng, góp phần vào sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tóm lại, đơn vị hành chính cấp cơ sở là tế bào của xã hội, là khâu cuối cùng để chính sách, PL của Nhà nước đến với dân; là nơi trực tiếp diễn ra các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các nhu cầu đa dạng của đời sống văn hóa phù hợp với truyền thống, đặc điểm của cơ sở. + Cơ sở xã, phường, thị trấn có những khác biệt với cơ sở là doanh nghiệp nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước. Điều này được thể hiện: Với doanh nghiệp nhà nước: Thực hiện DC ở doanh nghiệp nhà nước cũng nhằm mục đích cụ thể hóa phương châm " dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra," song trực tiếp là nhằm phát huy quyền làm chủ của tổ chức công đoàn và quyền DC của người lao động, phát huy sáng tạo của tập thể người lao động để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
  19. doanh, bảo toàn và phát triển vốn của nhà nước, thực hành tiết kiệm chống lãng phí, chống vi phạm dân chủ, vi phạm kỷ luật, gây rối nội bộ, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Với cơ quan hành chính nhà nước: Dân chủ ở cơ quan hành chính nhà nước được quy định tại điều 1 của Nghị định 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó cơ quan hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành hệ thống hành chính nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập, thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước theo quy định của PL. Thực hiện DC ở cơ quan hành chính nhà nước là nhằm mục đích phát huy quyền làm chủ của CB,CC góp phần xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ CB,CC là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm chất, năng lực, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển và đổi mới của đất nước; ngăn chặn và chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu dân. Từ các quan niệm trên, và theo phạm vi nghiên cứu của luận văn có thể quan niệm: Năng lực thực hiện pháp luật về DC ở CS của CBCQCX là khả năng của đội ngũ CBCQCX nhận thức đúng, đầy đủ và áp dụng PL vào hoạt động của CQCX, vào việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng CB,CCCX, nhằm bảo đảm cho nhân dân ở xã, phường, thị trấn biết, bàn, làm và kiểm tra những việc mà PL về DC ở CS quy định. Với quan niệm trên, NLTHPL về DC ở CS của đội ngũ CB,CQCX có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy động lực mạnh mẽ của DC, để bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là cách tốt nhất để chống quan liêu, tham nhũng. Thực tế cho thấy, trong những điều kiện thực hiện dân chủ, ngoài điều kiện về dân sinh, dân trí, dân quyền thì việc thực hiện DC ở CS đòi hỏi mỗi CB,CCCX phải có NLTHPL về DC ở CS, phải biết cụ thể hóa những yêu cầu của PL, hiện thực hóa các yêu cầu đó trong cuộc sống của dân để tổ chức đời sống cho dân và tập hợp được lực lượng của dân tại xã, phường, thị trấn, làm cho mỗi người dân vừa là đối tượng thụ hưởng những quyền và lợi ích DC mà xã hội, nhà nước đem lại, vừa là chủ thể xây dựng, bảo vệ nền dân chủ, bảo vệ chế độ Nhà nước, bảo vệ Đảng và cách mạng. 1.1.2. đặc điểm của năng lực thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở của cán bộ chính quyền cấp xã
  20. để bảo đảm NLTHPL về DC ở CS của CBCQCX, cần phải làm rõ những đặc điểm cụ thể của CBCQCX, thấy được những yếu tố tác động tích cực lẫn tiêu cực và dự báo được những thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn. ở đây, CBCQCX được hiểu: - Cán bộ chuyên trách làm việc tại HĐND và UBND là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ, gồm các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch HĐND và chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã. - Công chức cấp xã là những người được tuyển dụng, giao giữ chức danh chuyên môn thuộc UBND, gồm các chức danh: Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Chỉ huy trưởng quân sự; Văn phòng-Thống kê; Địa chính - Xây dựng; Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội. - Cán bộ không chuyên trách cấp xã (không tính khối Đảng, đoàn thể), gồm các chức danh: Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó Chỉ huy trưởng quân sự; cán bộ kế hoạch- giao thông - thủy lợi- nông, lâm, ngư, diêm nghiệp; cán bộ dân số- gia đình và trẻ em; Thủ quỹ- văn thư- lưu trữ; cán bộ phụ trách đài truyền thanh và cán bộ quản lý nhà văn hóa. - Cán bộ không chuyên trách ở ấp, khu phố: trưởng ấp, khu phố, công an viên ở ấp, khu phố. Đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã trên có chung đặc điểm sau: + Cán bộ chính quyền cấp xã vừa là người đại diện Nhà nước, vừa đại diện cộng đồng, vừa là người cùng làng, cùng họ, vừa là người dân, là người gần gũi dân, sát dân nhất nên họ là người nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của dân để phản ánh lên các cấp chính quyền để các cấp chính quyền đặt ra chính sách đúng đắn. + Cán bộ chính quyền cấp xã là người trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, PL của Nhà nước cho nhân dân và vận động nhận dân thực hiện đường lối, chính sách, PL đó vào trong cuộc sống. + Cán bộ chính quyền cấp xã là người trực tiếp giải quyết những yêu cầu, những thắc mắc về quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. + Cán bộ chính quyền cấp xã là người am hiểu phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của địa phương, họ là người tập hợp được khối đại đoàn kết toàn dân ở cơ sở, là người phát huy tính tự quản của cộng đồng dân cư.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2