intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Chia sẻ: Carol123 Carol123 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:121

557
lượt xem
68
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có nhiều đóng góp lớn. Với phong cách lao động nghiêm túc, không ngừng tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, ông đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên văn đàn văn học. Sáng tác của ông được đánh giá cao ở cả thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ---------------●♥●--------------- NGUYỄN THỊ HẢI YẾN NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên, tháng 8 năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………. 01 NỘI DUNG ………………………………………………………… ……………. 08 Chương 1. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 08 1.1. Khái niệm trần thuật và điểm nhìn trần thuật ……………………... ................ 08 1.1.1. Khái niệm trần thuật …………………………………………….. ........... 08 1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật ………………………………………… 08 1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật ………………………………….. ............ 10 1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng và nghệ thuật lựa chọ n điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới ………………………………… …………………… 13 1.2.1. Nhà văn Ma Văn Kháng ………………………………………… ……... 13 1.2.2. Nghệ thuật lựa chọn điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ……………………………………………………………. 19 1.2.2.1. Điểm nhìn bên ngoài ………………………………………… …… 19 1.2.2.2. Điểm nhìn bên trong …………………………................................. 29 1.2.2.3. Sự dịch chuyển và kết hợp các điểm nhìn trần thuật ............... ......... 37 Chương 2. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 42 2.1. Khái niệm không gian trần thuật và thời gian trần thuật ………… ………….. 42 2.1.1. Không gian trần thuật …………………………………………… ……... 42 2.1.2. Thời gian trần thuật ……………………………………………… …….. 43 2.2. Không gian trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ….. 44 2.2.1. Không gian sinh hoạt đời thường ………………………………... .......... 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. 2.2.1.1. Không gian căn phòng …… ……………………………………….. 44 2.2.1.2. Không gian phố phường … ………………………………………... 48 2.2.1.3. Không gian làng quê ………………………………………………. 52 2.2.2. Không gian tâm trạng …………………………………………………... 54 2.3. Thời gian trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ……. 58 2.3.1. Thời gian gắn với những biến cố trong cuộc đời con người …… ……… 58 2.3.2. Thời gian tâm tưởng về với quá khứ ……………………………... ......... 63 2.3.3. Sự đan xen, xáo trộn các bình diện thời gian …………………… ……... 67 Chương 3. GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 71 3.1. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới …... 71 3.1.1. Khái niệm Giọng điệu trần thuật …………………………….................. 71 3.1.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới 73 3.1.2.1. Giọng điệu ngợi ca ………………………………………………... 74 3.1.2.2. Giọng điệu xót xa ngậm ngùi ……………………………………... 85 3.1.2.3. Giọng điệu triết lý, tranh biện ……………………………………... 91 3.1.2.4. Giọng điệu trào lộng trang nghiêm ………………………………... 95 3.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mớ i ……. 97 3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ trần thuật …………………………………............. 97 3.2.2. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới 98 3.2.2.1. Ngôn ngữ phong phú, đa dạng giàu tính khu biệt ………………… 98 3.2.2.2. Ngôn ngữ đời thường giản dị ……………………………………... 103 3.2.2.3. Ngôn ngữ giàu chất thơ, giàu hình ảnh và sức gợi cảm ……… …... 108 KẾT LUẬN ………………………………………………………………… …… 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………. 115 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong nền văn xuôi đương đại Việt Nam, Ma Văn Kháng là nhà văn có nhiều đóng góp lớn. Với phong cách lao động nghiêm túc, không ngừng tìm tòi, đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật, ông đã khẳng định được vị trí vững chắc của mình trên văn đàn văn học. Sáng tác của ông được đánh giá cao ở cả thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Ma Văn Kháng là nhà văn viết nhiều và viết khoẻ. Từ truyện ngắn đầu tay - Phố cụt đăng trên báo Văn nghệ năm 1961, cho đến nay Ma Văn Kháng đã có đến 20 tập truyện ngắn, 12 cuốn tiểu thuyết và 4 truyện viết cho thiếu nhi. Những tập truyện ngắn viết về đề tài miền núi như: Xa phủ (1969), Bài ca trăng sáng (1972), Góc rừng xinh xắn (1972), Người con trai họ Hạng (1972), M ùa mận hậu (1972), Cái móng ngựa (1973) đã khẳng định tài năng, tâ m huyết của nhà văn và góp phần làm cho bức tranh hiện thực cuộc sống được phản ánh trong nền văn học hiện đại Việt Nam trở nên phong phú, đa dạng. Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn, Ma Văn Kháng còn rất thành công ở thể loại tiểu thuyết. Từ Gió rừng (1976), Đồng bạc trắng hoa xòe (1978), Mùa lá rụng trong vườn (1982), Vùng biên ải (1983) đến Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh đời (1989) …, tên tuổi của Ma Văn Kháng càng được đông đảo bạn đọc biết đến bởi không chỉ ở vốn hiểu biết dồi dào mà còn ở một cách thể hiện mới mẻ. Trong văn nghiệp của Ma Văn Kháng, truyện ngắn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Truyện ngắn đã đem đến vinh quang cho nhà văn ngay từ buổi đầu khởi nghiệp: Truyện ngắn Xa Phủ được giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi viết truyện ngắn 1967 - 1968 của tuần báo Văn nghệ; tập truyện Trăng soi sân nhỏ được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1
  5. giải thưởng Đông Nam Á năm 1998; truyện San Cha Chải được giải cây bút vàng của Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam 1996 - 1998. Không chỉ thành công ở đề tài miền núi, Ma Văn Kháng còn thành công ở đề tài thành thị. Các tập truyện Ngày đẹp trời (1986), Trái chín mùa thu (1988), Heo may gió lộng (1990), Trăng soi sân nhỏ (1995) … đã thể hiện những giá trị nhân sinh sâu sắc và những trăn trở đầy trách nhiệm của nhà văn về cuộc đời và con người. Với quan niệm viết văn là việc “ đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Ma Văn Kháng đã tạo cho mình một tiếng nói, một phong cách nghệ thuật riêng. Các sáng tác của ông không chỉ đặt ra và lý giải những vấn đề có ý nghĩa dân tộc mà còn mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như: vấn đề hôn nhân gia đình, tình yêu, tâm linh, những vấn đề về nghệ thuật, vai trò sứ mệnh của văn chương … Ma Văn Kháng là nhà văn không ngừng đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật. Chính vì thế, lâu nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của ông. Tuy nhiên nghiên cứu về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng vẫn chưa có một công trình chuyên biệt nào. Với mong muốn góp thêm tiếng nói vào sự khẳng định đặc điểm nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng, chúng tôi lựa chọn đề tài: “ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới ”. Nghiên cứu thành công vấn đề này, luận văn sẽ góp phần khẳng định tài năng, sự độc đáo của Ma Văn Kháng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của tác giả. 2. Lịch sử vấn đề Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn có những đóng góp đáng kể vào công cuộc đổi mới của nền văn xuôi đương đại Việt Nam. Lâu nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết và truyện ngắn của ông, đặc biệt là thể loại truyện ngắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2
  6. Trước năm 1975, khi tập truyện ngắn đầu tay Xa Phủ (1969) ra đời, trên báo Nhân dân số ra ngày 5/10/1970 có đăng bài Đọc sách Xa Phủ của tác giả Nguyễn Đại. Bài viết tập trung tìm hiểu chất miền núi, dân tộc và khẳng định sự thành công của Ma Văn Kháng. Tác giả khẳng định qua tập truyện: “Ma Văn Kháng đã nắm được phong tục, tập quán của các dân tộc ít người và ngòi bút của anh tỏ ra sinh động trong việc miêu tả rừng núi”. Giai đoạn 1975 - 1985, các cây bút phê bình, nghiên cứu chủ yếu hướng vào tìm hiểu thể loại tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Đáng chú ý là các bài nghiên cứu của Trần Đăng Xuyền đăng trên báo Văn nghệ: Đọc Đồng bạc trắng hoa xoè - Báo Văn nghệ số 49 ngày 8/12/1979; Một cách nhìn cuộc sống hôm nay - Báo Văn nghệ số 15 ngày 9/4/1983; Phải chăm lo cho từng người - Báo Văn nghệ số 40 ngày 15/10/1985. Qua các bài viết này, tác giả đã có những cảm nhận sâu sắc về cái nhìn, cảm quan hiện thực cuộc s ống trong các tiểu thuyết: Đồng bạc trắng hoa xoè, Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn. Từ 1986, giới nghiên cứu phê bình đã chú ý nhiều đến truyện ngắn Ma Văn Kháng. Tác giả Nguyễn Nguyên Thanh trong bài viết Ngày đẹp trời - tính dự báo về những tình thế xã hội - Báo Văn nghệ số 21 ngày 23/5/1987 khẳng định: “Ma Văn Kháng đã khám phá cuộc sống từ nhiều bình diện khác nhau, ông lách sâu hơn vào ngõ ngách đời sống tinh thần, tìm ra những nguyên nhân và quy luật khắc nghiệt của tồn tại xã hội”. Khi đọc tập Heo may gió lộng, tác giả Trần Bảo Hưng đã có cảm nhận: “ Truyện anh viết thường có lớp lang, thứ tự, ít tiểu xảo mà hấp dẫn, ngòi bút anh tỏ ra khách quan, điềm tĩnh nhưng vẫn thấm đượm tình yêu thương con người, vẫn nhoi nhói nỗi đau trần thế. Không ít t ruyện của anh mang tính chất luận đề và chất triết lý khá rõ nhưng vẫn nhuyễn, vẫn cuốn hút người đọc vì văn của anh đậm đà, giàu hương vị, những chi tiết đời sống phong phú, tiêu biểu và nhiều thuyết phục” [11] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3
  7. Đáng chú ý nhất phải kể tới bài viết Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn của Lã Nguyên đăng trên Tạp chí Văn học số 9/1999. Bằng cái nhìn sắc sảo, cách tiếp cận khoa học, tác giả đề cập đến nhiều bình diện của truyện ngắn Ma Văn Kháng. Tác giả chia truyện ngắn Ma Văn Kháng thành ba nhóm. Nhóm thứ nhất là những truyện “thể hiện cái nhức nhối xót xa, giận mà thương cho sự hoang dã mông muội của những kẻ chưa thành người và những người không được làm người”. Nhóm thứ hai là những truyện “cất lên tiếng nói cảm khái thâm trầm trước thế sự hôm nay”. Nhóm thứ ba là “những truyện ngắn thể hiện cảm hứng trào lộng, trang nghiêm trước vẻ đẹp của cuộc đời sinh hoá hồn nhiên”. Theo cách phân loại trên, tác giả cho thấy nhóm thứ nhất là những sáng tác viết về đề tài miền núi, nhóm thứ hai là những tác phẩm viết về đời sống thành thị trong sự đổi thay mạnh mẽ của đất nước sau chiến thắng 1975. Nhóm thứ ba là những sáng tác đi sâu thể hiện niềm tin và tinh thần lạc quan vào cuộc sống. Cũng trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến một số đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng như: tính công khai bộc lộ chủ đề, sự cố ý tô đậm tính cách nhân vật, việc lồng giai thoại vào cốt truyện, đưa thành ngữ tục ngữ vào ngôn ngữ nhân vật … Điều đáng lưu ý là, trong bài viết này tác giả đã đưa ra một số gợi mở về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng như: khoảng cách giữa người trần thuật với đối tượng trần thuật; giọng điệu trần thuật … Tuy mới chỉ dừng lại ở những nhận định chứ chưa được cụ thể hoá và lý giải một cách cụ thể nhưng chúng tôi coi đó là những gợi mở thú vị, là những chỉ dẫn quý báu trong quá trình triển khai đề tài của mình. Bên cạnh những bài viết trên các báo và tạp chí, chúng tôi không thể không nhắc đến một số luận văn và đề tài khoa học tiêu biểu nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4
  8. truyện ngắn Ma Văn Kháng đã được bảo vệ thành công như luận văn của các tác giả: Phạm Mai Anh, Đỗ Phương Thảo. Với đề tài Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau năm 1980, tác giả Phạm Mai Anh đã tập trung khai thác một số yếu tố nghệ thuật trong truyện Ma Văn Kháng như: kết cấu, nhân vật, ngôn ngữ. Tác giả chỉ ra những đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Ma Văn Kháng như: lối kết cấu mở, nghệ thuật đặc tả nhân vật, sự phối hợp lời kể, lời tả, lời thuy ết minh luận bàn. Trong luận văn Giá trị tư tưởng và nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng, tác giả Đỗ Phương Thảo đã khảo sát và đưa ra một số kết luận về nghệ thuật xây dựng cốt truyện như: sử dụng phép liệt kê, sử dụng các yếu tố dân gian, sử dụng yếu tố hoang đường kỳ ảo … Đặc biệt là công trình nghiên cứu của TS Đào Thủy Nguyên “Đặc điểm truyện ngắn c ủa Ma Văn Kháng về đề tài dân tộc và miền núi”, tác giả đã đi sâu nghiên cứu và khẳng định một cách đầy thuyết phục những vấ n đề nhân sinh, thế sự, những thành công đặc sắc về nghệ thuật xây dựng nhâ n vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn viết về đề tài dân tộc và miền núi của Ma Văn Kháng. Qua việc tìm hiểu các công trình nghiên cứu truyện ngắn Ma Văn Kháng, chúng tôi nhận thấy nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng ít nhiều đã được đề cập đến nhưng mới chỉ dừng lại ở những ý kiến, nhận định có tính khái quát. Đây là những gợi ý quý báu của các tác giả để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu triển khai luận văn này. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Triển khai đề tài “Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới”, nhằm mục đích: Tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng ở các phương diện điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ, không gian và thời gian trần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5
  9. thuật, từ đó góp tiếng nói khẳng định sự đổi mới, sáng tạo tro ng nghệ thuật trần thuật của nhà văn. Nhiệm vụ của đề tài: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận có liên quan đến nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm tự sự nói chung và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn nói riêng. - Nghiên cứu một số phương diện của nghệ thuật trần thuật: điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, không gian và thời gian trần thuật. Dựa trên cơ sở lý luận liên quan đến đề tài, chúng tôi khảo sát và phân tích những biểu hiện cụ thể của điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, không gian và thời gian trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, từ đó khẳng định những sáng tạo của tác giả. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng, thể hiện qua các phương diện điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, thời gian và không gian trần thuật. - Luận văn khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Ma Văn Kháng sáng tác sau năm 1975. Nhưng vì thời gian có hạn, khi phân tích chúng tôi tập trung vào một số tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp khảo sát Để thực hiện đề tài này, chúng tôi tiến hành khảo sát cách lựa chọn điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, không gian và thời gian trần thuật của tác giả. Những cấp độ mà tác giả luận văn thực hiện khảo sát là: khảo sát từng tác phẩm và khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Ma Văn Kháng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6
  10. 5.2. Phương pháp hệ thống Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống trong quá trình nghiên cứu để tạo sự logic chặt chẽ khoa học. 5.3. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh giúp luận văn làm sáng rõ những nét đặc trưng, khác biệt của nghệ thuật trần thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng trước nă m 1975 so với các tác giả khác. 5.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp Để thực hiện đề tài này cùng với việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu trên, chúng tôi còn sử dụng phương pháp phân tích tác phẩm, nhân vật, tình tiết cụ thể. Từ đó khái quát, tổng hợp những đặc điểm nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được trình bày trong 3 chương: Chương 1. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới Chương 2. Không gian và thời gian trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới Chương 3. Giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7
  11. NỘI DUNG Chương 1 ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN MA VĂN KHÁNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1.1. Khái niệm trần thuật và điểm nhìn trần thuật 1.1.1. Khái niệm trần thuật Các tác giả trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã thống nhất quan niệm: “Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này. Nó đánh dấu sự đổi thay điểm chú ý của ý thức văn học từ hệ thống sự kiện thắt nút, mở nút sang chủ thể thẩm mỹ của tác phẩm tự sự” [6,tr.248]. Cùng với những quan niệm đó, các tác giả trong cuốn Lý luận văn học xác định cụ thể: “Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Trần thuật là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức. Bố cục của trần thuật là sắp xếp, tổ chức sự tương ứng giữa các phương diện khác nhau của hình tượng với các thành phần khác nhau của văn bản” [34,tr.307]. Từ những quan điểm đó, ta có thể hiểu: Trần thuật là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự việc theo cái nhìn nhất định. Nghệ thuật trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự , nó có tác dụng soi sáng nội dung tư tưởng của tác phẩm và thể hiện sự sáng tạo độc đáo của nhà văn. 1.1.2. Khái niệm điểm nhìn trần thuật Các nhà lý luận, phê bình sử dụng nhiều từ ngữ khác nhau để gọi tên thuật ngữ này: quan điểm trần thuật, điểm nhìn tâm lý, cái nhìn trần thuật, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8
  12. phương thức trần thuật. Ở đây chúng tôi xem xét vấn đề và thống nhất thuật ngữ điểm nhìn trần thuật. G N Pospelov khẳng định: “Trần thuật tự sự bao giờ cũng tiến hành từ phía một người nào đó” [36,tr.14]. Từ đó ông cho rằng: “Mối tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật gọi là điểm nhìn trần thuật”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học “Khoảng cách, góc độ của lời kể đối với cốt truyện tạo thành cái nhìn” [6,tr.247]. Còn Henry James trong Nghệ thuật văn xuôi (1884) lại cho rằng “Điểm nhìn trần thuật là sự lựa chọn cự ly trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [36,tr.14]. Nhận thấy vai trò đặc biệt của điểm nhìn trần thuật, nhà lý luận Phương Lựu đã nhấn mạnh: “Nghệ sỹ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện của đời sống nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với sự vật, hiện tượng, nhìn từ góc độ nào, xa hay gần, cao hay thấp, từ bên trong hay bên ngoài” [50,tr.12], bởi sự trần thuật trong văn xuôi nghệ thuật bao giờ cũng tiến hành từ một điểm nhìn nào đó. Nhà văn không thể miêu tả nghệ thuật và tổ chức tác phẩm mà không xác lập cho mình một điểm nhìn, một chỗ đứng nhất định. Việc chọn một chỗ đứng thích hợp để người kể chuyện kể câu chuyện là một trong những sự trăn trở đối với nhà văn khi sáng tạo tác phẩm. Bởi vậy điểm nhìn trần thuật góp phần đáng kể vào sự thành công của tác phẩm, qua đó thể hiện sự sáng tạo của nhà văn trên hành trình lao động nhọc nhằn của mình. Như vậy có nhiều quan niệm về điểm nhìn trần thuật. Ta có thể thấy: Điểm nhìn trần thuật là vị trí, khoảng cách, góc độ chủ thể trần thuật dùng để quan sát đối tượng trần thuật. Điểm nhìn tr ần thuật có thể từ bên ngoài, có thể từ bên trong, có cái nhìn từ một phía, có cái nhìn từ nhiều phía … Trong quan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9
  13. hệ giữa chủ thể trần thuật với người đọc thì chủ thể trần thuật được coi là người chỉ đường và dẫn dắt người đọc thâm nhập vào tác phẩm theo các diễn biến, xung đột, thắt nút, mở nút của các sự kiện đời sống. 1.1.3. Phân loại điểm nhìn trần thuật Theo cuốn Lý luận văn học (Phương Lựu chủ biên) điểm nhìn trần thuật được phân chia trên 2 bình diện: * Xét về trường nhìn trần thuật được chia thành 2 loại: trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật - Trường nhìn tác giả: Người trần thuật đứng ngoài câu chuyện để quan sát đối tượng. Kiểu trần thuật này mang tính khách quan tối đa cho lời trần thuật. - Trường nhìn nhân vật: Người trần thuật nhìn sự vật, hiện tượng theo quan điểm của một nhân vật trong tác phẩm. Trần thuật theo điểm nhìn nhân vật mang đậm sắc thái tâm lý, chất trữ tình hoặc châm biếm do sự chi phối trực tiếp bởi địa vị, hiểu biết, lập trường của nhân vật. * Xét về bình diện tâm lý, có thể phân biệt thành điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài: - Điểm nhìn bên trong: Người trần thuật nhìn thấy đối tượng qua lăng kính của một tâm trạng cụ thể, dễ dàng tái hiện diễn biến trong tâm hồn nhân vật. - Điểm nhìn bên ngoài: Chủ thể trần thuật giữ cái nhìn khách quan từ vị trí bên ngoài có khoảng cách nhất định với đối tượng trần thuật. * Các tác giả cuốn Nhập môn văn học chia điểm nhìn trần thuật thành 5 loại: - Trần thuật khách quan: Người trần thuật lẩn đi, không nhập cảm vào ý thức của một nhân vật nào, chỉ ghi lại những sự kiện một cách khách quan. - Trần thuật thông suốt tất cả: Người kể dường như biết tất cả về đời sống nội tâm và hoạt động của mọi nhân vật trong tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10
  14. - Trần thuật thông suốt tất cả có lựa chọn: Người kể chỉ “biết hết tất cả” với một vài nhân vật. Những nhân vật khác được miêu tả qua ấn tượng của nhân vật được lựa chọn. - Trần thuật tham dự: Người trần thuật tham dự vào truyện như là một nhân vật, khoảng cách trong người trần thuật và nhân vật được rút ngắn tới mức thấp nhất. - Trần thuật không tham dự: Người kể lẩn đi, lời kể hầu như chỉ còn sự kiện, tình tiết. Khoảng cách trong người trần thuật và đối tượng trần thuật là lớn nhất. Theo Pospelov, điểm nhìn trần thuật được chia làm 2 loại: - Trần thuật khách quan: Khi có khoảng cách nhất định giữa các nhân vật và người trần thuật. Loại trần thuật này gặp nhiều trong các tác phẩm tự sự truyền thống. - Trần thuật chủ quan: Người trần thuật nhìn thế giới theo con mắt của một nhân vật, thâm nhập vào suy nghĩ và ấn tượng của người ấy. Khoảng cách trong người trần thuật và đối tượng được trần t huật bị thủ tiêu. Điểm nhìn từ hai phía được thâm nhập làm một. Theo Pospelov kiểu trần thuật này xuất hiện khoảng 200 năm gần đây và ngày càng chiếm được ưu thế, được các tác giả sử dụng ngày càng nhiều trong tác phẩm văn xuôi tự sự. Theo Trần Đình Sử, điểm nhìn trần thuật được chia thành 5 loại: - Điểm nhìn của người trần thuật, tác giả hay của nhân vật trần thuật và của nhân vật. - Điểm nhìn không gian, thời gian. - Điểm nhìn bên trong, bên ngoài. - Điểm nhìn đánh giá tư tưởng, cảm xúc. - Điểm nhìn ngôn từ: bản thân mỗi hình thức ngôn từ đã mang một quan điểm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11
  15. Dựa trên lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R.S. Choles và R. Kellogg, Cao Kim Lan đề cập đến cách phân biệt điểm nhìn thành 3 loại chính - tương ứng với ba kiểu người kể chuyện: - Điểm nhìn của người kể chuyện toàn tri: Người kể thông suốt mọi sự, anh ta được quyền không chỉ miêu tả sự việc như anh ta đã thiết lập mà còn có thể bình luận về chúng để khái quát hóa và để kể với người đọc những suy nghĩ về sự kiện đã diễn ra. - Điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ ba : Người kể có đầy đủ quyền năng trên khắp trường nhìn của anh ta, miêu thuật lại cho độc giả những gì mình nghe thấy, nhìn thấy với tư cách nhân chứng. - Điểm nhìn của người kể chuyện ngôi thứ nhất: Người trần thuật là một nhân vật trong truyện, thường xưng “tôi” để kể lại câu chuyện hoặ c miêu tả tâm trạng của mình hoặc của các nhân vật khác. Trong sách “Lý luận văn học - mấy vấn đề cần suy nghĩ” (Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương), điểm nhìn trần thuật chia làm 3 loại: - Trần thuật khách quan: Sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một người quan sát đứng bên ngoài đối tượng. Chủ thể trần thuật kể lại tất cả những gì anh ta chứng kiến. Anh ta chỉ kể lại những điều đã chứng kiến hoặc trực tiếp cảm thấy, nghe thấy. Qua đó chúng ta thấy được tính khách quan rõ nét không mang sắc thá i tâm lý riêng của nhân vật. Ở điểm nhìn này chủ thể trần thuật ở ngôi thứ ba. - Trần thuật chủ quan: Sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn của một nhân vật. Bằng cái nhìn “nhân vật hóa”, người trần thuật tái hiện lại thế giới, diễn biến các sự việc, sự kiện, cảnh vật, môi trường, vừa có khả năng đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật. Ở điểm nhìn này, người trần thuật cũng đồng thời là một nhân vật trong tác phẩm, đứng ở ngôi thứ nhất và tái hiện lại những gì bản thân nhân vật trả i qua. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12
  16. - Trần thuật theo phương thức liên chủ quan: Sự trần thuật được tiến hành từ điểm nhìn bên trong của nhân vật nhưng không thuần nhất nhân vật nào mà đan cài, xen kẽ giữa các nhân vật. Điểm nhìn giữa các nhân vật chồng chéo lên nhau, hòa trộn với nhau tạo nên một hợp thể phức điệu của các điểm nhìn không chỉ trong toàn bộ tác phẩm mà trong từng hoạt động của nhân vật. Qua khảo sát chúng ta thấy mỗi nhà nghiên cứu tìm tòi và khai thác các vấn đề của điểm nhìn trần thuật theo một cách thức riêng. Vì vậy khi nghiên cứu tác phẩm chúng ta cần phải lựa chọn những cơ sở lý luận phù hợp. Để tập trung giải quyết nhiệm vụ đề tài đặt ra, chúng tôi nghiên cứu điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng theo hướng phân loại của tác giả Phương Lựu: điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. 1.2. Nhà văn Ma Văn Kháng và nghệ thuật lựa chọn điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới 1.2.1. Nhà văn Ma Văn Kháng Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh ngày 01 tháng 12 năm 1936 tại một làng quê nghèo ô Đồng Lâm, ngoại thành Hà Nội. Đó là một làng cổ thanh bình nhưng vô cùng nghèo nàn, lạc hậu. Năm 1954, hòa bình lặp lại, theo tiếng gọi của Đảng, Ma Văn Kháng tạm biệt quê hương Hà Nội lên Tây Bắc tham gia hoạt động cách mạng . Quãng đời trẻ trung của ông đã trải qua b ao công việc khác nhau: dạy học, làm thư ký cho bí thư tỉnh ủy Lào Cai, làm phóng viên, viết báo … Trước khi trở thành nhà văn, Ma Văn Kháng đã gắn bó, thâm nhập đến tận cùng vào “cuộc sống tuy vẫn còn lạc hậu nhưng rất đỗi chân tình của đồng bào các dân tộc thiểu số, những mảnh đời gieo neo của người dân miền xuôi tha phương cầu thực và lập nghiệp ở đây, những trai gái hăm hở lên khai hoang, xây dựng quê hương mới, những điều mới mẻ từ quan hệ thầy trò ấm áp tình xuôi ngược” [48]. Ma Văn Kháng đã thực sự bị cuốn hút từ chính cuộc sống lam Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13
  17. lũ và tình người nơi đây. Ông viết báo, viết văn như một sự thôi thúc từ trái tim dạt dào xúc động. Phố cụt truyện ngắn mở đầu văn nghiệp của Ma Văn Kháng, được trang trọng in trên trang nhất tuần báo Văn nghệ số 136, ngày 3/3/1961. Với cốt truyện đơn giản, văn mạch rõ ràng, truyện ngắn đầu tay đã báo hiệu những đường nét cơ bản sẽ được bồi đắp dày dặn tiếp về sau của đời văn tác giả. Truyện ngắn Phố cụt tập trung miêu tả số phận của vài ba con người quần tụ trong một ngõ phố nhỏ heo hút miền núi. Tình yêu và hạnh p húc đã nhen nhóm và nảy nở một cách dung dị, chất phác từ những mảnh đời đơn chiếc, từng trải qua những cảnh xót xa, đau lòng dưới chế độ cũ. Truyện ẩn chứa tấm lòng ấm áp, nhân hậu của tác giả, từ đó truyền vào người đọc niềm tin yêu những người lao động lương thiện, dù có bị hoàn cảnh xô đẩy, làm cho phôi pha, song họ vẫn giữ được phẩm c ách, sự bao dung nhân hậu. Truyện ngắn trước 1975 của Ma Văn Kháng thường tập trung vào đề tài về đồng bào dân tộc ở những gia i đoạn lịch sử khác nhau: chế độ xã hội cũ, hiện thực cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, hiện thực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong truyện Xa Phủ, nhà văn đề cập đến sự đổi thay trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của con người miền núi. Ở họ, dù còn có những tàn tích của những ngày đã qua , song điều quan trọng là họ tích cực chủ động chuyển mình thành những con người mới, làm chủ cuộc đời trong dòng chảy chung của đất nước. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật, Ma Văn Kháng đặt ra bao vấn đề: vấn đề con người miền núi ra sao, vấn đề cuộc sống của họ như thế nào trước hiện thực lớn lao của dân tộc. Điều quan trọng là lúc nào nhà văn cũng tin tưởng con người miền núi đầy phẩm chất tốt đẹp, bản thân họ đang tự khẳng định những giá trị chân chính, đích thực. Với truyện ngắn Cái móng ngựa, tác giả tập trung phản ánh quá trình xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao, phản ánh thái độ, tâm tư tình cảm, cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14
  18. ứng xử của con người miền núi trước những hiện thực lớn lao, trước những tập tục lạc hậu như trọng nam khinh nữ, du canh du cư, mê tín dị đoan … Có thể nói rằng truyện ngắn trước 1975 của Ma Văn Kháng là những bức tranh sinh động đầy màu sắc về cuộc sống của đồng bào các dân tộc. Ma Văn Kháng đã hòa nhập, thấu hiểu cuộc sống vùng Tây Bắc. Vì vậy trong sáng tác của ông, hình ảnh người dân miền núi hiện lên thật đẹp. Người đọc bắt gặp ở họ tình yêu quê hương xứ sở, sự trung thực, thật thà, say mê, yêu đời và nhiệt tình cách mạng. Ma Văn Kháng cần cù, bền bỉ đi vào cuộc sống. Ông gặp gỡ, hỏi han, ghi chép và lặng lẽ, khiêm nhường chuyển hóa những hiểu biết về cuộc sống nhân dân, hiện thực của đất nước lên những trang viết. Với những tác phẩm của mình, nhà văn đã lần lượt đặt ra những vấn đề bức xúc từ các khía cạnh của đời sống muôn mặt và qua các nhân vật đủ hình, đủ kiểu. Cảm hứng bao trùm trong truyện ngắn Ma Văn Kháng trước 1975 là sự khẳng định, ngợi ca những nhân tố mới, con người mới, cuộc sống mới trên quê hương đồng bào dân tộc ít người. Dù nghệ thuật thể hiện có khác nhau song nhà văn vẫn bộc lộ cách nhìn của mình qua chủ đề tư tưởng tác phẩm. Nằm trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam trước 1975, nhà văn thường đề cao con người cộng đồng, coi nhẹ con người cá nhân. Con người trong những tác phẩm giai đoạn này là những con người có ý thức chính trị cao, quên “cái tôi” riêng, hy sinh cho cái chung một cách thanh thản. Với khuynh hướng sử thi, các nhân vật được hiện lên như một người đại diện xứng đáng cho sức mạnh của cộng đồng dân tộc. Nhà văn thiên về khẳng định ngợi ca những phẩm chất lý tưởng của anh hùng cách mạng mà ít quan tâm đến cái tôi cá nhân của họ. Ma Văn Kháng đã đứng trên quan điểm chung của cộng đồng dân tộc mà miêu tả, kể chuyện. Trong những tháng ngày hào hùng của đất nước, cả dân tộc cùng hướng về một phía, tất cả vì tiền tuyến, mọi người đều dồn hết tâm lực để phục vụ lợi ích cao nhất của cộng đồng thì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15
  19. những sáng tác trước 1975 của Ma Văn Kháng đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh lịch sử của mình. Thời kỳ này nhà văn soi chiếu hiện thực đời sống trên cùng một lập trường tư tưởng thống nhất, vì thế các tác phẩm thường mang tính đơn thanh, độc thoại. Điểm nhìn trần thuật hầu hết là từ bên ngoài. Người trần thuật thường xuất hiện ở ngôi thứ ba để quan sát miêu tả và phân tích nhân vật. Từ vị trí ấy, những tư tưởng cơ bản của thời đại được nhà văn gửi gắm vào tác phẩm. Trước năm 1975, cùng với truyện ngắn của Tô Hoài và các nhà văn hiện đại khác, truyện của Ma Văn Kháng đã góp phần khởi sắc cho nền văn học viết về đề tài miền núi. Tuy nhiên, chúng ta vẫn bắt gặp những hạn chế nhất định của truyện ngắn trước năm 1975. Đó là sự đơn điệu, lặp lại trong chủ đề tư tưởng tác phẩm, trong cách nhìn nhân vật thuần nhất, chưa đậm nét, trong tính cách còn đơn giản, một tuyến. Theo nhà văn, đó là “một thời lãng mạn đã qua đi”. Hạn chế của Ma Văn Kháng c ũng là hạn chế chung của cả một thời kỳ văn học. Thực sự phải từ sau 1975 truyện ngắn Ma Văn Kháng mới có sự đổi thay mới mẻ. Chất lượng nghệ thuật tác phẩm ngày càng được khẳng định. Đây là thời kỳ truyện ngắn Ma Văn Kháng nói riêng và những sáng tác của ông thực sự đi vào lòng người đọc. Sau khi đất nước thống nhất, năm 1976, Ma Văn Kháng rời Lào Cai - mảnh đất được xem như là quê hương thứ hai của mình để trở về Hà Nội hoạt động với tư cách nhà văn chuyên nghiệp. Một giai đoạn mới mở ra với nhà văn: sáng tác của ông nở rộ, bút lực ngày càng tỏ ra sung sức, đề tài được mở rộng, nhiều chủ đề được khai thác sâu và tinh tế. Cảm hứng sử thi vốn bao trùm trong các sáng tác giai đoạn trước giờ đã dần nhường chỗ cho cảm hứng thế sự đời tư. Truyện ngắn Ma Văn Khá ng thực sự đổi mới trên nhiều bình diện: bình diện nội dung và bình diện nghệ thuật. Cách nhìn cuộc sống, con người giờ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 16
  20. đây có sự sâu sắc chín muồi, đầy sự chiêm nghiệm đúc kết của một nhà văn từng trải, sống hết mình với cuộc đời. Với Ma Văn Kháng, cuộc s ống giờ đây thật sự đa dạng phong phú, bề bộn và phức tạp. Theo ông, chính sự đa dạng, phức tạp đó đã đem đến cách nhìn mới và cảm hứng mới cho nhà văn. Sự đổi mới đầu tiên chính là đổi mới đề tài. Truyện ngắn tập trung vào hai đề tài chính: đề tài miền núi và thành thị. Trước đây, Ma Văn Kháng viết về đề tài miền núi để phản ánh cuộc sống lao động, chiến đấu của đồng bào dân tộc. Giờ đây ông khai thác đề tài miền núi trên một bình diện mới. Nhà văn phản ánh, đề cập những vấn đề về cuộc đời và số phận của c on người. Ở mảng đề tài thành thị, Ma Văn Kháng hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề nóng hổi: vấn đề đời tư, thế sự, nhân sinh … Ông đề cập đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống con người hôm nay: tình yêu, tình dục, hôn nhân, gia đình, sự toan tính vụ lợi, cơm áo gạo tiền … Nhà văn trăn trở nhiều cho số phận con người, cho sự tác động chi phối khủng khiếp của hoàn cảnh với con người. Ông chú ý đến cuộc đụng độ quyết liệt giữa con người với con người, con người với môi trường - hoàn cảnh sống, con người tro ng quan hệ với chính mình để giữ vững nhân cách và hoàn thiện nhân cách. Một số tác phẩm là lời cảnh báo về tình trạng phi nhân tính, tha hóa của con người. Trung du chiều mưa buồn là câu chuyện buồn đau về cách đối xử của con người với con người. Nhân vật bà Nhàn đã đi đến tận cùng của sư vô cảm. Ma Văn Kháng quan niệm: sự vô cảm dẫn đến cái ác, ác không chỉ trong hành động, ác còn là sự vô tâm, dửng dưng, thiếu trách nhiệm với con người. Ma Văn Kháng đang lo ngại cho một căn bệnh đang phát triển trong xã hội hiện nay: bệnh lãnh cảm, thờ ơ, dửng dưng, lạnh lùng trước nỗi đau của người khác. Nhà văn báo động cho một tình trạng của xã hội thời đổi mới. Trong truyện Đợi chờ, Ma Văn Kháng diễn tả cái khắc khoải, hy vọng của một người cha với đứa con gái yêu dấ u. Ông Nhân là một người cha suốt đời vì con. Trong ông luôn thường trực tình yêu con song đứa con lại phũ phàng, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2