intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:99

80
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải đưa ra khái niệm thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật thơ trữ tình, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, phương thức biểu hiện trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải,... Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải

  1. 1 BOÄ GIAÙO DUÏC VAØ ÑAØO TAÏO TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC SÖ PHAÏM TP. HOÀ CHÍ MINH NGOÂ HOÀNG HIEÄP THEÁ GIÔÙI NGHEÄ THUAÄT THÔ AÙ NAM TRAÀN TUAÁN KHAÛI Chuyeân ngaønh : Vaên hoïc Vieät nam Maõ soá : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HỌC NGÖÔØI HÖÔÙNG DAÃN KHOA HOÏC: PGS. TS. PHUØNG QUYÙ NHAÂM Thaønh phoá Hoà Chí Minh -2007
  2. 2 MỞ ĐẦU 1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 1.1. “Nhắc đến tên thi sĩ Á Nam Trần Tuấn Khải nhiều người không khỏi cảm thấy xa xôi như nhắc đến một con người của thế kỷ trước...”. Đó là nhận xét của tác giả cuốn “Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải” ở “Lời nói đầu” do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1984, một năm sau khi nhà thơ qua đời. Điều đó cho thấy trong suốt một thời gian dài, tên tuổi và sự nghiệp thơ văn của Á Nam dường như bị lãng quên. Hơn hai mươi năm nữa trôi qua, nhân loại đã bước sang thế kỷ mới và cái tên Trần Tuấn Khải dần trở lên gần gũi hơn nhờ thơ văn của ông được đưa vào giảng dạy ở các cấp học đại học và phổ thông. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và xuất bản thơ văn Á Nam vẫn còn quá ít ỏi, chưa xứng đáng với tầm vóc của một thi gia lớn buổi giao thời văn học từ trung đại sang hiện đại, người đã cùng Tản Đà tạo nên cái gạch nối sang Thơ mới, người với những bài thơ tràn đầy tâm huyết yêu nước được diễn đạt dưới hình thức dân gian - một thời đông đảo quần chúng yêu mến. Bởi vậy, nghiên cứu thơ ca Á Nam Trần Tuấn Khải để góp phần xác định vị trí vốn có của một nhà thơ thuộc thế hệ đầu tiên sáng tác bằng chữ quốc ngữ là việc làm cần thiết. 1.2. Thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải cần được nhìn nhận như một chỉnh thể với những quy luật vận động nội tại. Đã có một thời trong nghiên cứu văn học của chúng ta tồn tại tình trạng tách rời hai phạm trù nội dung và hình thức, hoặc chỉ tập trung xem xét văn học như một hiện tượng xã hội, lịch sử. Để khắc phục, phương pháp luận nghiên cứu văn học đòi hỏi phải đi vào thế giới nghệ thuật của một nhà thơ, nhà văn như đi vào một cấu trúc lôgic của một tổ chức bên trong, có sự thống nhất biện chứng, hài hòa giữa nội dung và hình thức. Đây chính là hướng tiếp cận nghiên cứu của luận văn đối với thơ ca Á Nam. 1.3. Nghiên cứu một tác gia văn học không chỉ dừng lại ở việc xác định vị trí cá nhân của tác gia ấy. Mỗi một nhà văn, nhà thơ đều thuộc về một giai đoạn lịch sử nhất định. Bởi vậy nghiên cứu tác gia văn học còn có ý nghĩa không nhỏ về mặt lịch sử văn học. Khám phá thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải vì thế sẽ góp
  3. 3 phần giúp cho việc hình dung diện mạo thơ Việt Nam buổi giao thời, giai đoạn khởi đầu đầy ý nghĩa trên bước đường hiện đại hóa nền văn học dân tộc. 1.4. Trong chương trình của bộ môn Văn học Việt Nam ở Đại học Sư phạm vài chục năm trở lại đây, thơ văn Trần Tuấn Khải đã được đưa vào giảng dạy. Trần Tuấn Khải cũng được giới thiệu ở lớp 8 trung học cơ sở với bài thơ “Hai chữ nước nhà”. Chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải”, chúng tôi muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu, đánh giá một tác gia được dạy trong nhà trường. Qua đề tài này với tư cách cá nhân, chúng tôi mong muốn sẽ tích lũy được nhiều hơn tri thức khoa học và phương pháp nghiên cứu để phục vụ cho quá trình giảng dạy và nghiên cứu sau này. 2. Lịch sử vấn đề Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1894, mất năm 1983, cuộc đời trải qua nhiều chế độ. Đời thơ Á Nam dài hơn 70 năm với nhiều biến cố, thăng trầm. Phần có giá trị nhất của thơ ông, cũng là phần được nhiều người biết đến là những sáng tác được in vào những năm hai mươi, ba mươi của thế kỷ XX. Như trên đã nói, Á Nam là tác giả ít được nghiên cứu. Những ý kiến, nhận định về thơ ca Á Nam thường tản mạn, rải rác đó đây trong các công trình nghiên cứu không phải dành riêng cho ông. Chúng tôi xin điểm lại những nhận định cơ bản về thơ ca Á Nam qua mấy mốc sau: 2.1. Những ý kiến nhận định trước 1954 2.1.1. Một số ý kiến trên các báo, tạp chí đương thời - Tạp chí “Nam Phong” tháng 5/1921 đăng bài khen tập “Duyên nợ phù sinh”, khen các bài thơ “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu, “Gánh nước đêm” là “lời giản dị mà ý tứ sâu xa.” [10, tr.16]. - Báo “Trung Bắc tân văn” số 1282 đăng bài của Hoàng Ngọc Phách khen cuốn “Duyên nợ phù sinh” là “lời lẽ thanh thoát, ý tứ dồi dào, cảm hoài những việc vẩn vơ mà cao thượng” [10, tr.16]. 2.1.2. Dương Quảng Hàm trong “Việt Nam văn học sử yếu” nhận xét khách quan về Trần Tuấn Khải: “Nguồn thi hứng của ông thường là cái cảm tình đối với
  4. 4 non sông đất nước nên ông thường mượn đề mục ở lịch sử..., mượn cảnh ngộ anh Khóa để tả thân thế và hoài bão của mình” [21, tr. 430]. 2.1.3. Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” đã dành 12 trang nhận định về Trần Tuấn Khải. Tác giả cho rằng: Á Nam là nhà thơ giàu tình cảm, ông “bao giờ cũng lấy cảnh đời làm đầu đề” và thi ca của ông “là thứ thi ca đầy những ý tưởng luân lý” [57, tr. 391 – 398]. Về phương diện nghệ thuật, Vũ Ngọc Phan khẳng định: Thành công nhất của Á Nam là những bài hát theo lối dân gian. “Về loại này, Nguyễn Khắc Hiếu cũng phải thua ông...” [57, tr.391]; “những bài ca có tiếng của ông là những bài mà những tay thợ thơ không tạo ra được” [57, tr. 398]. 2.2. Những ý kiến nhận định sau 1954 ở miền Nam, vùng Mỹ ngụy kiểm soát 2.2.1. Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên” cho rằng thơ Á Nam có ba khuynh hướng: Khuynh hướng đạo lý, khuynh hướng thời thế và khuynh hướng mà tác giả gọi là “giọng buồn thế hệ” [49, tr. 102]. Tác giả nhận xét “Á Nam Trần Tuấn Khải có tình của một trí sĩ và ngọn bút của một thi ông” [49, tr. 403]; “Thơ ông đã gây được nhiều tiếng vang trong lòng người đương thời, nhất là những bài giọng thời thế như: “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu”, “Gánh nước đêm”, ...”[49, tr. 403]. 2.2.2. Uyên Thao trong cuốn “Thơ Việt Nam hiện đại” đã đề cập đến Á Nam rải rác trong một số trang của công trình. Theo tác giả, thơ giai đoạn 1900 - 1930 có ba dòng chính: Thơ hiếu hỉ, thơ tranh đấu, thơ chính thống. Ở dòng thơ chính thống (được hiểu là văn học công khai), Uyên Thao chia ra hai khuynh hướng: Khuynh hướng thời thế tiêu biểu là Tản Đà, Á Nam; khuynh hướng lãng mạn tiêu biểu là Đông Hồ, Tương Phố. Về Á Nam, tác giả viết: “Á Nam kín đáo gói ghém những tình cảm yêu nước thương nòi với việc gây dựng lại tinh thần đạo lí” [67, tr. 211]; Á Nam là “một thi gia vững chãi trong việc sử dụng ngòi bút” [67, tr. 217]; biệt tài của Á Nam là ở “lối thơ ca Việt: lục bát, hát nói, hát xẩm” [67, tr. 219]. 2.3. Những ý kiến, nhận định về thơ Trần Tuấn Khải ở miền Bắc sau 1954 và cả nước sau 1975 2.3.1. Trong cuốn “Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam” tập 4b (Nguyễn Đình
  5. 5 Chú, Lê Trí Viễn – NXB Giáo dục – 1965), khi nói đến loại hình thơ của văn học hợp pháp đã đề cập đến Trần Tuấn Khải và các nhà thơ khác như Đông Hồ, Đoàn Như Khuê, Tản Đà. Nhận xét về những đóng góp của các nhà thơ này ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật trong sáng tác, các tác giả giáo trình viết: “Do ảnh hưởng của các phong trào dân tộc vang dội vào văn học hợp pháp, một nội dung chủ yếu của thơ ca bấy giờ là yêu nước. Nhưng vì bản chất yếu hèn của con người tư sản, bản chất yếu của ý thức tư sản, tính chất nửa vời, không triệt để có khi không đường lối của các phong trào dân tộc theo xu hướng tư sản đương thời nên đó cũng chỉ là thứ yêu nước mơ hồ, xa xôi, bóng gió. Thứ yêu nước đó không đủ thúc giục người đọc tiến lên hành động, nhưng vẫn có khả năng nhắc nhở những tâm hồn tiểu tư sản không được làm ngơ với Tổ quốc...” [7, tr. 101]. “...Sự vận dụng sáng tạo các hình thức dân ca có kết quả, tiết tấu, âm điệu trong thơ ca của họ, tính chất phóng túng trong hình thức, phong vị ngọt ngào, đậm đà của ngôn ngữ dân tộc, tất cả còn là những bài học đáng quí” [7, tr. 102]. 2.3.2. Trong “Hợp tuyển văn thơ Việt Nam” tập IV (NXB Văn hóa - 1963), trước khi trích thơ Trần Tuấn Khải, các tác giả hợp tuyển có phần tiểu dẫn về nhà thơ. Tiểu dẫn có viết: “Nhờ ảnh hưởng của phong trào yêu nước một vài sáng tác đầu tiên của Trần Tuấn Khải có tính chiến đấu và có giọng ưu ái chân thành. Nhưng dần dần thơ ca Trần Tuấn Khải mang nặng tư tưởng bi quan, thất bại và khoảng từ 1927 về sau, con người Trần Tuấn Khải trở nên không lành mạnh nên thơ ca cũng biến chất. Về nghệ thuật, Trần Tuấn Khải dựa trên cơ sở dân ca, sáng tạo ra một số âm điệu trong thơ ca.” [53, tr.757]. Phần thơ Á Nam được trích trong hợp tuyển gồm các bài “Hai chữ nước nhà”, “Gánh nước đêm”, “Tiễn chân anh Khóa xuống tàu”, “Mong anh Khóa”,... 2.3.3. Cuốn “Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể loại” (Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức – NXB Khoa học XH – 1971) là công trình chủ yếu đi sâu nghiên cứu hình thức thơ ca Việt Nam. Nói về sự phát triển của hình thức thơ ca những năm đầu thế kỷ, các tác giả nhấn mạnh: Á Nam và Tản Đà là hai thi sĩ “đã thoát khỏi sự ràng buộc chật hẹp của thể thơ Đường luật mà tìm về với nhiều thể thơ và hình thức diễn
  6. 6 đạt của thơ ca dân tộc.” [51, tr. 106]. 2.3.4. Báo nhân dân số ra ngày 3/4/1983 đăng bài “Tác giả những bài hát anh Khóa” của Lữ Huy Nguyên. Bài viết đề cập đến, tuy rất ngắn gọn, quan điểm nghệ thuật của Á Nam và khẳng định sự sáng tạo của ông trong việc sử dụng nhiều thể thơ ca và nội dung thơ văn, thể hiện “tính chiến đấu, bồn chồn, day dứt, thương nước, thương dân.” Kết luận bài báo, tác giả viết: “Các sáng tác khác nhau về hình thức biểu hiện nhưng chung một giọng điệu yêu nước thương nòi đã làm cho thơ văn Trần Tuấn Khải đứng hẳn về dòng thơ văn yêu nước đầu thế kỷ XX. Từ sau những năm ba mươi, thơ văn của thi sĩ nhuốm mùi bi lụy, cái quí là vẫn giữ được phẩm giá trong sạch của một nhân cách và một ngòi bút có bản sắc”. 2.3.5. Nguyễn Phương Chi trong mục viết về Trần Tuấn Khải của “Từ điển văn học” (NXB Khoa học xã hội - 1984) cũng đã nêu bật nội dung yêu nước và những thành công trong việc vận dụng các thể thơ thuần túy dân tộc của thi sĩ. Tác giả còn khẳng định: “Á Nam là một trong những dấu nối giữa thơ ca cổ điển và thơ ca hiện đại.” [54, tr. 438]. 2.3.6. Cũng trong năm 1984, NXB Văn học ấn hành cuốn “Thơ ca Á Nam Trần Tuấn Khải” do Lữ Huy Nguyên sưu tầm, tuyển chọn. Có thể nói sau nhiều thập kỷ, lúc này đông đảo độc giả mới có được trong tay phần sáng tác quan trọng của Á Nam. “Lời nói đầu” của cuốn sách gồm những ý kiến nhận định tổng quát về sự nghiệp thơ văn Á Nam. Phần giới thiệu là tiểu luận “Đọc thơ Á Nam Trần Tuấn Khải” của nhà thơ Xuân Diệu, dài 47 trang. Đây là bài nghiên cứu đầu tiên có hệ thống và tương đối sâu sắc về thơ ca Á Nam. Bằng sự cảm thụ tinh tế của một nhà thơ kiêm nhà phê bình có tài, Xuân Diệu đã đề cập đến ba vấn đề cơ bản sau: - Á Nam Trần Tuấn Khải là nhà thơ sáng tác chủ yếu vào những năm đầu thế kỷ XX, dưới “những rung động đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn ở Việt Nam” [10, tr. 25] cho nên “thế tất phải ôm mang chủ nghĩa lãng mạn” nhưng “vì là những rung động đầu tiên của chủ nghĩa lãng mạn, cho nên chưa đi sâu” [10, tr. 26]. Để chứng minh, Xuân Diệu đã phân tích, chỉ ra những biểu hiện của chủ nghĩa lãng
  7. 7 mạn trong thơ ca Á Nam. - Một số thành công của Á Nam trong việc vận dụng các thể thơ dân gian, dân tộc. Xuân Diệu đặc biệt chú ý đến những bài đặt dưới nhan đề “Câu hát vặt” và tuyển chọn một số bài ca dao mà tác giả cho là đặc sắc. - Nhấn mạnh và phân tích nội dung yêu nước trong thơ Á Nam ở một số bài tiêu biểu: "Nỗi chị khuyên em”, “Bà Trưng tế chồng”, “Trường thán thi”, “Hai chữ nước nhà”, ... Tiểu luận của Xuân Diệu cho người đọc thấy phần nào một gương mặt thi ca thuộc “Thế hệ đầu tiên sáng tác bằng chữ quốc ngữ trước khi có Đảng”. 2.3.7. Báo Văn nghệ số ra ngày 23/8/1987 đăng bài “Nghĩ từ ca dao của một nhà nho” của Vũ Ngọc Duật. Bài báo nêu bật tính chất “bình dân” và “dấu ấn riêng” của Á Nam Trần Tuấn Khải trong mảng sáng tác này. 2.3.8. Cuối năm 1987, Vũ Văn Ký bảo vệ luận văn Cao học tại khoa Văn, Đại học Sư phạm Hà Nội với đề tài “Nội dung trữ tình yêu nước và những nét đặc sắc nghệ thuật thơ ca Á Nam Trần Tuấn Khải”. Trong luận văn này, tác giả khai thác đóng góp cơ bản của thơ ca Trần Tuấn Khải ở cả hai phương diện nội dung và hình thức biểu hiện, trên cơ sở đó khẳng định vị trí của nhà thơ trong nền thơ ca cận hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn và với phương pháp tiếp cận cụ thể, tác giả chưa đi sâu cũng như chưa làm nổi bật thế giới nghệ thuật thơ Á Nam như một chỉnh thể toàn vẹn. Tác giả cũng chỉ mới chú ý khẳng định đóng góp của thơ Á Nam, bản sắc của ngòi bút Á Nam mà chưa đề cập đến nhà thơ với tư cách của một “kiểu nhà thơ” buổi giao thời văn viết chuyển từ trung đại sang hiện đại. 2.3.9. Trong hai năm 1991 và 1992, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành hai tập “Tác giả văn học Việt Nam” do tập thể các nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn An biên soạn, nhằm phục vụ cho việc dạy văn trong nhà trường. Tập 1 có phần viết về Trần Tuấn Khải của Nguyễn Đình Chú, gồm 2 trang. Bài viết, tuy rất ngắn gọn, nhưng đã khái quát được những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác văn học của Á Nam, khẳng định vị trí của ông là một nhà thơ lớn trong nền thơ ca dân tộc. Đặc biệt, bài viết nhấn mạnh: việc trở đi trở lại với
  8. 8 cùng một chủ đề (yêu nước) trong suốt cả một đời thơ mà không tạo nên sự nhàm chán, không những thể hiện tấm lòng của Trần Tuấn Khải với non sông đất nước mà còn cho thấy bút lực dồi dào của nhà thơ. 2.3.10. Năm 1997, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cuốn “Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu – Á Nam Trần Tuấn Khải” do Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong biên soạn. Trong đó phần viết về Trần Tuấn Khải gồm những nét lớn về cuộc đời và văn nghiệp, tuyển 17 bài thơ tiêu biểu cùng một số bài ca dao của Á Nam; một số đoạn trích các bài nghiên cứu, bình luận của Xuân Diệu, Vũ Ngọc Phan, Khương Hữu Dụng và phần hướng dẫn phân tích tác phẩm “Gánh nước đêm” cũng như bài phân tích của Trịnh Bích Ba đối với nhà thơ này. 2.3.11. Cũng nhằm mục đích phục vụ cho giảng dạy trong nhà trường, năm 1999, nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh cho in cuốn “Trần Tuấn Khải, Phạm Huy Thông, Hoàng Trung Thông” do Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn những bài nghiên cứu tiêu biểu về ba nhà thơ này. Phần Trần Tuấn Khải có một số đoạn trích các tác phẩm phê bình thơ ông của Xuân Diệu, Khương Hữu Dụng và một số giai thoại về nhà thơ. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu thơ ca Á Nam Trần Tuấn Khải: - Việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ ca Á Nam Trần Tuấn Khải chưa được nhiều người quan tâm. Hầu hết các nhận định về Á Nam và thơ ca của ông đều nằm trong các công trình không chuyên về tác giả. - Các nghiên cứu nhìn chung đều thống nhất ở một số điểm sau: Về phương diện nội dung, thơ Á Nam thuộc khuynh hướng thời thế, chứa đựng tình cảm yêu nước chân thành ẩn dưới giọng xa xôi bóng gió; về nghệ thuật, phần thành công nhất của Á Nam là vận dụng các thể thơ truyền thống của dân tộc một cách điêu luyện và sáng tạo. Vấn đề còn tồn tại trong việc nghiên cứu thơ ca Á Nam Trần Tuấn Khải hiện nay là: - Thiếu hẳn những công trình có tính chất khái quát, toàn diện, chuyên biệt về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ để độc giả có được cái nhìn đầy đủ về một tác gia đã một thời có tiếng vang không nhỏ.
  9. 9 - Nghiên cứu thơ ca Trần Tuấn Khải còn rất nhiều vấn đề cần được đi sâu khai thác những khía cạnh tiêu biểu, nổi bật tạo nên gương mặt thơ ca của ông; việc tiếp cận cũng cần được tiến hành từ nhiều hướng phong phú hơn. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp mới của luận văn 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát, nghiên cứu văn bản thơ có kết hợp với các yếu tố thời đại, thân thế và hoàn cảnh cá nhân của nhà thơ, luận văn nhằm khám phá thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. 3.1.1. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình là một chỉnh thể thống nhất bao hàm các thành tố cấu trúc và quy luật cấu trúc riêng, thể hiện quá trình cái tôi nhà thơ nội cảm hóa thế giới khách quan bằng tưởng tượng của mình. Một mặt, thế giới nghệ thuật ấy gắn liền với kinh nghiệm cá nhân, với phong cách sáng tác chủ quan của nhà thơ, mặt khác nó phản ảnh trình độ nghệ thuật của một giai đoạn lịch sử, một thời đại nhất định. Bởi vậy, luận văn nhằm khám phá thế giới nghệ thuật thơ Trần Tuấn Khải vừa như sản phẩm sáng tạo độc đáo của một cá nhân, vừa đại diện cho kiểu sáng tác, kiểu tư duy nghệ thuật của bộ phận thơ đóng vai trò làm gạch nối giữa thơ cũ trung đại và thơ mới lãng mạn. 3.1.2. Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải, luận văn đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu hình tượng cái tôi trữ tình, không gian và thời gian nghệ thuật. Hình tượng cái tôi chính là hình tượng nhân vật trung tâm, là hạt nhân của cấu trúc chỉnh thể. Gắn bó chặt chẽ với hình tượng cái tôi là không gian và thời gian nghệ thuật. 3.1.3. Các hình tượng nghệ thuật nói trên tất yếu phải được thể hiện ra bằng văn bản ngôn từ. Bởi vậy, một nhiệm vụ nữa không kém phần quan trọng mà luận văn đặt ra để giải quyết là: Nghiên cứu những phương thức, phương tiện tiêu biểu đặc sắc trong thơ Á Nam. Trên cơ sở đó, luận văn phân tích mối tương quan biện chứng giữa nội dung và hình thức trong sáng tác thơ của ông. 3.2. Đóng góp mới của luận văn Thực hiện được các nhiệm vụ trên, luận văn sẽ làm nổi bật được những nét đặc
  10. 10 sắc của thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải trong cái nhìn chỉnh thể. Kết quả của luận văn một mặt khẳng định bản sắc riêng độc đáo của ngòi bút Á Nam, mặt khác làm toát lên nét tiêu biểu trong sáng tạo thơ ca của Á Nam ở bộ phận văn học của các nhà nho có lương tri thuộc dòng văn học hợp pháp đầu thế kỷ XX. Từ đó, luận văn góp phần nhìn nhận quá trình vận động của lịch sử thơ ca dân tộc từ góc độ văn hóa nghệ thuật. Hy vọng kết quả của luận văn cũng có tác dụng góp phần phục vụ công việc giảng dạy, học tập thơ Trần Tuấn Khải trong nhà trường hiện nay. 4. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu 4.1. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở nguồn tư liệu có được, luận văn tập trung nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Á Nam Trần Tuấn Khải và một số phương thức biểu hiện đặc sắc của nó dưới cái nhìn tổng thể. Những khía cạnh khác không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. Luận văn tập trung khảo sát thơ được in trong cuốn “Thơ văn Á Nam Trần Tuấn Khải” và thơ trong một số tác phẩm gốc của Á Nam được lưu tại thư viện quốc gia. Phần văn xuôi, khi cần thiết luận văn mới liên hệ phần nào để có cái nhìn toàn diện, bao quát hơn. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Xử lý đề tài này, chúng tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: 4.2.1. Phương pháp cấu trúc – hệ thống Quan niệm thế giới nghệ thuật thơ Trần Tuấn Khải là một chỉnh thể, luận văn chú ý tìm ra những thành tựu tạo nên chỉnh thể này và quy luật cấu trúc nó. Mọi đối tượng và vấn đề khảo sát của luận văn được đặt trong tương quan hệ thống và trong quy luật cấu trúc này. 4.2.2. Phương pháp phân loại, thống kê Với từng thành tố của chỉnh thể thế giới nghệ thuật cũng như các yếu tố thuộc phương thức, phương tiện biểu hiện thế giới nghệ thuật ấy, khi cần thiết luận văn sẽ thực hiện phân loại và thống kê qua các con số cụ thể.
  11. 11 4.2.3. Phương pháp so sánh đối chiếu Để khẳng định những nét tiêu biểu cũng như những nét riêng thuộc phong cách của Á Nam (trong phạm vi giới hạn của đề tài), luận văn đặt tác giả và tác phẩm trong mối tương quan so sánh với các tác giả, tác phẩm khác ở cả 2 chiều đồng đại và lịch đại. 5. Cấu trúc của luận văn Phù hợp với lôgic nội tại của vấn đề đặt ra nghiên cứu, ngoài mở đầu và kết luận, luận văn được triển khai trong 4 chương: Chương 1: Khái niệm thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật thơ trữ tình. Chương 2: Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Chương 3:Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Chương 4: Phương thức biểu hiện trong thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.
  12. 12 Chương 1: KHÁI NIỆM THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT VÀ THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ TRỮ TÌNH 1.1. Thế giới nghệ thuật 1.1.1. Thế giới nghệ thuật là thuật ngữ khoa học thuộc thi pháp học hiện đại, nhấn mạnh tính đặc thù, khu biệt và toàn vẹn của tác phẩm nghệ thuật Với khái niệm này, người ta nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật như một thế giới sáng tạo, thống nhất giữa chủ quan và khách quan. Vào khoảng thập kỷ 70 của thế kỷ XX, khái niệm thế giới nghệ thuật xuất hiện ở một số công trình nghiên cứu như: “Thế giới nghệ thuật của M. Gorki”, “Thế giới nghệ thuật của Sôlôkhốp”... và nhanh chóng trở thành đối tượng khám phá đầy lý thú cho giới nghiên cứu, giúp việc tiếp cận tác phẩm văn học tránh được khuynh hướng chủ quan, lệch lạc. Thực ra nội hàm của khái niệm thế giới nghệ thuật được đề cập đến từ lâu. Xưa kia người Trung Quốc đã biết gọi tác phẩm thơ là một “cõi ý”, “cõi thơ”. Lưu Hiệp trong công trình tiêu biểu “Văn tâm điêu long” (khoảng năm 496 – 497) đã đưa ra “lục quan” bao quát cả nội dung và hình thức, tính tư tưởng và tính nghệ thuật của tác phẩm văn học. Theo Lưu Hiệp thì tác phẩm văn học phải gồm sáu tiêu chí “1. Tình cảm sâu mà không dối; 2. Phong thái trong mà không tạp; 3. Việc chắc mà không ba hoa; 4. Nghĩa thẳng mà không quanh co; 5. Thể gọn mà không rườm rà; 6. Văn đẹp mà không dâm” [24, tr. 137]. Nhà triết học cổ đại Hy Lạp Arixtôt trong “Nghệ thuật thơ ca” khi bàn về kịch cũng xác định: “Bi kịch là sự mô phỏng một hành động quan trọng và trọn vẹn có một qui mô nhất định nhờ vào ngôn ngữ – ngôn ngữ này trong mỗi phần có sự trau chuốt khác nhau.” [1, tr. 34], và: “Bất cứ bi kịch nào cũng có bài trí, cốt truyện, văn từ, bố cục, âm nhạc và tư tưởng nữa.” [1, tr. 35]. Tuy vậy suốt một thời gian dài, ý nghĩa nội hàm của khái niệm chưa thực sự được bàn đến một cách đầy đủ và chi tiết, dẫn đến hiện tượng hiểu sai, hiểu phiến diện, suy diễn dung tục,... trong nghiên cứu, phê bình văn học.
  13. 13 Ở nước ta từ vài chục năm trở lại đây, khái niệm thế giới nghệ thuật trở nên quen thuộc. Năm 1981, trong giáo trình “Dẫn luận thi pháp học” được biên soạn để giảng dạy cho học viên cao học tại Đại học Sư phạm Hà Nội và một số trường đại học khác, Trần Đình Sử khẳng định: “Tác phẩm toàn vẹn xuất hiện như một thế giới nghệ thuật” [61, tr. 29]. Cũng trong công trình này, tác giả đã nêu rõ cơ sở khoa học của việc dùng từ “thế giới” chỉ tác phẩm văn học và sơ bộ nêu cách hiểu khái niệm “thế giới nghệ thuật”, đồng thời phân tích các yếu tố của thế giới bên trong tác phẩm văn học. Thời gian gần đây, hàng loạt công trình nghiên cứu văn học sử dụng khái niệm này. Có thể kể đến “Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn” của Nguyễn Đăng Mạnh (1994); “Thế giới nghệ thuật thơ Xuân Diệu thời kỳ trước cách mạng tháng 8 năm 1945” của Lê Quang Hưng (1996); “Những thế giới nghệ thuật thơ” của Trần Đình Sử (1997); “Thế giới nghệ thuật thơ của Hàn Mặc Tử” của Chu Văn Sơn (2000);... Đó đều là những công trình nghiên cứu có giá trị, khẳng định sự đúng đắn của một hướng tiếp cận văn học đang được chú ý hiện nay. 1.1.2. Thế giới nghệ thuật là gì? “Từ điển thuật ngữ văn học” (Nhiều tác giả – NXB Đại học Quốc gia – Hà Nội năm 1997) đã trình bày khái niệm này qua một số điểm cơ bản sau: 1.Là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật; 2. Là một thế giới riêng được tạo ra theo các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật; 3. Có không gian và thời gian riêng, có quan hệ xã hội riêng; 4. Mỗi thế giới nghệ thuật có một mô hình nghệ thuật. [55, tr. 201-202]. Dưới đây chúng tôi xin trình bày cụ thể những điểm cơ bản của khái niệm vừa nêu như sau: 1.1.2.1. Thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật “Chỉnh thể” vốn là một khái niệm triết học và “Tính chỉnh thể” được hiểu là “Khái niệm đặc trưng cho tính thống nhất nội tại, toàn vẹn, đầy đủ, biệt lập của khách thể. Sự tổng hợp những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của khách thể tạo ra tính thống nhất bên trong nó, tính độc lập, biệt lập của nó đối với
  14. 14 môi trường xung quanh” [48, tr. 84]. Khái niệm này đã được giới nghiên cứu văn học sử dụng như một thuật ngữ chuyên ngành trong nghiên cứu. Trong cuốn “Lí luận văn học” tập 2, chương XI, Trần Đình Sử đã đề cập khá cụ thể khái niệm chỉnh thể và tính chỉnh thể trong văn học. Khái niệm chỉnh thể ở đây tuy có được mở rộng hơn nhưng vẫn thống nhất với quan niệm chỉnh thể của triết học: “Chỉnh thể là một tổng thể gồm các yếu tố có mối liên hệ mật thiết nội tại, tương đối vững bền, đảm bảo cho sự hoạt động của nó với môi trường xung quanh” [44, tr. 37]. Như vậy nói tới chỉnh thể là nói tới thể toàn vẹn, thống nhất, trong đó mọi yếu tố được đặt trong mối liên hệ biện chứng lẫn nhau. Chỉnh thể được hiểu như sự “liên kết siêu tổng cộng”, giữa các yếu tố bao giờ cũng có chất keo dính đặc biệt liên kết chúng lại để tạo nên một “sinh mệnh” với nội dung, chức năng, đặc tính mới vốn không thể có khi các yếu tố tách rời ra. Như vậy, tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật biểu hiện sự thống nhất mọi yếu tố đa dạng trong sáng tác đó: Thống nhất giữa chủ quan và khách quan, giữa hiện thực và lý tưởng, giữa nội dung và hình thức... Cần thấy rằng tính chỉnh thể của sáng tác không chỉ giới hạn trong một tác phẩm mà rộng hơn là chỉnh thể của nhiều tác phẩm, của cả một trào lưu hay thậm chí chỉnh thể sáng tác của một thời đại, một dân tộc... Trong một chỉnh thể lớn có thể bao hàm nhiều chỉnh thể ở các tầng bậc nhỏ hơn. Những chỉnh thể nhỏ này tác động bổ sung, chi phối và hỗ trợ lẫn nhau theo một qui luật nhất định, tạo nên một thế giới hết sức phong phú, phức tạp nhưng thống nhất. Thế giới đó là kết tinh quá trình tư duy nghệ thuật của nghệ sĩ, biến những biểu tượng, ý nghĩ, cảm xúc bên trong của họ thành hiện thực văn hóa xã hội khách quan để bạn đọc suy nghĩ, chiêm nghiệm. Nói đến “tính chỉnh thể” của sáng tác văn học, người ta thường nói đến sự thống nhất giữa hình thức và nội dung. Nhà nghiên cứu văn học Nga Biêlinxki nói: “Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó ra khỏi nội dung thì nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngược lại, tách nội dung ra khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức” [44, tr. 29].
  15. 15 Như vậy, nội dung và hình thức của tác phẩm văn học vừa là hệ quả của sự thống nhất nội tại trong tác phẩm, vừa là quy luật chỉnh thể của tác phẩm. Nhìn thế giới nghệ thuật qua tính chỉnh thể có nghĩa là chúng ta thừa nhận cấu trúc nội tại của nó. Đã là chỉnh thể thì phải có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất. Mặc dù hiện nay giới nghiên cứu văn học chưa xác định cụ thể cấu trúc chỉnh thể tác phẩm văn học như một chuẩn mực, song sự tồn tại của cấu trúc, phần ổn định nhất của chỉnh thể nghệ thuật là không thể phủ nhận. Chỉnh thể nghệ thuật là một cấu trúc của nhiều cấu trúc với các cấp độ từ thấp đến cao. Tính chỉnh thể khiến cho các yếu tố trong thế giới nghệ thuật chi phối lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau; chỉ cần một trong các yếu tố thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của một loạt các yếu tố khác. Chẳng hạn thời trung đại ở Việt Nam người ta quan niệm con người là một cá thể vũ trụ, mang dấu ấn của vũ trụ, thiên nhiên. Bởi vậy con người thấy chân dung mình trong thế giới thiên nhiên: mắt phượng, mày ngài, vóc mai, dáng liễu, tóc mây,... Hình ảnh thiên nhiên xuất hiện thường trực trong văn học trung đại như là những chuẩn mực để diễn tả cái đẹp. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, Kiều xuất hiện với “làn thu thủy, nét xuân sơn”; Thúy Vân thì “khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”; Từ Hải “râu hùm, hàm én, mày ngài”; Kiều làm thơ thì “tay tiên gió táp mưa sa”; Kim Trọng khóc người yêu: “vật mình vẫy gió tuôn mưa”.... Có thể lấy một ví dụ khác về tính chỉnh thể trong thơ Đường luật nói chung. Thơ Đường luật do qui định về số câu, số chữ, niêm luật chặt chẽ tạo nên bố cục gọn gàng, ổn định, chi phối đến việc sử dụng chi tiết, hình ảnh, xây dựng hình tượng theo khuôn mẫu có sẵn đậm tính tượng trưng, ... Như vậy, chỉ khi nào mọi yếu tố của sáng tác nghệ thuật tồn tại trong sự ràng buộc, quy định lẫn nhau theo một qui luật nhất định thì mới tạo nên một thế giới nghệ thuật thực sự. 1.1.2.2. Thế giới nghệ thuật là một thế giới riêng được tạo ra từ những nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật Thế giới nghệ thuật tồn tại trong sự phân biệt với thế giới thực tại, thế giới tâm lí. Thế giới nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của con người, vừa mang ý nghĩa
  16. 16 khách quan vừa thấm đẫm tư tưởng chủ quan của người sáng tạo ra nó. Ý nghĩa khách quan của thế giới nghệ thuật thể hiện ở bức tranh đời sống được mô tả trong đó. Đồng thời từ bức tranh này, chúng ta còn thấy được sự cảm nhận của tác giả về cuộc đời và con người. Có nghĩa là dưới cái nhìn của nghệ sĩ, thế giới thực tại đã bị khúc xạ khi đưa vào tác phẩm, mang ý nghĩa chủ quan độc đáo. “Thế giới nghệ thuật bao giờ cũng khác với thế giới thực tại để không hòa tan vào thực tại ... sự khác biệt cũng là một phương tiện biểu hiện ý nghĩa của nó” [61, tr. 31]. Thế giới này tuy nhiên không phải là sản phẩm của sự hư cấu tùy tiện mà nó được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật. Tác phẩm văn học là một kết cấu phức tạp với nhiều bình diện, nhiều cấp độ chi phối và phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, ứng với mỗi cấp độ sẽ có những nguyên tắc xây dựng từng bình diện của chỉnh thể nghệ thuật. Nguyên tắc hạt nhân chi phối các nguyên tắc khác trong sáng tạo nghệ thuật là nguyên tắc quan điểm tư tưởng. Cấp độ tiếp theo là những nguyên tắc mỹ học có tính triết học, thường bao trùm một phương pháp sáng tác cụ thể. Chẳng hạn ở phương pháp sáng tác cổ điển với nhãn quan cho cái đẹp, cái tinh túy là vĩnh cửu, cố định của con người, các nhà văn cổ điển đã xây dựng những tính cách đơn chất, cá tính mờ nhạt một chiều. Đến chủ nghĩa hiện thực thời Phục Hưng, với quan niệm nhân vật phải là “con người toàn vẹn có sinh khí” (Hêghen) và là “tổng hòa của các mối quan hệ xã hội” (C. Mac), nguyên tắc đặt ra là: Sự chân thực của chi tiết, xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Từ nguyên tắc này đã tạo ra những nhân vật đầy cá tính, phức tạp và những cảnh chân thực khiến người đọc cảm thấy như đang được tiếp xúc với cuộc đời thực. Trên đây là những nguyên tắc khái quát. Ở cấp độ cụ thể hơn, cấp độ xây dựng hình tượng nghệ thuật còn có một loạt các nguyên tắc cần tuân thủ mà độ đậm đặc của mỗi nguyên tắc được sử dụng không chỉ phụ thuộc vào quan niệm của thời đại, vào loại hình tác phẩm mà còn phụ thuộc vào nhãn quan của mỗi nhà văn. Chúng tôi chỉ xin đề cập đấn một số nguyên tắc có liên quan trực tiếp đến đề tài: nguyên tắc tả thực, nguyên tắc ước lệ, nguyên tắc ước mơ và nguyên tắc “nội cảm hóa”, “tôi hóa”. Nguyên tắc tả thực đòi hỏi sự chân thực của đối tượng được phản ánh, sao cho
  17. 17 khi khám phá tác phẩm, người ta cảm thấy đó chính là thế giới hiện thực ngoài đời. Tuy nhiên tả thực không có nghĩa là sao chép y nguyên những sự kiện, tình tiết của cuộc đời thực. Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nên bao giờ cũng in dấu ấn sáng tạo chủ quan của nhà văn. Bởi vậy không thể đồng nhất khái niệm “chân thực” và “chính xác”. Thế giới của “Thần thoại Hy Lạp là sản phẩm kỳ diệu của nhân dân Hy Lạp nhưng vẫn hiện hữu với tất cả tính chân thực của Lôgic cuộc sống trong đó”. Cũng cần thấy rằng nguyên tắc tả thực xuất hiện song hành với lịch sử văn học, song phải đến khi chủ nghĩa hiện thực ra đời, độ chân thực của chi tiết mới được đặt ra thành yêu cầu. Nguyên tắc ước lệ là một trong những đặc điểm thi pháp của văn học cổ điển. Cảm quan vũ trụ và quan niệm văn học là nơi giãi bày những tư tưởng, tình cảm thanh tao, cao quý tạo nên một hệ thống ngôn từ, hình ảnh,... gắn với thiên nhiên, vũ trụ được sử dụng lặp đi lặp lại đến trở thành quen thuộc. Đây không chỉ là một thủ pháp, một phương thức biểu đạt cuộc sống mà còn là thế giới quan của cả một thời đại, có cội nguồn từ đặc điểm về tâm lý và văn hóa nhất định. Trần Tuấn Khải là nhà thơ của buổi giao thời nên không thể không chịu ảnh hưởng của nguyên tắc này trong sáng tác. Được coi là tiêu chí hàng đầu của văn học lãng mạn, nguyên tắc ước mơ lấy cái chủ quan làm điểm tựa, đem “tâm hồn và trái tim làm cơ sở để nói lên những nguyện vọng không rõ rệt, muốn tiến tới một cái gì tốt đẹp hơn, cao cả hơn, tìm cách tự thỏa mãn bằng những lí tưởng chỉ có trong tưởng tượng” [45, tr. 74]. Nguyên tắc này giúp chúng ta thấy rõ nét nhất lí tưởng, nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, ước mơ của người nghệ sĩ về cuộc đời và con người. Tuy nhiên, đây không phải là nguyên tắc độc quyền của văn học lãng mạn. Chúng ta có thể thấy nguyên tắc này được áp dụng trong sáng tác thuộc các trào lưu văn học khác nhau. Nói đến thi pháp của các tác phẩm trữ tình, không thể không đề cập đến nguyên tắc “nội cảm hóa”, “tôi hóa”. Mảnh đất cho nguyên tắc này nảy nở và phát triển là các tác phẩm trữ tình, nơi yếu tố chủ quan sáng tạo được tô đậm, rõ nét nhất.
  18. 18 Đây là nguyên tắc chịu sự qui định của đặc điểm thể loại, chúng tôi sẽ nói rõ hơn ở phần sau. 1.1.2.3. Thế giới nghệ thuật có không gian và thời gian riêng, có quan hệ xã hội riêng Nếu như thế giới thực tại hay thế giới tâm lý là vô hạn thì thế giới nghệ thuật là một cấu tạo hữu hạn. Quy luật tồn tại và triển khai của thế giới này là hình thức của nó. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật chính là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật. Là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống, không gian và thời gian nghệ thuật không đồng nhất với không gian và thời gian trong thế giới thực tại về quy mô, kích thước, trình tự,… Mỗi thế giới nghệ thuật lại có hình thức không gian, thời gian riêng, trong đó triển khai các mối quan hệ xã hội riêng, những mối quan hệ mà nghệ sĩ quan tâm. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, con người luôn khao khát khám phá những bí ẩn của thế giới xung quanh cũng như những bí ẩn trong chính tâm hồn họ. Thực tế với tất cả hình ảnh mà con người tri giác và cảm nhận được như thời gian, không gian, sự biến đổi của số phận, cảm giác và siêu cảm giác,... xây dựng nên một thế giới tồn tại trong ý thức của con người. Những khái niệm phổ quát này ở mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa liên hệ với nhau tạo thành một thứ nhãn quan, một mô hình nghệ thuật riêng. Trong những cấu trúc xã hội khác nhau, chúng ta tìm thấy những phạm trù về thời gian, không gian khác nhau, những quan niệm không giống nhau về cái đẹp, về luật pháp, về đạo đức, những cách lí giải khác nhau về các vấn đề của cuộc sống,... Rõ ràng trong khuôn khổ của mỗi thế giới nghệ thuật, tất cả những phạm trù này không phải là một tập hợp ngẫu nhiên mà chúng tạo thành một hệ thống, phục tùng một mô hình nghệ thuật nhất định. Trong bất cứ một chỉnh thể nghệ thuật nào người ta cũng tìm thấy ở đó những nét khái quát, một cái khung cố hữu mà người nghệ sĩ dù có cố thoát ra bằng cái cá thể, cá nhân riêng biệt của mình cũng không thể được. Họ tuân thủ theo mô hình này một cách tự phát, vô tình như một điều tất yếu. Mô hình nghệ thuật này sẽ chi phối việc nhà văn sử dụng nguyên
  19. 19 tắc nào trong quá trình phản ánh thực tại khách quan, chi phối việc xây dựng kết cấu, nhân vật, việc sử dụng hình ảnh, ngôn từ... Chẳng hạn kết thúc “có hậu” trong truyện cổ tích là một kiểu mô hình nghệ thuật. Để cho cái thiện chiến thắng cái ác, các nghệ sĩ dân gian đã tạo cho nhân vật thuộc tuyến thiện những khả năng phi thường nhờ nguyên tắc thần thánh hóa. Tất nhiên, mỗi mô hình nghệ thuật ứng với một quan niệm về thế giới. 1.1.3. Hình tượng nghệ thuật, yếu tố năng động nhất tạo nên thế giới nghệ thuật 1.1.3.1. Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo hiện thực theo qui luật của nghệ thuật. Đó là bức tranh cuộc sống vừa cụ thể, cảm tính, vừa khái quát và có ý nghĩa thẩm mĩ. Tính cụ thể, cảm tính, trực quan của hiện tượng làm cho người đọc dường như tiếp xúc với chính cuộc đời thực trong màu sắc, âm thanh, hình dáng thần thái vốn có của nó. Nói như vậy không có nghĩa hình tượng là sự sao chép cuộc sống một cách giản đơn, máy móc. Hình thức cụ thể của hình tượng là sản phẩm hư cấu một cách sáng tạo những hiện tượng thực tế, qua đó nhà văn trình bày bản chất của sự vật, quy luật của cuộc sống. Vì thế cấu trúc của hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng là sự thống nhất cao độ giữa các mặt chủ quan và khách quan, lý trí và tình cảm, cá biệt và khái quát, hiện thực và lí tưởng, tạo hình và biểu hiện, hữu hình và vô hình. Chỉ ở cấp độ hình tượng nghệ thuật, tính “văn” trong tác phẩm nghệ thuật mới bộc lộ rõ nhất vì nó không chỉ khu biệt một phương thức phản ánh đặc thù của nghệ thuật mà còn là nơi hội tụ tài năng, tâm hồn và phong cách của người nghệ sĩ. 1.1.3.2. Trong cấp độ hình tượng nghệ thuật có nhiều bộ phận nhưng quan trọng nhất là nhân vật hay hệ thống nhân vật. Nhân vật là hình thức cơ bản để miêu tả con người trong văn học. Đó có thể là một cá nhân hay một tập thể, một giai cấp, một dân tộc, là chính hình tượng tác giả hay một cá thể vô danh nào đó. Hình tượng nhân vật được đặt trong hệ thống các mối quan hệ chằng chịt, rất cụ thể sinh động đồng thời có ý nghĩa khái quát. Hình tượng nhân vật được triển khai trong không gian và thời gian. Không gian và thời gian đó mang tính đặc thù, không đồng nhất
  20. 20 với không gian và thời gian thực tại. Không gian và thời gian nghệ thuật là một hiện tượng “tâm linh nội cảm” bao bọc cảm thức của con người, mang cảm quan của nghệ sĩ và thời đại, tồn tại với tư cách là một biểu tượng. Không gian và thời gian nghệ thuật đều là những chỉnh thể nhỏ nằm trong chỉnh thể lớn của tác phẩm văn học. Nó có cấu trúc, mô hình và được xây dựng trên nguyên tắc thẩm mĩ chung của một tác phẩm văn học trong một giai đoạn lịch sử nhất định; nó vừa thể hiện quan điểm, tư tưởng của nghệ sĩ, vừa thể hiện cảm quan của thời đại. Trong chỉnh thể thế giới nghệ thuật còn nhiều yếu tố khác: Cốt truyện, nhịp điệu, màu sắc, ánh sáng,... Tổng hòa của các hình tượng tạo nên một thế giới nghệ thuật trọn vẹn – một thế giới khách quan theo quan niệm của nghệ sĩ. 1.2. Thế giới nghệ thuật thơ trữ tình 1.2.1. Phương thức phản ánh của từng thể loại tạo nên sự khác biệt của các loại hình thế giới nghệ thuật khác nhau: Thế giới nghệ thuật tự sự, thế giới nghệ thuật trữ tình và thế giới nghệ thuật kịch. Xưa nay thơ được coi là thế giới nghệ thuật thanh tao, không chỉ là thế giới của ý thức, mà còn là thế giới của tiềm thức, vô thức. Có rất nhiều định nghĩa về thơ, nhưng để có một định nghĩa hoàn hảo về thơ thì không phải dễ dàng. Bạch Cư Dị nói: “Gốc của thơ là tình cảm, lá của thơ là ngôn ngữ, hoa của thơ là âm thanh, quả của thơ là tư tưởng” [43, tr. 91], khẳng định sự hài hòa, sự nhuần nhuyễn và nghĩa lí của thơ. Đến Lamatine, thơ được lí tưởng hóa: “Thơ là hiện thân cho những gì thầm kín nhất của con tim và thiêng liêng nhất của tâm hồn con người và cho những hình ảnh tươi đẹp nhất, những âm thanh huyền diệu nhất trong thiên nhiên”. Với Hàn Mặc Tử thì “làm thơ là điên”; còn Tố Hữu thì “Thơ là chuyện đồng điệu”, “Thơ là tiếng nói tri âm...”,… Những quan niệm về thơ tuy muôn hình muôn vẻ nhưng đều gặp nhau ở một điểm: Thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Cách gọi thơ trữ tình đồng thời nhấn mạnh cả hình thức thể loại và đặc tính độc đáo chỉ có ở thơ. Nói như vậy không có nghĩa ở các thể loại khác không có yếu tố cảm xúc. Vấn đề là ở thơ, thế giới chủ quan, cảm xúc, ý nghĩa được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2