intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần qua Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:101

71
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là ứng dụng cơ sở lí luận về nghệ thuật trần thuật vào làm sáng tỏ biểu hiện nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm tiểu thuyết của Trần Dần. Từ đó, chúng tôi xác định vị trí của tác giả trong dòng văn học Việt Nam hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần qua Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ TRANG THỦY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN QUA ĐÊM NÚM SEN VÀ NHỮNG NGÃ TƢ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC HÀ NỘI - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN THỊ TRANG THỦY NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN QUA ĐÊM NÚM SEN VÀ NHỮNG NGÃ TƢ VÀ NHỮNG CỘT ĐÈN Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8229030.04 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS HÀ VĂN ĐỨC HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội văn nhân văn – Đại học Quốc Gia Hà Nội, các thầy cô công tác tại Viện Văn học Việt Nam, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS.TS Hà Văn Đức – người đã hết lòng giúp đỡ, chỉ bảo tận tình để em hoàn thành tốt luận văn này. Em xin gửi tới quý thầy cô trong Hội đồng bảo vệ lời cảm ơn chân thành! Do còn hạn chế về trình độ nên luận văn chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý từ phía thầy cô, đồng nghiệp và các bạn. Hà Nội, tháng 05 năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Trang Thủy
  4. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .........................................................................................................3 1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................3 2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................5 3. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................8 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................8 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ........................................................................................8 6. Đóng góp luận văn ..................................................................................................9 7. Cấu trúc luận văn ..................................................................................................10 PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................................11 CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT TRẦN THUẬT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT TRÂN DẦN ..............................................................................................................11 1.1. Lý thuyết nghệ thuật trần thuật ..........................................................................11 1.1.1. Khái niệm trần thuật ........................................................................................11 1.1.2. Vai trò của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết .........................12 1.2. Khái quát về tiểu thuyết Trần Dần .....................................................................15 1.2.1. Trần Dần và hành trình sáng tạo nghệ thuật ...................................................15 1.2.2. Giới thiệu tiểu thuyết Trần Dần ......................................................................19 CHƢƠNG 2. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ HÌNH THỨC KẾT CẤU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN ......................................................24 2.1. Điểm nhìn trấn thuật trong tiểu thuyết Trần Dần. ..............................................24 2.1.1. Khái quát về điểm nhìn trần thuật ...................................................................24 2.1.2. Điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn ............................................................................................................30 2.1.2.1. Điểm nhìn bên trong với Đêm núm sen ........................................................32 2.2.2.2. Điểm nhìn bên ngoài với Những ngã tư và những cột đèn..........................29 2.2.2.3. Điểm nhìn phức hợp với Những ngã tư và những cột đèn..........................32 2.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần ...................................35 2.2.1. Khái niệm về kết cấu và kết cấu trần thuật .....................................................35 2.2.2. Hình thức kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và Những cột đèn.......................................................................................................39 1
  5. CHƢƠNG 3. NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA TRẦN DẦN ...........................................................55 3.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần ........................................55 3.1.1. Giới thuyết chung về ngôn ngữ nghệ thuật .....................................................55 3.1.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn ....57 3.2. Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần .......................................74 3.2.1. Giới thuyết chung về giọng điệu trần thuật .....................................................74 3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn ....76 PHẦN KẾT LUẬN ...................................................................................................93 TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................95 2
  6. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Trần Dần là một tác giả có đóng góp quan trọng trong văn học Việt Nam hiện đại. Khi nhắc đến Trần Dần ngƣời ta nhắc đến một nhà văn vƣợt qua nhiều ngã tƣ để đến với cuộc đời. Cuộc đời của Trần Dần đã trải qua những lình xình về vấn đề chính trị. Vì thế suốt một thời gian dài bóng dáng tên tuổi của ông không đƣợc mọi ngƣời biết đến trên văn đàn. Thời điểm thơ ca phƣơng Tây xâm nhập vào Việt Nam nhƣ một hiện tƣợng lạ đã thu hút đông đảo văn nghệ sỹ khám phá, nhìn nhận những đặc trƣng mới mẻ và tính hiện đại vốn có của nó. Bên cạnh đó những trào lƣu, hiện tƣợng, lý thuyết Phƣơng Tây hiện đại cũng đem đến một cái nhìn thoáng hơn đối với văn học hiện đại Việt Nam, trong đó có thơ văn Trần Dần. Trần Dần sáng tạo nghệ thuật từ rất sớm, đặc biệt là thơ ca. Mặc dù trải qua cách đây mấy chục năm, đọc thơ văn Trần Dần ngƣời ta vẫn ngạc nhiên bởi những cách tân mới mẻ. Không chỉ dừng lại ở đó, khi đất nƣớc vận động và chuyển mình bƣớc sang thế kỷ XXI, tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn lần lƣợt đƣợc xuất bản đã gây cho ngƣời đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác khơi dậy một làn sóng sôi nổi trên thi đàn văn học nƣớc nhà. Ngƣời đọc ngạc nhiên trƣớc sự nổi bật và cách tân táo bạo hơn hẳn so với tác phẩm ở giai đoạn văn học ấy. Vì thế ngƣời ta bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu nghiêm túc và kỹ càng hơn trong sáng tạo nghệ thuật của Trần Dần. Là ngƣời trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa chung không khí của dân tộc, Trần Dần có nhiều đóng góp chung về đề tài kháng chiến, cách mang: thơ ca mang âm điệu hùng tráng, dồn dập trong Đi! Đây Việt Bắc! hay nỗi xót xa trƣớc những đau thƣơng cùng niềm tin tƣơng lai tƣơi sáng của dân tộc trong Nhất định thắng. Trong tác phẩm văn xuôi, sáng tác của Trần Dần nhƣ một dòng suối mát lạnh trong thời điểm văn học nƣớc nhà đang khô cằn. Ông đem đến một luồng gió mới cho văn học, khi chiếm lĩnh một chân trời riêng, cũng viết về đề tài chiến tranh nhƣng ông khai thác sự kiện, nhân vật, kết cấu hoàn toàn khác lạ so với thơ văn thời ấy. Sáng tác của Trần Dần tạo ra sự tò mò và khơi gợi tính thích thú cho nhiều nhà nghiên cứu, phê bình ở thời điểm bấy giờ. 3
  7. 1.2. Trong không khí đổi mới, cùng với việc nhìn nhận lại các vấn đề chính trị đã trả lại sự trong sạch cho Trần Dần. Cùng với đó văn chƣơng Trần Dần một thời vắng bóng nay đã đƣợc in ấn lại và đã khẳng định đƣợc vị trí của ông trên các diễn đàn văn học. Khi mới bƣớc ra ánh sáng, ngƣời ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó tâm lý của sự dè dặt, ngƣợng ngùng sau bao nhiêu biến cố Trần Dần đã trải qua. Trong bóng tối, im lặng luôn dai dẳng, ông âm thầm kiên quyết và đau đớn theo đuổi những giấc mơ cách tân của mình. Hành trình ấy dài bất tận cho đến cuối cuộc đời, khi ông không còn đủ sức lực để cầm bút nữa. Ngƣời thân, gia đình và bạn bè vẫn khâm phục ông, trân trọng công sức sáng tạo những giá trị nghệ thuật mà ông đem đến cho đời. Tại cuộc tọa đàm về thơ do Đại sứ quan Pháp tổ chức tại Việt Nam, Dƣơng Tƣờng chia sẻ những ngày tháng lận đận của ông, Trần Dần từng viết trong Nhật ký thơ: “Phải có gan bỏ rẻ một cuộc đời cho một thử nghiệm thơ”. Và con ngƣời Trần Dần chính là minh chứng thực tế cho quan niệm ấy. Quả thật, trời không phụ ngƣời có tài. Trải qua những biến động trong số phận con ngƣời thực, ngƣời ta vẫn thấy sức sống mạnh mẽ, kiên trì bền bỉ và giá trị tiềm tàng qua những tác phẩm Trần Dần để lại. Đây chính là sự quyết liệt trong cá tính, quyết liệt hành động để tìm kiếm những hình thức thể nghiệm, ngọn nguồn Tiếng Việt để nó bật ra những ý nghĩa mới mẻ. 1.3. Tác phẩm Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn đƣợc viết trong cùng một thời kỳ nhƣng có sự định hƣớng khác nhau về tƣ tƣởng, góc nhìn nghệ thuật. Bên cạnh đó hai cuốn tiểu thuyết cũng có sự kế thừa và cách tân trong nghệ thuật. Cùng viết về đề tài chiến tranh, nhƣng có lẽ Trần Dần lại khai thác một mảng hiện thực về sự kiện, nhân vật hoàn toàn khác so với thơ văn thời ấy. Nếu nhƣ Những ngã tư và những cột đèn là cuốn sách mang đậm yếu tố trinh thám, tự thuật của nhân vật Dƣỡng, anh ngụy binh trở về sau cuộc chiến. Tác phẩm Đêm núm sen lại gây choáng ngợp cho ngƣời đọc khi bƣớc chân vào thế giới loài kiến – ngƣời. Cuộc phiêu lƣu trong thế giới giả tƣởng ấy khiến ngƣời ta nhận ra sự khốc liệt của chiến tranh. Chiến tranh nghiền nát tất cả: sự sống, tình yêu, thành phố... Hai cuốn tiểu thuyết ra đời trong thời đại mới đã gây đƣợc tiếng vang lớn bởi những cách tân hiện đại. Ngƣời viết chọn đề tài: NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT TRẦN DẦN với mong muốn nghiên cứu nghệ thuật Trần Dần theo một 4
  8. hệ thống các yếu tố về ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật; nghệ thuật tổ chức kết cấu và cốt truyện; giọng điệu và ngôn từ trần thuật. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần, một mặt giúp ngƣời đọc thấy rõ hơn những nỗ lực cách tân nghệ thuật của nhà văn, đồng thời, còn cho chúng ta có thể nhìn thấy rõ hơn mạch vận động về quá trình tƣ duy tiểu thuyết trong giai đoạn hiện nay. 2. Lịch sử vấn đề Trên thực tế đã có những công trình nghiên cứu tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn, các nhà nghiên cứu, phê bình chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu và chỉ ra những đặc điểm làm mới thể loại tiểu thuyết, đặc biệt chú ý trên phƣơng diện nghệ thuật. Dƣới đây, chúng tôi xin đi giới thiệu một số bài viết chính về hai cuốn tiểu thuyết này: Tiểu thuyết Đêm núm sen ngay từ khi ra đời đã chịu số phận im lặng cùng với tác giả. Phải chờ gần một nửa thế kỷ mới đƣợc ra mắt bạn đọc, nhƣng dấu ấn Đêm núm sen để lại thực sự trở thành “bom tấn” nặng ký đối với nền văn học nƣớc nhà thời điểm bấy giờ. Nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học cũng đƣa ra những nhận định chung về tiểu thuyết đầy sức thuyết phục: Nhà nghiên cứu văn học Phạm Xuân Nguyên đã có nhận xét xác đáng: “Hồi hộp, thích thú, kinh ngạc... Ðêm núm sen tươi mọng, run rẩy, cựa quậy, phập phồng ngôn ngữ, câu chữ, cảm giác của một thế giới kiến, mà đọc thấy rất hiện thực về lịch sử của con người. Trần Dần luôn gây bất ngờ bởi văn chương Trần Dần với một văn cách khác - lạ - mới mà ông coi là một nhà văn thì phải có mới thực là có tư cách nhà văn. Viết năm 1961, Ðêm núm sen, một lần nữa đem lại một Trần Dần không thể sống một ngày không sáng tạo...”[43]. Ðọc Ðêm núm sen, ngƣời đọc thật sự cảm phục tài năng sáng tạo, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Trần Dần và lại càng tin và yêu về sự giàu đẹp của tiếng Việt. T.S Trần Ngọc Hiếu đặt mối liên hệ giữa thân xác và chiến tranh: “Nếu ta cần phải biết lịch sử trong mối liên quan với thân thể, ta hoàn toàn có thể thấy lịch sử là sự khống chế và nghiền nát thân thể”. Trong Đêm núm sen, chiến tranh ứng xử với con ngƣời nhƣ một thứ chất liệu. Bên cạnh súng đạn, chiến tranh cần xác ngƣời. Chiến tranh kìm hãm mọi thứ cảm xúc, để biến con ngƣời thành một thứ gì trừu 5
  9. tƣợng: “Cuốn tiểu thuyết này viết về tình dục với tất cả sự hồn nhiên của thân xác. Ngôn từ trong sách nếu theo đạo đức thông thường ta thấy nó có phần tục. Nhưng trong bối cảnh chiến tranh, nó thể hiện sức sống của con người, niềm ham sống của con người, xưng tụng sự sống của con người”[43] Nhà văn Dƣơng Tƣờng không ngần ngại xếp Đêm núm sen là một ngụ ngôn đen, giống như những ngụ ngôn đen của Gunter Grass thể hiện gương mặt bị lãng quên của lịch sử [43] Nhà phê bình văn học Mai Anh Tuấn thừa nhận “Tôi không đủ sức để đuổi theo hết ý tưởng của Trần Dần. Cuốn sách này làm cho ta ngỡ ngàng về tính hiện đại. Đọc nó, cho tôi những cặp tri nhận khác nhau: chiến đấu – lao động, tình yêu – sự thù oán, đau khổ – hèn nhát, mộng tưởng – tuyệt vọng…[43]. Những cảm giác của Mai Anh Tuấn không chỉ đúng với con ngƣời ở một thời đại mà còn đúng với chúng ta ở thời đại ngày nay. Đọc Đêm núm sen, ngƣời đọc vẫn bắt gặp đƣợc những cảm xúc chung trong tác phẩm và cảm xúc hiện tại. Tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, có thời gian xuất bản trƣớc tiểu Đêm núm sen, vì thế cũng đã đƣợc công chúng đón nhận sớm và nhiều nghiên cứu chuyên sâu đặc điểm thể loại tiểu thuyết này. Dƣới đây là những nhận định chung về tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn: Trong Im lặng trong cô đơn để viết tương lai, Công Tú nhận ra rằng: “những cách tân theo lối phương Tây thường được dùng như lời khen tặng với các nhà văn ham tìm tòi của Việt Nam thời đang sống, Trần Dần đều đã “thể nghiệm” cả”[44]. Quả thật Những ngã tư và những cột đèn là cuốn tiểu thuyết đƣợc xem là mới trên nhiều phƣơng diện nghệ thuật trần thuật từ điểm nhìn, kết cấu cho đến hình thức ngôn ngữ đều đa dạng và hiện đại. Điều mà Trần Dần đã làm đƣợc từ rất sớm, là mong ƣớc của nhiều nhà văn Việt Nam hiện đại chạm tới. Hoài Nam trong Một cuộc thử nghiệm ngôn ngữ, cũng đƣa ra ý kiến và đề cao Trần Dần khi viết: “B ng sáng tác của mình, ông gây hấn, ông tấn công và đập phá không thương tiếc những đường biên nghệ thuật tưởng đã rất sâu gốc bền r ” [22]. Thoát khỏi những ràng buộc truyền thống, Trần Dần tìm cho tác phẩm của mình hƣớng đi mới, thậm chí phá vỡ những quy phạm mang tính chuẩn mực để tự do viết 6
  10. theo ý đồ của mình. Cách dùng từ của Hoài Nam khá chặt chẽ, từ “gây hấn” rất hợp với ý hƣớng sáng tạo của Trần Dần. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên mạnh dạn bàn về nội dung và nghệ thuật: “Trao cho Những ngã tư và những cột đèn là khẳng định một cá tính sáng tạo độc đáo, là đề cao một tác phẩm có lối viết khác lạ, là kêu gọi sự đổi mới nghệ thuật phải trở thành một bản năng thường trực trong mỗi người viết”[25]. Ngoài những bài báo đánh giá, nhận xét, khám phá, tìm hiểu một số khía cạnh về tiểu thuyết của Trần Dần còn có một số công trình nghiên cứu bƣớc đầu so sánh với một số nhà văn trẻ khác nhƣ: Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Minh Thu với đề tài: Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết của Trần Dần qua Người người lớp lớp và Những ngã tư và những cột đèn (2012), Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Huệ với đề tài: Đặc điểm tiểu thuyết của Những ngã tư và những cột đèn (2014). Dõi theo con đƣờng nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần cùng các nhà nghiên cứu, phê bình văn học; chúng tôi nhận thấy mỗi tác giả đều ít nhiều đã chỉ ra một nét riêng biệt nào đó của Trần Dần dù là trong tiểu thuyết Đêm núm sen hay Những ngã tư và những cột đèn. Các tác giả chủ yếu chú trọng đến phƣơng diện nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần, nổi bật hơn hẳn là chủ thể trần thuật và ngôn ngữ nghệ thuật. Bởi với phƣơng diện này phong cách nghệ thuật của ông đƣợc thể hiện rõ, qua đó ngƣời đọc dễ dàng đi sâu vào nghiên cứu và khám phá tiểu thuyết Trần Dần. Chúng ta có thể thấy, không thể phủ nhận hết những đóng góp của Trần Dần đối với nền văn học nƣớc nhà. Tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn thực sự là cách tân nghệ thuật táo bạo của Trần Dần trên nhiều phƣơng diện khác nhau. Với phƣơng thức thể nghiệm táo bạo và mạnh dạn, hai cuốn tiểu thuyết đƣợc xuất bản với thời gian gần nhất đã đem đến cho độc giả và nhiều nhà nghiên cứu những trải nghiệm mới mẻ. Qua bài viết này, chúng tôi triển khai nghiên cứu nghệ thuật trần thuật tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn nhằm khái quát một cách đầy đủ đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết Trần Dần đồng thời bổ sung thêm những yếu tố mới để làm sáng rõ những sáng tạo, cách tân mới mẻ độc đáo của thể loại tiểu thuyết cũng nhƣ sự nghiệp nghệ thuật của Trần Dần. 7
  11. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là ứng dụng cơ sở lí luận về nghệ thuật trần thuật vào làm sáng tỏ biểu hiện nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm tiểu thuyết của Trần Dần. Từ đó, chúng tôi xác định vị trí của tác giả trong dòng văn học Việt Nam hiện đại. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu a. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: Nghệ thuật trần thuật của Trần Dần qua hai cuốn tiểu thuyết: Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn. Trong đó ngƣời viết sẽ chú ý đến các yếu tố sau: ngƣời trần thuật và điểm nhìn trần thuật; nghệ thuật tổ chức kết cấu và cốt truyện; ngôn từ và giọng điệu trần thuật. Ngƣời viết nhận thấy, những yêu tố nói trên đƣợc xem là nổi bật nhất trong hai tiểu thuyết. Và nó cũng là những yếu tố thể hiện nét độc đáo và sự sáng tạo của nhà văn Trần Dần. Với mỗi yếu tố về nghệ thuật của hai tác phẩm này, ngƣời viết rút ra kết luận về sự thay đổi và cách tân trong sáng tác của Trần Dần. b. Phạm vi nghiên cứu Trong luận phạm vi của luận văn này, ngƣời viết chỉ khảo sát nghệ thuật trần thuật của hai cuốn tiểu thuyết của Trần Dần: - Đêm núm sen - Những ngã tư đường phố và những cột đèn Theo thống kê, nhà văn Trần Dần có đến bốn cuốn tiểu thuyết (ngoại trừ hai quyển này còn tiểu thuyết: Người người lớp lớp và tác phẩm thơ – tiểu thuyết: Cổng tỉnh) nên chúng tôi sẽ dùng tác phẩm còn lại nhƣ một tƣ liệu để bổ trợ nghiên cứu hành trình sáng tạo tiểu thuyết Trần Dần đƣợc trọn vẹn, hoàn thiện hơn. Ngoài ra chúng tôi tiến hành so sánh một số tác phẩm của Trần Dần trong đó có tiểu thuyết Người người lớp lớp và các tác giả đƣơng thời để thấy đƣợc sự cách tân mới mẻ của nhà văn. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Nghiên cứu đề tài Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần qua Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn, chúng tôi vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: 8
  12. - Phương pháp phân tích- tổng hợp: là phƣơng pháp đƣợc ngƣời viết vận dụng để phân tích, lý giải ý nghĩa của các yếu tố nghệ thuật và làm sáng tỏ những nét mới mẻ trong tiểu thuyết Trần Dần, thông qua đó tổng hợp những vấn đề nghiên cứu đƣợc. - Phương pháp thống kê: sƣu tầm, thu thập, tổng hợp một số tác phẩm tiểu thuyết có liên quan đến nội dung nghiên cứu. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành thống kê những từ ngữ có tính biến âm và sự phá cách về ngôn từ trong tiểu thuyết Trần Dần. - Phương pháp so sánh: phƣơng pháp này đƣợc áp dụng để so sánh sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật với chính ông qua mỗi tác phẩm, qua mỗi thời kỳ; so sánh nét khác biệt của ông so với các văn nghệ sĩ đƣơng thời. Đồng thời cũng đối chiếu với thơ ông, để khẳng định sự cách tân là một điều không thể thiếu trong cuộc đời sáng tạo của ông. - Phương pháp xã hội học: nghiên cứu mối quan hệ tƣơng tác giữa văn học và độc giả, quá trình của đời sống văn học sẽ đƣợc hoàn chỉnh thành một chu trình khép kín: xã hội- tác giả- tác phẩm- công chúng- tác giả. Bằng phƣơng pháp này, ngƣời viết làm rõ nguyên nhân của sự cách tân, cũng nhƣ vì sao số phận tiểu thuyết Trần Dần nằm im lặng trong khoảng thời gian dài. - Phương pháp tự sự học: nghệ thuật trần thuật chỉ đƣợc tìm hiểu kỹ càng khi có tự sự học ra đời. Phƣơng pháp là một yêu cầu bắt buộc có trong luận văn. - Phương pháp tiểu sử: là một trong những phƣơng pháp nghiên cứu văn học, theo đó, tiểu sử và nhân cách nhà văn đƣợc tìm hiểu để lý giải tác phẩm. Những phƣơng pháp trên đƣợc xem nhƣ là những phƣơng pháp chính đƣa vào vận dụng chủ yếu trong luận văn. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phƣơng pháp khác trong quá trình nghiên cứu: phƣơng pháp cấu trúc...Tuy nhiên, những phƣơng pháp này không phải là phƣơng pháp chủ đạo của luận văn. 6. Đóng góp luận văn Từ khi ra đời, tiểu thuyết Đêm núm sen và Những ngã tư và những cột đèn của Trần Dần trở thành “bom tấn” văn chƣơng nhận đƣợc sự quan tâm đông đảo từ bạn đọc, các nhà nghiên cứu, phê bình. Đã có khá nhiều bài báo, bài phát biểu, nghiên cứu về những yếu tố nghệ thuật trong hai tiểu thuyết này. Trong bài nghiên cứu, 9
  13. ngƣời viết mong muốn làm rõ những thành công của Trần Dần đặc biệt trên phƣơng diện nghệ thuật. Qua đó khẳng định vị trí vai trò Trần Dần trong tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam. 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm có ba chƣơng: Chƣơng 1. Lý thuyết trần thuật học và khái quát về tiểu thuyết Trần Dần Chƣơng 2. Điểm nhìn trần thuật và hình thức kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần Chƣơng 3. Ngôn ngữ nghệ thuật và giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Trần Dần 10
  14. PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1. LÝ THUYẾT TRẦN THUẬT VÀ KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT TRÂN DẦN 1.1. Lý thuyết nghệ thuật trần thuật 1.1.1. Khái niệm trần thuật Ngay từ đầu thế kỉ XX, lý thuyết trần thuật luôn là vấn đề đƣợc các nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc quan tâm bởi nó mang tính thời sự và ứng dụng hữu hiệu trong việc cắt nghĩa, lý giải lớp ngôn ngữ văn bản. Từ đó dến nay lí luận trần thuật đã đạt đƣợc một số thành quả quan trọng. Có thể kể đến là các nghiên cứu về tự sự của các nhà hình thức Nga (V.Propp, V.Shklovski, Eikhenbaum); nguyên tắc đối thoại của M.Bakhtin; loại hình học về kĩ thuật trần thuật Anh Mĩ do P.Lubbock khởi thảo và N.Friedman tu chỉnh; các nghiên cứu về loại hình trần thuật của các học giả Đức (E.Leibfried,W.Fƣger,F.K.Stanzel, W.Kayser, O.Ludwig, K.Friedman); các quan niệm của nhà cấu trúc ngƣời Czech Z.Doleze, các học giả Nga Ju.Lotman và B.Uspenski. Cũng nhƣ nhiều nƣớc trên thế giới, ở nƣớc ta, trần thuật cũng là một vấn đề đƣợc giới nghiên cứu quan tâm. Nghệ thuật trần thuật là một phƣơng diện không thể thiếu trong phƣơng thức tự sự. Bởi trong tác phẩm tự sự, nghệ thuật trần thuật có vai trò quan trọng trong việc khẳng định tài năng, phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn. Mỗi một thể loại cụ thể sẽ có hình thức trần thuật khác nhau. Xét về khía cạnh thuật ngữ, trần thuật (narration), hay còn gọi là kể chuyện, đƣợc J.Lin Velt cho rằng: “Kể là một hành vi trần thuật theo nghĩa rộng là một tình thế hư cấu, bao gồm cả người trần thuật và người nghe kể” [37, tr. 154]. Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Trần thuật là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là việc giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của một người trần thuật nhất định…Thành phần của trần thuật không chỉ là lời thuật và chức năng của nó không chỉ là kể việc. Nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú của tác giả….Trần 11
  15. thuật gắn với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác phẩm… Trần thuật là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự, thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này” [17, tr. 307]. Trong cuốn Giáo trình lí luận văn học đƣa ra khái niệm về trần thuật nhƣ sau: “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật, miêu tả sự kiện, nhân vật, theo một thứ tự nhất định” [39, tr. 146]. Qua những định nghĩa trên, chúng ta nhận thấy hoạt động trần thuật thực chất là kể. Trần thuật là thuật lại những diễn biến sự kiện, nhân vật, hoàn cảnh theo một cách nhìn nhất định. Qua đây, ta cũng nhận thấy: khái niệm trần thuật và khái niệm kể chuyên có thể thay thế cho nhau và đƣợc diễn đạt bằng những từ ngữ mang tính cụ thể nhƣ: ngƣời kể chuyện, điểm nhìn, ngôi kể... Khái niệm trần thuật luôn gắn liền với bố cục và kết cấu của văn bản. Ngƣời trần thuật đóng vai trò nhƣ một Master – ngƣời dẫn chƣơng trình, giúp độc giả tìm hiểu tác phẩm ở cả bề mặt cũng nhƣ bề sâu. Trần thuật đóng vai trò chính trong việc cấu thành tác phẩm, giúp ngƣời đọc dễ dàng nắm đƣợc kết cấu của một tác phẩm “ai, xuất hiện ở đâu, khi nào, làm việc gì, trong tình huống nào…”. Nhờ cách kể chuyện của tác giả mà làm sống lại linh hồn cho tác phẩm. Trong tiểu thuyết của Trần Dần đã sử dụng nghệ thuật trần thuật vào việc khai thác hiện thực cuộc sống, mảnh đời tƣ, tâm lý nhân vật trong các mối quan hệ, hoàn cảnh, không gian và thời gian nhất định. Điều đó, tạo nên đặc trƣng riêng trong phong cách Trần Dần đồng thời khẳng định những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn học. 1.1.2. Vai trò của nghệ thuật trần thuật trong xây dựng tiểu thuyết Tiểu thuyết là một thể loại lớn, tiêu biểu cho loại hình tự sự, đƣợc coi là “cỗ máy cái” của nền văn học hiện đại. Mang đặc trƣng thi pháp riêng, với phƣơng thức trần thuật, tiểu thuyết chiếm lĩnh và khái quát hiện thực cuộc sống một cách đa chiều và phong phú và đa dạng. Nhiều bề mặt, lát cắt đƣợc đƣa vào tiểu thuyết nhƣ những thƣớc phim của thời đại. Trong văn xuôi tự sự nói chung, tiểu thuyết nói riêng, nghệ thuật trần thuật chính là đặc trƣng cơ bản nhất luôn gắn liền với bố cục, kết cấu tác phẩm. “Trần thuật gắn liền với toàn bộ công việc bố cục, kết cấu tác 12
  16. phẩm”,“là phương diện cấu trúc của tác phẩm tự sự thể hiện mối quan hệ chủ thể - khách thể trong loại hình nghệ thuật này” [17, tr.364 - 365]. Luận bàn về vai trò của nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm tự sự, trong Dẫn luận nghiên cứu văn học, Pospelov cho rằng trần thuật đóng vai trò quyết định chính trong các tác phẩm tự sự. Ông còn xác định những yếu tố cơ bản của nghệ thuật trần thuật: “Với sự trợ giúp của trần thuật, miêu tả, bình luận, tác giả, lời nói nhân vật trong các tác phẩm tự sự, cuộc sống được nắm bắt một cách tự do, sâu rộng” [30, tr. 68]. Khi nói đến sự thành công của tác phẩm văn xuôi, đã có một thời gian dài các nhà nghiên cứu đánh giá sự thành công đó qua những phƣơng diện: Chủ đề, tƣ tƣởng, nhân vật, cốt truyện, ngôn ngữ. Ngƣời ta thừa nhận có tính cá thể hóa hay “phong cách cá nhân” (tức là dấu ấn riêng của tác giả không dễ bắt chƣớc) nhƣng vẫn chƣa thừa nhận vai trò quan trọng của trần thuật. Trong các tác phẩm văn xuôi tự sự, để dễ dàng phân biệt nhà văn này với nhà văn khác ngƣời ta thƣờng chú trọng vào lối kể chuyện đƣợc thể hiện trong lời nói của từng nhân vật, trong diễn đạt từng sự việc, hình ảnh, tình huống... chứ không phải nhờ bản thân các biến cố, các câu chuyện đƣợc kể. Mỗi một tác phẩm, ngƣời đọc nhận thấy những hình ảnh quen thuộc, hay một “lát cắt của đời sống” hiện thực trong đó. Nhà văn hay ngƣời nghệ sĩ bao giờ cũng phải đắm mình vào cuộc sống, lắng nghe hơi thở và nhịp đập của đời sống biến đổi từng giây để chắt lọc những gì tinh túy nhất đem vào trang viết của mình. Song thông qua cách kể của nhà văn ngƣời đọc sẽ bị lôi cuốn vào mạch truyện. Lối kể sinh động khiến cho câu chuyện trở nên mới mẻ và hấp dẫn hơn. Đối với tiểu thuyết một thể loại văn xuôi tự sự dài hơi thì nghệ thuật trần thuật – nghệ thuật kể chuyện lại càng đƣợc xem là thủ pháp nghệ thuật quan trọng, nhờ nó nhà văn mới có thể sắp đặt các câu chuyện, các nhân vật, các sự kiện tình huống một cách có lôgic và truyền tải một cách hiệu quả, phản ánh hiện thực đến với độc giả và nhờ nó bạn đọc cũng phân biệt đƣợc tài năng giữa các nhà sáng tạo tiểu thuyết với nhau. Vì vậy có thể thấy, nghệ thuật trần thuật hay cách kể chuyện chính là đặc trƣng của tác phẩm tự sự, đóng vai trò chủ đạo chính góp phần tạo nên thế giới nghệ thuật của tác phẩm. 13
  17. Misen Buytor (nhà văn Pháp hiện đại thuộc trƣờng phái Tiểu thuyết mới) đã đƣa ra những quan điểm rất ý nghĩa về vấn đề chuyện kể trong văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng: “Tiểu thuyết là một hình thức kể chuyện đặc biệt vượt quá giới hạn của văn chương; đó là một trong những phương thức hết sức quan trọng giúp con người nắm bắt được thực tại (…). Cái được kể liên quan đến cả những con người, những sự vật, những đồ vật và nơi chốn mà bản thân chúng ta chưa bao giờ đến, nhưng có một ai đó đã mô tả cho chúng ta nghe (…) Tiểu thuyết là những phòng thực nghiệm kể chuyện… Các hình thức kể chuyện khác nhau cũng tương ứng với các hình thức khác nhau của thực tại” [36, tr. 379 - 380] Trần thuật là một phƣơng thức nghệ thuật đặc trƣng của tác phẩm tự sự. Theo 150 thuật ngữ văn học của Nhà phê bình Lại Nguyên Ân thì tiểu thuyết là “Tác phẩm tự sự trong đó sự trần thuật tập trung vào số phận cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó; sự trần thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến đủ mức truyền đạt “cơ cấu” của nhân cách. Belinski gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời tư”, do chỗ nó “miêu tả những tình cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời sống nội tâm của con người” [1, tr. 313]. Trần thuật tồn tại với nội dung trần thuật và hình thức trần thuật. Thực tiễn văn học cũng cho thấy, nghệ thuật trần thuật là một trong những yếu tố cơ bản thể hiện cá tính sáng tạo của nhà văn. Đối với ngƣời nghệ sĩ tài năng, trong mỗi tác phầm nghệ thuật trần thuật là sự tìm tòi, sáng tạo ra những hình tƣợng độc đáo và biến hóa linh hoạt nội dung. Đúng nhƣ Nam Cao- nhà văn hiện thực phê phán đã từng viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Ngƣời nghệ sĩ trong quá trình lao động nghệ thuật phải không ngừng sáng tạo, có khi là dùng nhân vật hình tƣợng để gửi gắm tâm tƣ tình cảm của mình, có khi phát biểu tƣ tƣởng ấy bằng một hình thức nghệ thuật độc đáo, riêng biệt. Chính vì thế, sự thành công về phƣơng diện trần thuật không hề đơn giản và dễ dàng với bất kì ngƣời cầm bút nào. 14
  18. Nhƣ vậy, nghệ thuật trần thuật là phƣơng diện thi pháp đặc trƣng của thể loại tiểu thuyết. Ngƣời đọc có thể khám phá, tiếp cận đƣợc những giá trị văn chƣơng đích thực thông qua việc tìm hiểu các phƣơng diện trần thuật. Nhờ có nghệ thuật trần thuật, tiểu thuyết mới đƣợc xem là một trong những sáng tạo kỳ diệu của ngƣời nghệ sĩ. 1.2. Khái quát về tiểu thuyết Trần Dần 1.2.1. Trần Dần và hành trình sáng tạo nghệ thuật Trần Dần sinh ngày 23 tháng 8 năm 1926, nguyên quán thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, cha Trần Dần là một viên chức kho bạc tỉnh Nam Định. Ông học qua bậc Thành Chung ở quê rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ bằng tú tài. Thuở niên thiếu, Trần Dần chơi thân với Vũ Hoàng Địch (là em của nhà thơ Vũ Hoàng Chƣơng). Họ sống gần nhà nhau, cùng lớn lên và có những ký ức đẹp về tuổi thơ. Hai ngƣời đƣợc gần gũi với hai nhà thơ nổi tiếng trên thi đàn lúc đó là Vũ Hoàng Chƣơng và Đình Hùng. Chính vì thế, hai ngƣời sớm có điều kiện tiếp xúc với thơ văn và trƣờng phái tƣợng trƣng Pháp. Thần tƣợng của Trần Dần là Rimbaud, ông ngƣỡng mộ cả lối sống phiêu bạt, tính triệt để và tinh thần tự do vƣợt ngoài mọi khuôn khổ của nhà thơ này. Vì thế, không khó hiểu bản lĩnh thơ ca của một chàng trai trẻ luôn sục sôi, ôm ấp những dự định lớn lao về nghệ thuật thi ca. Văn học Việt Nam thời kỳ này đã có bƣớc chuyển mới, với sự xâm nhập của văn hóa, thơ ca phƣơng Tây đã tạo nên những trào lƣu, khuynh hƣớng mới. Trần Dần bắt đầu sáng tác từ trƣớc 1945, thời điểm thơ Mới đã phát triển rực rỡ. Chứng kiến sự ra đời của những tay bút “chắc nịch” làm nên diện mạo thơ ca Việt nhƣ: Tiếng thu của Lƣu trọng Lƣ, Tinh huyết của Bích Khê (1939), Thơ say của Vũ Hoàng Chƣơng, Lửa thiêng của Huy Cận (1940)...Năm 1943, bản Đề cương văn hóa Việt Nam đƣợc công bố, có tính chất nhƣ kim chỉ nam định hƣớng về đƣờng lối cho các văn nghệ sĩ Việt Nam. Thế nhƣng, Trần Dần vẫn bình yên đứng ngoài lề sự kiện với những bài thơ mang tinh thần thơ Mới nhƣ: Hồn Xanh dị kỳ (1944). Sau đó, ông quan niệm văn chƣơng là mới mẻ, là khác biệt...Vì thế, ông đến với những cách tân, mong muốn sáng tạo ra thứ thơ phải mang tinh thần thời đại, mới hơn những thành tựu hiện tại vì theo ông thơ mới đã làm xong cuộc cách mạng của nó. Trần Dần cùng một số nhà thơ nhƣ: Trần Mai Châu, Đình Hùng, Vũ Hoàng Địch 15
  19. của phải thơ tƣợng trƣng cho ra đời tạp chí Dạ Đài nhằm khai mở một lối thơ khác biệt, với quan niệm nền tảng thơ ca sẵn có, những yếu tố cũ không còn phù hợp, vƣợt lên trên quan niệm cũ đề cao hình thức sáng tạo, cảm thụ thơ ca trong mỗi con ngƣời. Nhóm thơ tƣợng trƣng Dạ Đài với dòng tuyên ngôn: “Chúng tôi-một đoàn thất thổ- đã đầu thai nh m lúc sao mờ. Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy giấc mơ của người trước... Chúng tôi sẽ nối lại nghiệp dĩ của một Rimbaud-nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn”... Dạ đài chính là khí thế của ngƣời trẻ tuổi trong không khí thời chiến, luôn sục sôi nhiệt huyết sáng tạo, đổi mới gỡ bỏ những lối mòn truyền thống. Ngày 19/12/1946, ông làm việc cùng nhóm Dạ Đài cho ra số báo Dạ đài 2. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, Trần Dần cũng nhƣ bao thanh niên thời ấy “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”, ông trở về Nam Định tham gia công tác tuyên truyền ở huyện Vụ Bản, làm việc ở Sở Truyên Truyền khu IV. Năm 1948, khu 14 ở Tây Bắc đƣợc thành lập, Trần Dần cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng địch lên Tây Bắc. Một thời gian sau khu 14 bị giải thể, ông tham gia quân đội nhận công tác địch vận của trung đoàn Sơn La. Tại đây, ông cùng một số ngƣời bạn là: Trần Thƣ, Hoài Niệm tham gia sáng lập Nhóm Sông Đà- nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên. Vẫn luôn giữ quan niệm cũ, làm thơ là phải cách tân, là đổi mới, thời gian này dù tất bật với không khí kháng chiến nhƣng ý thức sáng tạo luôn âm ỉ cháy trong ngƣời lính trẻ. Ông bắt đầu làm thơ bậc thang học theo Maiacopxki và vẽ tranh lập thế, mặc dù đƣợc nhiều ngƣời đón nhận nhƣng họ vẫn buông lời nhận xét là khó hiểu. Hồ Phƣơng kể lại: “Ở nhóm văn nghệ Tây Bắc có Trần Thứ (nay là Trần Vũ), Trần Dần và Hoài Niệm... Tờ Sông Đà của nhóm này cũng là một tờ báo được trình bày khá đẹp, nghiêng về sáng tác thơ văn. Hội ấy Trần Dần hay làm thơ leo thang, bài thơ thường được trình bày khá kiểu cách. Dòng thì in chữ nhỏ, dòng lại in chữ to, thiên về hạng theo mốt” [9] Năm 1954, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ cùng với Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân và viết tiểu thuyết Người người lớp lớp. Không khí hào hùng của cuộc chiến cùng với những mất mát, hi sinh của ngƣời bạn thân thiết Tô Ngọc Vân đã để lại những cảm xúc đau thƣơng, khó phai trong lòng Trần Dần. Tiểu thuyết Người người lớp lớp đƣợc viết theo khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng 16
  20. mạn. Trần Dần đã đem đến cho độc giả một bức tranh sinh động đƣợc coi là “huyền thoại”, “một điểm hẹn lịch sử”, “cột mốc vàng” trong cuộc chiến tranh nhân dân và chủ nghĩa anh hùng trong chiến đấu của những anh bộ đội cụ Hồ. Có thể thấy, Trần Dần quyết không bao giờ đi theo lối mòn cũ trong văn chƣơng, ông luôn khao khát theo đuổi sự sáng tạo mới mẻ. Chiến dịch kết thúc, ông đƣợc cử sang Trung Quốc viết thuyết minh phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Do bất đồng với ngƣời cán bộ chính trị đi cùng nên ông “nhường” cho ngƣời này viết thuyết minh. Tại thời điểm này, ở Trung Quốc, dấy lên vụ án Hồ Phong – một nhà phê bình văn học và là Đảng viên lâu năm, với những quan điểm văn chƣơng không thống nhất. Trần Dần không thể ngờ rằng số phận mình lại sang một ngã rẽ khác, ông viết Anh đã thấy (thơ – 1954), Tiếng trống tương lai (thơ, đã trích đăng trong Văn nghệ Quân Đội năm 1954) Năm 1955, khi trở về Hà Nội, Trần Dần kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê (gia đình bà có ngƣời di cƣ vào Nam) nên chính quyền không cho phép. Trần Dần tham gia phong trào Nhân văn- Giai phẩm, mong muốn thay đổi quan điểm sáng tác và rồi rơi vào vũng lầy của bế tắc. Câu chuyện Nhân Văn- Giai Phẩm có lẽ là thƣớc phim buồn nếu ta cứ mải miết tìm lại quá khứ để xem xét, bình phẩm đúng sai. Trần Dần cũng không thể ngờ rằng số phận mình lại chỉm nghỉm trong bờ vực ấy. Từ đây, ông chọn cho mình cách sống lặng lẽ, âm thầm ngoài lề lối sinh hoạt văn nghệ chính thống sống bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu. Đam mê viết vẫn chƣa dừng lại trong huyết quản của ngƣời nghệ sĩ. Trần Dần lại ghi, ghi lại những suy nghĩ, những sự kiện, những điều mắt thấy tai nghe, những câu chuyện bạn bè kể lại, thậm chí những suy nghĩ đột hiện ra trong óc...tất cả là bộ mặt đời sống của thời ấy, hỉ- nộ- ái -ố đều có. Phạm Thị Hoài gọi ông là “thủ lĩnh trong bóng tối”. Vƣợt lên trên thực tại, bỏ ngoài tai sự khen chê, lẽ đƣợc mất ở đời, vƣợt qua mặc cảm, cô đơn, Trần Dần đã để lại những tác phẩm vƣợt thời gian cả về số lƣợng và chất lƣợng. Đây là giai đoạn thăng hoa nhất trong sự nghiệp sáng tác Trần Dần. Với Trần Dần, chính cột mốc này lại đánh dấu một sự dấn thân quyết liệt hơn, sung sức nhất cho tích lũy và sáng tạo. Các tác phẩm liên tiếp ra đời, đánh dấu cách thức dấn thân của một kẻ ngoài lề đứng bên thềm văn chƣơng: Đêm núm sen 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0