intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận “ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng “

Chia sẻ: Bút Màu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:42

229
lượt xem
46
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhữ Bá Sĩ đã thể hiện sự quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX khi ông nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà không đóng, mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương”. Mỗi tác phẩm văn học tồn tại trong một cấu trúc nghệ thuật nhất định bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng được tổ chức hợp lý, nghệ thuật trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận “ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng “

  1. Khóa luận “ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Vũ Trọng Phụng “
  2. MỤC LỤC PHẦN DẪN LUẬN.......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 2 3. Phương pháp nghiên cứu................................................................................... 21 4. Những đóng góp của luận văn ......................................................................... 22 5. Bố cục luận văn ................................................................................................. 22 CHƯƠNG I : QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN VŨ TRỌNG PHỤNG .................................................. 24
  3. 1. Con người với những chân dung xấu xí, dị dạng........................................... 25 2. Từ con người “vô nghĩa lý” đến con người tha hóa...................................... 30 2.1 Con người “vô nghĩa lý” ............................................................................ 30 2.2 Con người tha hóa ...................................................................................... 38 3. Con người gắn với số phận bất hạnh .............................................................. 43 4. Con người mang vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng .................................... 51 5. Con người có đời sống nội tâm đa dạng, phức tạp ....................................... 63 5.1 Con người bị đeo bám bởi chủ nghĩa định mệnh .................................... 63 5.2 Những trường hợp tâm lí đáng quan tâm ................................................. 70 CHƯƠNG II : NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN
  4. VŨ TRỌNG PHỤNG ................................................................................................... 78 1. Kết cấu trần thuật.............................................................................................. 78 1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật ......................... 79 1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian 79 1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện” .............. 84 1.1.3 Kết cấu trần thuật theo diễn biến tâm lí của nhân vật ............ 88 1.2 Cách trần thuật tô đậm phần cuối truyện với những kết thúc bất ngờ 92 1.3 Về những đoạn trữ tình ngoại đề cuối tác phẩm..................................... 98 2. Điểm nhìn trần thuật ...................................................................................... 105 2.1 Trần thuật khách quan với điểm nhìn bên ngoài.................................. 107 2.2 Sự đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật ...................................................... 113 2.2.1 Từ người kể chuyện xưng “tôi” có tham gia vào câu chuyện
  5. đến nhân vật tự thuật .......................................................................... 114 2.2.2 Sự đan xen giữa điểm nhìn nhà văn và điểm nhìn của nhân vật chính .................................................................................... 119 2.2.3 Sự phối hợp nhiều điểm nhìn khác nhau trong một tác phẩm ............................................................................................... 124 3. Giọng điệu trần thuật ...................................................................................... 129 3.1 Một sự bổ sung cho tài năng trào phúng bậc thầy................................ 131 3.2 Giọng triết lí – sự mở đầu cho khuynh hướng và những đặc trưng .... 136 PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 144 TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
  6. 1. KẾT CẤU TRẦN THUẬT : Nhữ Bá Sĩ đã thể hiện sự quan tâm tới kết cấu ngay từ những năm cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX khi ông nhận xét: “Loại văn chương tột bậc của thiên hạ đúng là không ở trong cái giới hạn đóng, mở, kết cấu, nhưng mà không đóng, mở, kết cấu thì cũng không thành văn chương”. [118, tr.154] Mỗi tác phẩm văn học tồn tại trong một cấu trúc nghệ thuật nhất định bao gồm nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và mối liên hệ, quan hệ giữa chúng được tổ chức hợp lý, nghệ thuật trong một hệ thống, một chỉnh thể nhằm biểu đạt những tư tưởng, tình cảm mà nghệ sĩ muốn kí thác. Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu là kiến trúc tác phẩm, là toàn bộ tổ chức phức tạp của tác phẩm. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm. Khi đánh giá kết cấu một tác phẩm, phải xét trong yêu cầu thể hiện nội dung của tác phẩm đó, xét hiệu quả mà tác phẩm để lại trong lòng người đọc. Khảo sát kết cấu của tác phẩm chính là khảo sát cấu trúc của nó Kết cấu tác phẩm không chỉ là mối liên kết các hiện tượng, con người. Mối quan tâm lớn của nhà văn là sắp xếp tài liệu làm sao để cho cái chính yếu được nổi bật lên, cái quan trọng gây được ấn tượng mạnh mẽ. Kết cấu tác phẩm thể hiện quá trình làm việc căng thẳng, công phu của nhà văn với chất liệu cuộc sống từ đó để biểu hiện một chân lí khái quát. Nó cũng phản ánh quá trình tư duy của nhà văn, quá trình vận động của tư duy ấy. Tư tưởng sống động của nhà văn bao giờ cũng biểu hiện trong kết cấu và qua kết cấu.
  7. Nói theo tác giả Lí luận văn học (tập 2 : Tác phẩm và thể loại văn học) là : “Kết cấu, cấu trúc vô luận là tổ chức vật thể, quan hệ hay quy tắc, phương pháp, mô hình đều là yếu tố tạo thành văn bản, là thực tế không thể bỏ qua trong quá trình sáng tác và đọc hiểu văn bản.” [117, tr.156] Đến với truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng cũng vậy; việc tìm hiểu, khảo sát những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật thể hiện qua tác phẩm không thể bỏ qua yếu tố kết cấu. 1.1 Sự linh hoạt trong việc chọn lựa cách thức trần thuật : 1.1.1 Kết cấu đảo trình tự thời gian : Trên phương diện kết cấu, một trong những loại hình mới mẻ mà truyện ngắn từ đầu thế kỷ XX đem đến trên phương diện kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật không tuân theo trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời gian tuyến tính. Các truyện này thường bắt đầu ở phần giữa hoặc phần kết thúc của cốt truyện tự nhiên. Sự tái tạo lại trật tự nghệ thuật cho các sự kiện trong cốt truyện là một đặc trưng của tư duy nghệ thuật hiện đại. Sự đảo lộn trật tự thời gian của các sự kiện có ý nghĩa không nhỏ trong việc thể hiện nội dung tác phẩm nên kiểu kết cấu này đã rất phổ biến ở truyện ngắn các giai đoạn sau. Được sử dụng trong 13/41 số lượng truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng, dạng kết cấu này khiến chúng ta phải dành sự chú ý cẩn trọng cho nó. Một khi tác giả đã xóa đi trật tự tuyến tính của thời gian, ắt hẳn ông muốn nhấn mạnh với người đọc một vấn đề nào đó.
  8. Trong truyện ngắn Nhân quả, ông đã để nhân vật người đàn ông hồi tưởng lại những chuyện xưa cũ từ điểm nhìn ngày đám cưới trong thực tại. Dòng hồi tưởng đó gắn liền với tâm trạng phơi phới khi nhớ lại một quá khứ đào hoa lẫy lừng đã vùi chôn bao đời con gái. Hắn đã chiếm đoạt, hắn đã khinh khi và giờ đây tràn đầy khao khát, mãn nguyện với ý nghĩ cô vợ mới cưới “về phần tân tiết thì nắm chắc đến mười mươi”. Đảo trình tự thời gian như vậy, Vũ Trọng Phụng đã lột tả bản chất xấu xa của một gã trai phóng đãng, bỉ ổi, sở khanh và giúp ta hiểu được niềm khao khát trinh tiết phụ nữ trong hiện tại của hắn vì sao lại mãnh liệt nhường ấy để từ đó càng làm rõ được nỗi chua chát, bẽ bàng của hắn ở cuối truyện. Với truyện ngắn Người có quyền, tác giả lại kể về cuộc đời một nhân vật “văn dốt, vũ dát, hai mươi bảy tuổi đầu còn ăn bám vào mẹ, cả ngày đi tìm mấy gia đình nhàn cư bất thiện để gạ đánh cờ không tiền hay là chầu rìa tổ tôm”, nói tóm lại là dở ông dở thằng. Nhưng ông không bắt đầu câu chuyện từ điều ấy mà khơi nguồn từ tâm trạng phớn phở của nhân vật khi hôm nay anh ta đã được làm cha một đứa trẻ con – kết quả mối tình của anh và “một người đàn bà góa chồng rất trẻ, cũng vui vẻ, nhí nhảnh…mà anh đã chim”. Để nhân vật triết lí về hạnh phúc, sung sướng với thực tại trong sự hồi tưởng ngược dòng về quá khứ, Vũ Trọng Phụng cho người đọc những bất ngờ : con người như thế mà sao may mắn đến vậy? Nhưng không, đó chỉ là cách nhà văn che giấu cho một tương lai gần rất bi kịch mà hợp lí : con là con người ta, nhân tình bấy lâu đầu ấp tay gối đã lừa gạt và phũ phàng xua đuổi không thương tiếc. Lối trần thuật như vậy quả thật có giá trị riêng của nó : không chỉ lí giải cho hoàn cảnh, tâm lí nhân vật trong thực tại và chuẩn bị
  9. cho những bất ngờ phía trước; nó còn giúp ta hiểu rõ về nhân vật qua cái nhìn ngược thời gian đầy ấn tượng. Cách trần thuật đưa kết quả sự việc lên trước rồi lần lượt kể lại nhằm lí giải nguyên nhân, truy tìm nguồn gốc cũng là kết cấu được sử dụng trong một số truyện ngắn như : Phép ông láng giềng, Bẫy tình, Chống nạng lên đường, Tội người cô, Duyên không đi lại, Cái hàng rào, Bà lão lòa, Gương …tống tiền, Lòng tự ái… Truyện ngắn Bà lão lòa tái hiện cho ta ngay từ đầu thời khắc tăm tối, ê chề trong phận sống nhờ của nhân vật cùng tên - là người cô họ của bác đánh giậm. Lần hồi sau đó, tác giả đưa ta trở về với quá khứ khi bà lão còn giàu có, bà đã “giúp đỡ kẻ nghèo khó; trong họ ngoài làng, nhiều người đã được nhờ bà” thế nhưng “đến khi gặp bà bước khốn cùng thì chẳng ai thương cả”. Tác giả cũng cho ta biết rằng ngày trước bác đánh giậm “đã nhiều phen ngửa tay nhận lấy đồng tiền cứu giúp của bà” nên bây giờ “đành cắn răng, vuốt bụng, nhắm mắt” nuôi bà trong lúc hoạn nạn với nỗi niềm biết bao “xót ruột khi bà lão lòa lò rò ngồi vào mâm, cướp cơm của vợ, của con nhà bác”. Quay ngược thời gian như vậy, nhà văn đã cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc đời bà lão lòa; đồng thời ông cũng nhấn mạnh thái độ lên án, phê phán đối với cuộc đời này. Một quá khứ tử tế, ăn ở phúc đức nhưng đổi lại chỉ là một hiện thực cay đắng : con trai ăn chơi, phá của đến nỗi “bán ruộng, cầm nhà” khiến bà thành tật nguyền, nghèo khổ và đứa cháu họ vô ơn bạc nghĩa đối xử với ân nhân của mình không ra gì. Hiện tại bà cụ chẳng gặp lành dù ngày trước đã ăn ở rất hiền lành, hiện tại người ta vong ân dù quá khứ vốn
  10. chịu nhiều ơn cứu giúp của bà – những đối nghịch thời gian đi kèm với nghịch lí cuộc đời khiến câu chuyện cứ ám ảnh chúng ta mãi. Không đi vào những nghịch lí thời gian như trên, một loạt tác phẩm đã đưa ra hiện thực tha hóa hoặc bi đát rồi giúp người đọc đi tìm nguyên nhân trong quá khứ. Không đi theo thời gian tuyến tính, những câu chuyện ngược dòng, đan xen hôm nay – ngày trước khiến người đọc có thêm nhiều suy nghĩ. Nhân vật Lê Vân trong truyện ngắn Gương … tống tiền giờ đây bệ rạc, chán đời, phung phí tuổi trẻ khi “làm bạn với ả phù dung”, đến nỗi “từ một thiếu niên có tương lai tốt đẹp” nay đã thành “kẻ bị xã hội khinh bỉ…, ma dại thân tàn”. Tất cả cũng chỉ vì nỗi thất vọng trong tình yêu với Loan. Vì tình yêu, Lê Vân điên đảo cuộc đời, phá nát tương lai. Và cũng bất ngờ thay, chính nhờ tình yêu cay đắng ngày xưa ấy Vân kiếm chác được ít tiền duy trì tháng ngày “sống mòn” của mình. Khởi đầu nhân vật này khiến người đọc có cảm xúc giận dữ nhưng vẫn còn chút xót xa nhưng càng về sau, qua cách trần thuật giàu kịch tính của tác giả, ta chỉ còn một cảm giác khinh bỉ tận cùng dành cho Lê Vân. Chống nạng lên đường và Tội người cô cũng trình bày cho ta thảm cảnh hiện tại của hai nhân vật Hai Xuân và người cô ông chủ nhà. Hai Xuân chịu cảnh tật nguyền, phải sống nhờ vào anh và hằng ngày chứng kiến cảnh vì một người làm nuôi cả nhà, vì thiếu cơm mà anh của Xuân “mắng bố, gắt mẹ, chửi nồi, chửi rế, chửi đôi guốc đang đi mà quai đứt, chửi xó nhà lắm muỗi vo vo...”. Tất cả cũng chỉ vì một buổi kéo xe Hai Xuân đã bị xe hơi chẹt
  11. phải đến nỗi đành cưa chân thành tật nguyền. Cả một số phận con người rẽ sang bước ngoặt tăm tối trong một tích tắc oan trái của quá khứ. Bên cạnh đó, tác giả còn để cho nhân vật hồi tưởng lại ngày xưa nghèo khổ mà vui vẻ khi sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc được trở về nhà, “đến chĩnh nước ngửa cổ “tu” một hơi nước lã thật dài xong thở đánh “hà à à”một cái rất khoái chí rồi cầm mảnh mo vừa quạt vừa bước vào nhà ngơ ngác nhìn xem bố mẹ đã thổi chín cơm chưa, để liệu dọn mâm bát”, một ngày xưa thân ái với cảnh “mâm cơm dọn xong, nó chỉ còn chờ anh Cả cho nó đi làm về là cùng ngồi vào, tuy bữa nào cũng chẳng hơn gì bữa nào, chỉ rặt cà, tương, dưa muối mà thằng Xuân ăn thấy rất ngon”. Thế nhưng quá khứ ấy chỉ là thoáng chốc còn hiện tại đau đớn khố khổ khốn nạn mới kéo dài chưa biết đến đâu. Khởi đầu với hiện thực phũ phàng, cay đắng rồi sống lại với quá khứ giản dị mà tươi đẹp, câu chuyện đã khiến chúng ta thêm ngậm ngùi buồn đau cho số phận con người. Mở đầu truyện ngắn Tội người cô là hình ảnh một “bà già chít khăn vuông, chống gậy” đang “lom khom bước lên thềm gạch, rón rén đến gần cửa sổ” mà trông vào khung cảnh tiệc tùng bên trong “tòa nhà tây hai tầng, một tòa nhà có vẻ kiêu hãnh vô cùng”. Từ sự ngạc nhiên của nhân vật “tôi”, người bạn đã kể lại nguyên nhân vì sao bà già - “chính là cô ruột của chủ nhân tòa nhà ấy” – lại phải chịu cảnh cô đơn, hắt hủi. Ngược về quá khứ, tác giả cho ta biết được bà cô ấy là một người phụ nữ quá lứa lỡ thì, ở vậy và sống cùng cháu ruột, đã từng rất thương và quan tâm đến cháu, hết lòng vì cháu mình. Bà cô “vẫn đi trông nom bà vợ ông cháu mình những khi đi xa, trẩy hội” và cũng chính bà “trong cái đêm cháu dâu bất thình lình trở dạ,
  12. trời mưa như bão” nhưng “vẫn khoác áo tơi ton tả ra đi, vượt mấy cánh đồng để tìm bà đỡ”. Thế nhưng cũng vì quá thương đứa cháu bé, bà đã ẵm cháu đi chơi cả buổi chiều, lại cho cháu ăn kẹo bột đến nỗi “thằng bé đến đêm thấy trở, thấy nôn rồi khóc lên ngằn ngặt”, “phải nhịn bú mãi đến chiều hôm sau”. Và sau này vì “bà chiều cháu quá một hôm đưa dao cho cháu để cháu cứa đứt cả tay” nên đã bị cha mẹ nó đuổi ra khỏi nhà. Rồi từ đó người cô tội nghiệp ấy “phơ mái tóc hoa râm ra giữa nắng, ngồi nhìn chồng bánh đa, mấy củ khoai, mấy quả chuối bày trên cái mẹt một cách buồn rầu, mỗi khi thấy tiếng dép của khách qua đường lại ngước mắt lên nhìn một cách đau đớn như muốn van lạy khách mua cho…” nhưng “vẫn chẳng rứt tình quên được cháu, mỗi khi thấy bố mẹ nó chè chén vì nó là bà lại chống gậy tìm đến, lần nào cũng chỉ đứng ngoài cửa kính ghé mắt nhìn vào”. Cũng trong câu chuyện quá khứ ấy, chúng ta biết bố mẹ đứa trẻ tuy giàu có nhưng hiếm muộn, đã bốn năm trời “mang hương hoa lễ khắp các chùa cầu tự” để có được mụn con nên thương quí nó cũng là hợp lí. Nhưng thương yêu con đến độ để bảo vệ nó mà đành đoạn đuổi cả cô ruột ra đường tự mưu sinh thì thật vô lí. Tình thương với tình thương không thể có sự mâu thuẫn, nhưng nếu một bên là yêu thương hết mình không nghĩ ngợi còn bên kia lẫn trong tình thương là toan tính, lạnh lùng, tàn nhẫn, vong ân thì quả thật không thể nào tồn tại chung được với nhau. Mượn lời người bạn để hiểu được một quá khứ lắm nỗi và một cuộc đời đáng thương, truyện ngắn này thật đúng với nhan đề của nó : thật tội cho người cô; chỉ vì cái “tội” yêu thương đến dại khờ, hi sinh đến mê muội mà phải chịu cảnh cô độc, ghẻ lạnh đớn đau.
  13. Cái hàng rào - một truyện ngắn được cho là một đoạn của tiểu thuyết Bởi không duyên kiếp (tức Dứt tình) - cũng được thuật lại với kết cấu đảo trình tự thời gian. Đoạn đối thoại khá gay cấn giữa hai nhân vật - Phong và Tiết Hằng - ở đầu tác phẩm đã dần chuyển sang chuyện quá khứ để giúp ta hình dung ra phần nào cơ sự của ngày hôm nay. Chuyện của ba năm về trước, hai người yêu nhau nhưng đã không đến được với nhau vì mẹ Phong “kịp lúc đoạn tang” đã cải giá với cha của Tiết Hằng. Sự tình ai oán, éo le này khiến Phong xót xa nghĩ rằng “sự thành hôn, cuộc gắn bó giữa mình với Hằng sẽ là một bài văn khôi hài cho miệng thế”. Vì vậy, anh đã rứt áo ra đi, bỏ lại Tiết Hằng “đứng rũ rượi, dựa vào một cột đèn ở ga”. Để rồi sau đó, Tiết Hằng lấy một người chồng theo sự sắp đặt của cha và chịu cảnh góa bụa chỉ sau ít năm ngắn ngủi. Về phần Phong, anh “lên thượng du, sống cái đời mây rừng gió núi, coi sóc việc thầu đốn rừng lim của cha để lại cho” và sống trong nỗi “lo buồn, áy náy, hối hận” trước cảnh đời của người tình cũ. Quá trình nhân vật Phong từ “một cậu học trò yếu ớt nhưng có một trái tim bọc sắt” hóa thành “cái thân thể vạm vỡ lẩn trong một bộ quần áo đi săn mũ da cáo, giầy ống, áo tơi nhưng có trái tim đa cảm của đàn bà” đã được tác giả diễn tả sinh động, khéo léo, chân thực qua cách trần thuật đan xen, lồng ghép quá khứ và thực tại, nhưng chiếm phần lớn vẫn là chuyện của quá khứ. Và cuộc đối thoại gay cấn đầu tác phẩm đã có một điểm dừng, dù xót xa, bất ngờ. Dĩ nhiên để đi đến được kết thúc này phải trải qua một quá trình dẫn dắt sống động ngược dòng thời gian để lí giải cho hiện tại, đan xen bao nỗi niềm trong quá khứ để thể hiện rõ sự đời lắm khi ngang trái.
  14. Những truyện ngắn trên là minh chứng tiêu biểu cho lối trần thuật đảo trình tự thời gian của Vũ Trọng Phụng. Xét ở khía cạnh kết cấu trần thuật, cách kể chuyện này ít nhiều cũng đã hình thành nên một nét đặc sắc cho truyện ngắn của tác giả. 1.1.2 Kết cấu trần thuật dạng “truyện lồng trong truyện” : Trong bài viết “Sự di chuyển của kết cấu truyện lồng truyện và kiểu truyện khung trong văn học từ Ấn Độ sang Đông Nam Á” (trích từ trang web www.khoavanhocngonngu.edu.vn), tác giả Nguyễn Ngọc Bảo Trâm cho ta biết được kết cấu truyện lồng truyện ở góc độ một thủ pháp văn chương đã xuất hiện rất sớm trong lịch sử văn học thế giới. Nói một cách đơn giản đây là thủ pháp để lồng ghép một câu chuyện độc lập (có liên quan hoặc không về mặt nội dung) vào tác phẩm chính trong quá trình diễn tiến của tác phẩm. Có thể thấy biểu hiện xa xưa của nó trong sử thi Odyssey của Hy Lạp (thế kỷ VIII trước công nguyên) khi người anh hùng Ulysses tự kể lại những chuyện phiêu lưu của mình trong bữa tiệc. Từ thời cổ đại, kết cấu truyện lồng truyện đã được văn học Ấn Độ sử dụng triệt để để tạo nên hai thiên sử thi đồ sộ nhất trong lịch sử nhân loại là Mahabharata (thế kỷ V trước công nguyên) và Ramayana (khoảng thế kỷ IV-III trước công nguyên). Với truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX, kết cấu truyện lồng trong truyện là một lối kết cấu mới mẻ, thể hiện việc chịu ảnh hưởng phương Tây rõ nét, mà tác phẩm đầu tiên cần kể tới là truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện Thầy Lazarô Phiền có tới hai chuyện: chuyện thứ nhất là của nhân vật “tôi” kể cho bạn đọc nghe về cuộc gặp gỡ
  15. giữa bản thân và thầy Phiền, chuyện thứ hai là chính thầy Phiền đã kể lại chuyện đời mình cho nhân vật “tôi” nghe từ việc thầy đã lấy được một người vợ đáng yêu như thế nào, thầy đã nghi ngờ và tìm cách giết vợ ra sao, và những ăn năn dằn vặt của thầy …). Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những tác phẩm có kết cấu truyện lồng trong truyện như vừa nêu trên là những câu chuyện trong một truyện không tách rời mà luôn được đan cài vào nhau rất linh hoạt, tự nhiên, cho người đọc những ấn tượng về sự chân thực của chuyện được kể, kéo họ lại gần với thế giới nghệ thuật của tác phẩm hơn, đồng thời tạo sự sinh động cho truyện. Mặt khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự luân phiên điểm nhìn, góp phần làm cho nhân vật (nhất là thế giới nội tâm của nó) được xem xét dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên hơn. Đó chính là thế mạnh của kết cấu truyện lồng trong truyện, góp phần tạo dựng cho truyện một nghệ thuật trần thuật hiện đại. Như đã nêu trên, kết cấu “truyện lồng trong chuyện” không phải một dạng kết cấu mới lạ đối với loại hình tự sự. Và kết cấu này đã đi vào truyện ngắn Vũ Trọng Phụng với những giá trị riêng của nó. Lỡ lời, Cái ghen đàn ông, Một cái chết, Lấy vợ xấu, Sống để mà lo, Bà lão lòa, … là những truyện ngắn được kết cấu theo dạng thức như vậy. Với trường hợp Cái ghen đàn ông, Một cái chết và Lấy vợ xấu, tác giả thường lồng một câu chuyện khác vào cuộc trò chuyện giữa các nhân vật. Xen vào cuộc gặp gỡ giữa nhân vật “tôi” và người bạn trong truyện ngắn Một
  16. cái chết là cảnh một ông lão ăn mày “vừa lòa vừa cụt chân, người quắt như con mắm nướng, áo tơi, nón lá chống nạng lê vào” xin bố thí. Trong khi nhân vật “tôi” gắt ầm lên đuổi đi thì người bạn đã “đứng dậy, ra ân cần để vào tay ông lão một xu” rồi kể lại một chuyện “đuổi ăn mày … đã được mục kích” biến thành tấn kịch rất đỗi bi thương. Đó là chuyện Thằng Hợi, con thầy cai lấy thuế chợ, chủ nơi trọ học của người bạn tác giả. Qua câu chuyện xót xa với hai cái chết thương tâm : một của người ăn mày bị cha Hợi xua đuổi, một của Hợi như một sự day dứt – tác giả đã đưa ra một bài học về lẽ đời thật sâu sắc. Từ chuyện đuổi ăn mày, “những chuyện rất thường”, “tưởng chẳng có chuyện gì bình thường hơn thế nữa”, Vũ Trọng Phụng đã thể hiện rõ nét tấm lòng thương cảm sâu sắc của mình. Trong truyện ngắn Cái ghen đàn ông, lẫn trong câu chuyện giữa Giao Đài, Lê Văn Thư và mấy người bạn là chuyện đời bi đát của vợ chồng giáo Hiển ; và trong Lấy vợ xấu thì giữa lúc chuyện trò giữa hai người bạn cũ – nhân vật “tôi” và anh Doãn – anh Doãn đã kể về mối duyên giữa anh và vợ mình, “một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp giai”. Chuyện nhà anh giáo Hiển là một minh chứng đầy thuyết phục cho lí lẽ mà nhân vật Giao Đài đưa ra : “Người ta chẳng nên thật thà, nhất là những khi người ta yêu nhau” vì tác dụng của thật thà với hạnh phúc khi yêu là “phá hoại chứ chẳng kiến thiết bao giờ”. Sự thật thà quá mức đã giết chết vợ giáo Hiển trong xót xa, tủi cực. Lòng ghen tuông mù quáng, vô lí của giáo Hiển đã lên đến cực điểm đến nỗi quên hết cả nghĩa vợ chồng, thậm chí quên cả tình người vốn xem trọng “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tác giả đã mượn lời
  17. nhân vật Giao Đài mà nói rằng : “Cái ghen của anh Hiển có một thứ thế lực ở tâm giới anh đến nỗi khiến anh hóa ra tầm thường, hóa ra đê hèn, hóa ra "bất thành nhân dạng"”. Nêu ra một trường hợp lạ kì, nghịch dị để làm rõ cho một ý nghĩa rất vô lý nhưng cũng không phải không có lý, tác giả khiến người đọc không khỏi băn khoăn dù đã đọc xong câu chuyện. Phần nhân vật Doãn, anh kể lại chuyện gặp gỡ của vợ chồng mình cho người bạn nghe nhằm minh họa cho quan niệm : vợ chồng là duyên số. Gặp nhau trên một chuyến tàu từ Lào Cai về Hà Nội cách đây hai năm, anh Doãn và vợ mình đến với nhau từ một ý nghĩ vẩn vơ của anh. Và thế là anh đã chuyện trò cùng người phụ nữ ấy, rồi dần dần đến với nhau, gắn bó vì cô ấy đã mang trong bụng đứa con của anh và đã rất thành thực khiến anh phải mủi lòng, đành dẹp mộng “lấy được cô gái đẹp nhất Hà Thành” để sánh duyên cùng “cô gái xấu xí nhất Bắc Kì”. Câu chuyện về anh Doãn nghe cũng vô lí, khó tin như chuyện vợ chồng anh giáo Hiển ở trên nhưng lại xảy ra như một dẫn chứng sinh động cho những điều phi lí khác khó cắt nghĩa đang mặc nhiên xuất hiện trong cuộc đời. Cũng không thể không nhắc đến truyện ngắn Bà lão lòa, một trong những truyện ngắn đầu tay xuất sắc của Vũ Trọng Phụng. Trong diễn tiến cuộc đời cơ cực của bà lão tội nghiệp chịu cảnh tật nguyền sống nhờ nhục nhã bỗng xuất hiện ba câu chuyện nhỏ về những hành động nhân đức của một người phụ nữ : thấy người ăn mày lụ khụ đến xin ăn bị mấy con chó “nhảy xổ ra cắn xa xả”, bà đã “quát thằng nhỏ ra mắng chó, dắt ông ăn mày vào thết một lưng cơm”; trước gia cảnh bác nhiêu B. vợ chết, nhà bị hỏa hoạn, đàn con nheo nhóc, đói kém, bà đã “cởi hầu bao, lấy ra một cuộn giấy bạc” đem
  18. cho; và cuối cùng trước cảnh đau xót của một người phụ nữ phải bán con để mong cứu chồng bệnh liệt giường liệt chiếu đã hơn nửa tháng, bà cũng đã cho năm đồng về lo thuốc men cho chồng mà không phải bán con. Đến cuối cùng Vũ Trọng Phụng mới cho ta biết hóa ra đó chính là bà lão lòa tội nghiệp bây giờ. Ba câu chuyện nhỏ về sự phúc đức để góp phần làm rõ một nghịch lí : bà đã từng rất tử tế với người không ruột thịt thân thích, bà đã từng động lòng trắc ẩn trước bao số phận vật vờ tận đáy cuộc đời; song giờ đây, người thân thích ruột rà không mảy may động lòng xót xa cho thân già tật nguyền cô độc của bà, nhẫn tâm tàn tệ với bà hơn cả với người dưng nước lã, đay nghiến chà đạp lên thân phận sống nhờ đầy nghịch cảnh bà đang phải chịu. Trần thuật với kết cấu “truyện lồng trong truyện”, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên sự đối lập gay gắt giữa quá khứ và thực tại, giữa thiện tâm và ác tâm, giữa vị tha và ích kỉ để phê phán sự bội bạc, bất nhân của người đời và tố cáo cái nghèo làm nhân cách con người dần thảm hại như nó. Mỗi một truyện ngắn có kết cấu “truyện lồng trong truyện” dường như đều mang trong đó một nghĩa lí nào đó mà tác giả muốn đem lại cho người đọc. Lồng ghép những mảnh đời vào câu chuyện, tác giả không chỉ làm đa dạng hóa kết cấu trần thuật mà phần nào đó đã nêu bật được tình cảm, thái độ của ông dành cho dành cho cuộc đời, cho kiếp người. Có cảm giác đọc truyện ngắn Vũ Trọng Phụng như đến với một quyển sách với nhiều chương, mỗi một chương lần giở ra lại thấy hiện lên một cảnh đời, một câu chuyện khác nhau. Điều ấy khiến quyển sách chưa bao giờ nhàm chán, luôn mới lạ, hấp dẫn, kích thích người đọc khám phá tiếp tục để hiểu thêm bao nhiêu trang đời đã nén chặt, đã được lồng ghép trong quyển sách số phận ấy. Lại có một hình
  19. dung khác về những câu chuyện trên, nó cứ như những bông hoa đang chớm nở. Ta phải bóc dần từng cánh từng cánh để thấy được cái nhụy bên trong – một cái nhụy mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như một hạt giống lành để lại mùa sau. 1.1.3 Kết cấu trần thuật theo diễn biến tâm lí của nhân vật : Có thể nói đây là kiểu kết cấu mới mẻ nhất trong văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX. Đó là kiểu kết cấu của những tác phẩm có cốt truyện tâm lí nhằm miêu tả những diễn biến tinh vi, phức tạp của đời sống nội tâm con người. Trong những truyện này, chỉ có một vài sự việc, còn lại là cảm giác, suy nghĩ của nhân vật với những hồi ức, liên tưởng và độc thọai nội tâm. Nếu có sự kiện thì sự kiện chỉ đóng vai trò khơi gợi cho dòng chảy tâm lý. Tiêu biểu cho truyện có kết cấu tâm lý này là những truyện của các tác giả thuộc dòng truyện ngắn trữ tình như Thạch Lam, Thanh Tịnh và sau này được tiếp nối, phát huy, thành công rực rỡ với Nam Cao. Hẳn nhiên mạch truyện được triển khai theo tâm lý nhân vật nhưng vẫn phải bám sát vào các sự kiện, dựa vào sự kiện. Do vậy, để có một truyện hay, người viết không chỉ miêu tả tâm lý mà là phân tích tâm lý, phân tích gắn với với sự kiện, vì sao chỉ có sự kiện ấy thì tâm lý nhân vật mới có biểu hiện như vậy. Dẫu không nhiều nhưng một số truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng đã được cấu trúc theo chính diễn biến tâm lý của nhân vật. Rửa hờn, Nhân quả, Duyên không đi lại, Chống nạng lên đường, … là những truyện ngắn như vậy.
  20. Với Chống nạng lên đường, tác giả đã cấu trúc truyện ngắn này phần lớn theo diễn biến tâm lý nhân vật Hai Xuân. Câu chuyện bắt đầu với nỗi buồn, dần chuyển sang hoài niệm xa xôi về một quá khứ đẹp tươi, rồi ai oán khi nghĩ đến cảnh nhà túng thiếu và phận ăn nhờ của mình. Dần dần tác giả mở rộng ra những cảnh mà Hai Xuân đã trông thấy ở trên cầu, bao nhiêu cảnh tượng yên bình mở ra nhưng thực chất đó là cố nhìn, cố quên để qua cơn đói đang cồn cào trong người. Những ý nghĩ tốt đẹp, rồi hài hước, thoáng qua để trở về với nỗi cay đáng, xót xa cho số phận. Sau đó Hai Xuân nhớ về những kí ức đau khổ của nghề kéo xe tay phải chiến đấu hằng ngày cùng “những tia nắng mặt trời dữ dội chiếu xuống đốt lưng, đốt gáy”, “những trận mưa gió phũ phàng ném những hạt nước nặng nề thẳng vào mặt” hoặc “thổi tung cát bụi lên làm tối mắt”, chiến đấu với cả sự cạnh tranh không cân sức với những chiếc xe cơ khí hóa đang lăm le cướp cơm của mình. Tận cùng trong dòng hồi ức ấy là bao ai oán, ngỡ ngàng, uất ức với bước ngoặt cuộc đời : ngày bị tật nguyền. Những điều đó đưa Hai Xuân trở lại với nỗi buồn ghê gớm, buồn vì nỗi mặc cảm ; hổ thẹn khi cụt chân, buồn đến độ muốn chết đi ngay được. Và rồi, nhân vật ngủ quên đi trước khi bị đánh thức dậy bởi tiếng đoàn tàu. Và khi tỉnh dậy, Hai Xuân sợ chết, lần lần tìm về nhà nhưng lại càng buồn hơn khi chứng kiến cảnh nhà. Trước sự tàn nhẫn lạnh lùng và hỗn láo của anh mình, Hai Xuân đã thấy giận sôi lên nhưng rồi vì sợ, vì thương bố mẹ nên đành ra đi, dẫu rằng không biết đi về đâu, dẫu rằng “đau lòng quá đỗi”. Chịu trận ngoài đường qua cơn mưa đêm xối xả, anh trở về nhà và chọn cách ra đi để cha mẹ đỡ tủi nhục, tê tái. Cả một quá trình tâm lý của Hai Xuân trong khoảng thời gian ngắn ngủi từ chiều hôm trước đến sáng hôm sau được diễn tả sinh động, chân thực và đầy thương tâm. Câu chuyện
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0