Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975
lượt xem 12
download
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 được thực hiện với mục tiêu nhằm đi sâu vào tìm hiểu những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 như cốt truyện, nhân vật, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ,... Đồng thời, tác giả hy vọng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu văn chương nghệ thuật trong thời đại mới. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975
- TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 TRẦN THỊ THÚY AN Hậu Giang, ngày 15 tháng 05 năm 2013
- TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC VOÕ TRÖÔØNG TOAÛN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC CÁCH TÂN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 1975 Giáo viên hướng dẫn : Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Mỹ Nhung Trần Thị Thúy An Hậu Giang, ngày 15 tháng 05 năm 201
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn một cách hoàn chỉnh, đó không chỉ là công sức của chính tôi mà đó còn là sự nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ của thầy cô, gia đình, b ạn bè trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, quý thầy cô trong Khoa Khoa học Cơ bản và thầy cô ở các phòng ban khác, cũng như quý th ầy cô thỉnh giảng đã t ạo điều kiện thuận lợi, tận tình giảng dạy tôi trong suốt bốn năm qua. Với những kiến thức có được đó không chỉ giúp tôi hoàn thành luận văn mà còn là hành trang v ững chắc để tôi bước vào đời. Trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn tôi đã nhận được sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình từ Th.s Nguyễn Thị Mỹ Nhung. Một lần nữa tôi xin gởi lời biết ơn chân thành, sâu sắc đến cô. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình. Nơi đã sinh thành, nuôi dưỡng và tạo mọi điều kiện vật chất, tinh thần để giúp tôi trong quá trình nghiên cứu. Cảm ơn bạn bè đã h ỗ trợ, ủng hộ và động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Cuối cùng, tôi xin chúc thầy cô, gia đình, bạn bè thật nhiều sức khỏe. Sinh viên thực hiện (ký và ghi rõ họ tên) Trần Thị Thúy An
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đề tài này là do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa học nào. Sinh viên thực hiện (ký và ghi rõ họ tên) Trần Thị Thúy An
- MỤC LỤC TRANG MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 1 3. Mục đích, yêu cầu ................................................................................................. 3 4. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 4 5. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 4 Chương I : MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội ....................................................................................... 5 1.2. Vài nét về truyện ngắn sau 1975 ........................................................................ 8 1.2.1 Diện mạo của truyện ngắn .................................................................... 8 1.2.2. Thành tựu của truyện ngắn ................................................................. 14 1.3. Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn ..................................................................... 15 Chương II : NHỮNG ĐỔI MỚI Ở PHƯƠNG DIỆN CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT 2.1. Cốt truyện ......................................................................................................... 19 2.1.1. Cốt truyện đang xen nhiều mạch truyện ……......................................20 2.1.2. Cốt truyện có cấu trúc lỏng lẻo ………..……......................................25 2.2.3. Cốt truyện giả thể loại ....................................................................... 29 2.2. Nhân vật ........................................................................................................... 32 2.2.1. Nhân vật tự nhận thức ...................................................................... 34 2.2.2. Nhân vật cô đơn, lạc lõng ................................................................. 39 2.2.3. Nhân vật tìm kiếm ............................................................................ 43 Chương III : NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG NGHỆ THUẬT TRẦN THUẬT, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ 3.1. Điểm nhìn trần thuật ...................................................................................... 47 3.1.1. Trần thuật ngôi thứ nhất .................................................................... 48 3.1.2. Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm .................................................. 52 3.1.3 Đa dạng trong điểm nhìn trần thuật .................................................... 56 3.2. Giọng điệu ..................................................................................................... 63 3.2.1. Giọng điệu hài hước .......................................................................... 65 3.2.2. Giọng điệu triết lý .............................................................................. 68 3.3. Ngôn ngữ ........................................................................................................ 72 3.3.1. Ngôn ngữ đời thường ........................................................................ 73 3.3.2. Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin triết luận ....................... 76 3.3.3 Dấu ấn vùng miền ............................................................................... 80 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 88
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Sau Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, lịch sử Việt Nam đã bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đất nước độc lập, thống nhất. Dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, xây dựng cuộc sống công bằng, dân chủ, ấm no, hạnh phúc. Đất nước ta phải vượt qua nhiều khó khăn và thử thách để đứng vững và tạo được những biến đổi to lớn, toàn diện, sâu sắc, đặc biệt từ khi thực hiện công cuộc đổi mới vào năm 1986. Trong công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội Đảng lần thứ VI ( 12/1986) thì đổi mới văn học cũng là một yêu cầu cấp thiết. Dưới sự lãnh đạo kịp thời và đúng đắn của Đảng, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước và nhân đạo, nền văn học Cách mạng đã từng bước chuyển mình để phù hợp với những điều kiện và quy luật sáng tạo mới hầu đáp ứng thỏa đáng nhất nhu cầu bức thiết của đời sống tâm hồn dân tộc trong giai đoạn mới. Là thể loại năng động – truyện ngắn, với sự đóng góp không nhỏ cả về số lượng lẫn chất lượng đã b ắt kịp những chuyển biến của đời sống hôm nay. Truyện ngắn gần như đã độc chiếm toàn bộ văn đàn, hằng ngày trên các báo và các tạp chí có trên dưới hai mươi truyện ngắn được in. Thực tế ấy đã kích thích mạnh đến việc sáng tác, phê bình - lý luận về truyện ngắn những năm gần đây. Nhiều cuộc thi sáng tác truyện ngắn được khởi xướng. Nhiều cuộc hội thảo đã đư ợc mở ra và nhiều ý kiến có khi trái ngược nhau cũng đã đư ợc trình bày. Đi ều này chứng tỏ, truyện ngắn đang là thể loại được các nhà văn quan tâm, nỗ lực cách tân bậc nhất. Thể loại này đã có những thay đổi quan trọng không chỉ ở nội dung mà còn ở phương diện nghệ thuật. Chính vì điều đó đã giúp tôi lựa chọn đề tài Những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Tìm hiểu truyện ngắn của các nhà văn thời đổi mới trong tiến trình phát triển của văn học, rút ra những cách tân nghệ thuật của truyện ngắn là điều cần thiết nhằm góp phần tìm hiểu văn học nói chung và truyện ngắn Việt Nam đương đại nói riêng. Và đây cũng là dịp để tôi trau dồi, cũng c ố hơn về kiến thức, tiện cho việc nghiên cứu chuyên sâu sau này. 2. Lịch sử vấn đề Những năm gần đây, các công trình nghiên cứu, các bài viết về những đổi mới nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975 nói chung và trong truyện ngắn Việt Nam thời kỳ đổi mới nói riêng khá phong phú nhưng chưa thật sự bao quát. Về hình thức nghệ thuật của truyện ngắn cũng có rất nhiều ý kiến. Tuy nhiên, mỗi ý kiến bước đầu chỉ đưa ra sự 1 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 đánh giá về một hay một vài phương diện nghệ thuật. Mặc dù vậy, có thể dẫn ra những công trình nghiên cứu những bài viết tiêu biểu bước đầu đề cập, khơi gợi đến vấn đề này: Tác giả Bích Thu trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” (Tạp chí Văn học tháng 9 - 1996) cho rằng: “Trong một thời gian không dài truyện ngắn đã làm được nhiều vấn đề mà tiểu thuyết chưa kịp làm, đã tạo ra nhiều phong cách sáng tạo có giọng điệu riêng. Xét trong hệ thống chung của các loại hình văn xuôi, nghệ thuật truyện ngắn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, trong cách nhìn nghệ thuật về con người và trong sáng tạo ngôn từ”. Theo tác giả, “truyện ngắn có xu hướng tự nới mở, đa dạng hơn trong cách thức diễn đạt… Có sự tác động, hoà trộn giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ người kể truyện”. Lý giải về những thay đổi này, theo tác giả là “do những biến động khác nhau trong đời sống xã hội, yêu cầu của thời đại, tính chất phức tạp của cuộc sống, sự đa dạng của tính cách con người, thị hiếu thẩm mỹ của công chúng đòi hỏi nhà văn phải tìm tòi những phương thức thể hiện nghệ thuật tương ứng với một thời kỳ đang chuyển biến”[48,tr.32-36]. Chính những nhu cầu mới của con người khiến các thể loại của văn học có sự vận động và phát triển mà trong đó truyện ngắn có vai trò quan trọng, là loại hình nghệ thuật đáp ứng nhanh những chuyển biến của văn học từ thời chiến sang thời bình khi quy luật chiến tranh đã hết hiệu lực. Trong bài “Văn học Việt Nam sau 1975 Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy” (Nxb Giáo dục. 2006), khi đi sâu vào nghệ thuật trần thuật của văn xuôi nói chung truyện ngắn nói riêng tác giả Nguyễn Văn Long khẳng định: “Từ bỏ sự áp đặt một quan điểm được cho là đúng đắn nhất vì đó là quan điểm của cộng đồng, ngày nay người viết có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau. Để làm được điều đó, cách tốt nhất là chuyển dịch điểm nhìn vào nhiều nhân vật để mỗi nhân vật có thể tự nói lên quan điểm, thái độ của mình và để cho các ý thức cùng có quyền phát ngôn, cùng đối thoại".. Bên cạnh đó “sự thay đổi vai kể, cách đưa truyện lồng trong truyện, sự đảo ngược và xen kẽ các tình tiết, sự việc không theo một thời gian duy nhấ, tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra được hiệu quả nghệ thuật mới”.[29, tr.20]. Tất cả những thủ pháp ấy đều nhằm tạo ra một hiệu quả nghệ thuật mới để đáp ứng xu thế của thời đại. Đồng thời trong bài viết này tác giả Nguyễn Văn Long cũng đề cập đến việc đổi mới ngôn ngữ trong văn xuôi hiện đại nói chung và truyện ngắn nói riêng. Theo ông: “Khi văn 2 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 xuôi tiếp cận với đời sống ở cự li gần chứ không phải qua một khoảng cách sử thi tuyệt đối, với thái độ thân mật suồng sã chứ không phải tôn kính, thì hệ lời phải thay đổi, từ thứ ngôn ngữ trang trọng, chuẩn mực, chuyển sang thứ ngôn ngữ đời thường, đậm tính khẩu ngữ, thông tục”[29,tr.22] Tác giả Nguyễn Thị Minh Nguyệt với “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985” (luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, 2009) đã ch ỉ ra rõ những nét mới trong nghệ thuật truyện ngắn Việt Nam sau 1975. Theo tác giả: “Truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 ngày càng xa dần lối kể lể dài dòng mà cô đúc hơn trong phương thức biểu hiện, vai trò của cốt truyện chặt chẽ gây cấn có xu hướng nhường chỗ cho những cốt truyện tâm lý… Truyện ngắn đang mở ra những con đường giao tiếp cởi mở hơn với độc giả. Nhà văn không phải là người độc tôn chân lý phán truyền mà tăng cường yếu tố đối thoại với người đọc, những sự phức hợp của giọng điệu.[40, tr. 113]. Tác giả Nguyễn Thị Bình trong Văn xuôi Việt Nam 1975-1995 Những đổi mới cơ bản (Nxb Giáo dục) nhận xét: “Quan sát đại thể, dường như mười năm đầu sau khi cuộc chiến tranh chống Mĩ kết thúc, văn xuôi nước ta mang giọng trần thuật chủ đạo là trầm tĩnh, khách quan. T ừ khoảng giữa thập kĩ tám mươi, n ỗi lên giọng phê phán, phân tích xã hội với sự phát triển ồ ạt của dòng văn học chống tiêu cực. Giọng điệu này chứa đựng nhiệt tình sôi nổi, nhu cầu đối thoại ráo riết về các vấn đề xã hội mà ý thức công dân vừa thức tỉnh theo tinh thần dân chủ đổi mới. Sau đó giọng phê phán trầm xuống, hòa đồng trong rất nhiều giọng khác. Giọng điệu văn xuôi mang nhiều khắc khoải, nhiều chiêm nghiệm, tự bạch và tự vấn về thế sự nhân sinh. Từ thập kỉ chín mươi, giọng giễu nhại và hoại nghi chiếm ưu thế” [9, tr.187]. Cũng trong bài viết này khi nói đến ngôn ngữ tác giả đã nh ận định: “Chưa bao giờ ngôn ngữ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt-thế sự đến thế. Chưa bao giờ trong văn chương (kể cả thơ, kịch, phim) những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần trụi, bụi bặn, dân dã xuất hiện nhiều đến thế”[9,tr.173] Bên cạnh các ý kiến trên là những bài viết đưa ra nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu về tình hình truyện ngắn cũng như văn xuôi Vi ệt Nam sau 1975, đặc biệt từ khi thực hiện công trình đổi mới (1986) trở lại đây. Những bài viết đáng chú ý gồm: “Các kiểu cấu trúc của truyện ngắn hôm nay” của tác giả Lê Thị Hường; “Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại” của Lê Huy Bắc; “Văn xuôi từ 1975 đến nay – Một 3 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 cái nhìn khái quát”; Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 1975 – khảo sát trên những nét lớn” của Nguyễn Thị Bình, …Qua những bài viết này, tác giả đã đưa ra nhiều nhận định về truyện ngắn cũng như v ề văn học. Nhìn chung các ý kiến đều thống nhất: văn học nghệ thuật nói chung và truyện ngắn Việt Nam thời đổi mới nói riêng đang có những nét đổi mới về nghệ thuật cũng như khuynh hư ớng sáng tác của các nhà văn. 3. Mục đích yêu cầu Đi sâu vào tìm hiểu những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 như cốt truyện, nhân vật, nghệ thuật trần thuật, giọng điệu, ngôn ngữ,…Tôi hy vọng góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu văn chương nghệ thuật trong thời đại mới. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tìm hiểu, khảo sát một số truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của tác giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Phan Thị Vàng Anh, Dương Thu Hương, Vũ Tú Nam,… 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp phân tích - tổng hợp Để thực hiện đề tài này tôi sử dung phương pháp phân tích tác phẩm, nhân vật, tình tiết cụ thể. Từ đó tổng hợp những đặc điểm nghệ thuật cũng như nh ững cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn thời kỳ đổi mới. 5.2 Phương pháp so sánh Với phương pháp này giúp tôi làm sáng tỏ những khác biệt về mặt nghệ thuật của truyện ngắn giai đoạn sau 1975 so với các truyện ngắn giai đoạn trước. 5.3 Phướng pháp hệ thống Ở luận văn này tôi sử dụng phương pháp hệ thống trong quá trình nghiên cứu để tạo sự logic chặt chẽ khoa học. 4 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Bối cảnh lịch sử, xã hội Năm 1975, với thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lịch sử lại sang trang: đất nước hoàn toàn thống nhất. Không còn nữa tiếng bom, tiếng súng, nhân dân cả nước khẩn trương bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống. Cả nước hào hứng bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Nhưng công cuộc kiến thiết đất nước ở thời bình lại nảy sinh nhiều thách thức, khó khăn: Đường lối lãnh đạo của Đảng thời kỳ này đã lộ rõ khá nhiều bất cập, chủ quan trong đường lối, chính sách và chỉ đạo thực hiện, cơ chế quản lý tập trung, bao cấp với bộ máy hành chính cồng kềnh trở thành lực cản đáng kể đối với sự phát triển của đất nước. Hậu quả là đất nước phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. Đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn: nhiều lao động chưa có việc làm; nhiều nhu cầu chính đáng, tối thiểu của nhân dân về mặt vật chất và văn hóa chưa được đảm bảo. Thêm vào đó, tình hình quốc tế vào những năm cuối thập niên 80 đã diễn biến ngày càng xấu đi, nhiều nước trong phe xã hội chủ nghĩa lâm vào tình tr ạng khủng hoảng trầm trọng rồi tan rã. Lợi dụng tình hình này, các thế lực thù địch quốc tế ra sức tiến hành cuộc phản kích nhằm triệt tiêu hệ thống xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Từ tháng 5/1975 đến 1977, tại biên giới phía Tây Nam tập đoàn Pôn Pốt – Iêng Xari đỗ bộ xâm lược nhiều vùng lãnh thổ nước ta từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Ở biên giới phía Bắc vào tháng 2/1975 Trung Quốc đã mở cuộc tấn công nước ta dọc theo biên giới từ Móng Cái đến Lai Châu. Tuy nhiên bằng ý chí quyết tâm giữ vững nền độc lập bảo vệ nước nhà quân dân ta đã đoàn kết chiến đấu buộc địch phải rút lui. Dù vẫn giữ vững hệ thống XHCN nhưng trước thực trạng lộng quyền, tham nhũng trong bộ máy nhà nước đã khi ến nhân dân giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Đúng như nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải: “Chiến tranh ồn ào, náo động mà lại có cái yên tĩnh c ủa nó. Hòa bình yên tĩnh, thanh bình mà l ại chứa chấp những sống ngầm, những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết trong nhà tù, trên trận địa trong chiến tranh mà lại chết trong ao tù trưởng giả khi cả nước đã giành đư ợc tự do và độc lập”. [40,tr.26] Trước thực trạng đó, Đảng đã dũng cảm đối diện với sự thật, đã phát huy cao độ ý chí quyết tâm tìm tòi, sáng tạo và đề ra những quyết sách, những giải pháp khắc phục hữu 5 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 hiệu. Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986) đã diễn ra trên tinh thần đó. Với tư tưởng chỉ đạo cốt lõi là “lấy dân làm gốc, giải phóng mọi năng lực sản xuất, khai thác và sử dụng hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước; phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hoạt động theo các quy luật khách quan; nhanh chống sửa đổi hoặc bãi bỏ những chủ trương, chính sách không phù hợp với lòng dân”[13, tr.3], một lần nữa Đảng lại chứng tỏ bản lĩnh chính trị và sứ mạng lịch sử trọng đại đối với đất nước, dân tộc. Từng bước, uyển chuyển khéo léo mà kiên định chắc chắn, Đảng đã lãnh đạo thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện, giữ vững định hướng XHCN, đã mang đ ến cho Cách mạng nước ta nguồn sức mạnh mới. Sau những năm vận hành theo cơ chế thị trường từ chỗ thiếu ăn, lương thực, thực phẩm đã đáp ứng được nhu cầu trong nước; hàng hóa trên thị trường đa dạng và phong phú, tiến bộ về mẫu mã và chất lượng; từ một nước đói nghèo, nước ta đã tr ở thành nước xuất khẩu gạo; kinh tế đối ngoại phát triển mạnh,… Đời sống vật chất ngày càng được nâng cao.Về cơ bản, nước ta đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng và từng bước vững chắc tiến lên theo định hướng XHCN để xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội Đảng lần thứ VI thì đổi mới văn học cũng là m ột yêu cầu cấp thiết. Tuy nhiên, cho đến khoảng những năm 1980 nền văn học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính của văn học thời chiến. Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn là đề tài cơ bản của nhiều sáng tác văn học, các sáng tác vẫn thể hiện nguyên tắc tư duy nghệ thuật của nền văn học sử thi. Trong khi đó, con người trong cuộc sống thời bình có những mối quan tâm, lo toan mới và tất yếu nảy sinh những nhu cầu giãi bày, thư ởng thức mới. Sự chảy theo quán tính này đã dẫn đến tình trạng mất độc giả. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng thừa nhận: càng viết, tay nghề càng cao, nhưng những trang văn của ông thì hình như càng ngày càng mất dần độc giả. Và thế là từ sau năm 1980 khuynh hướng sử thi có xu hướng co hẹp lại nhường chỗ cho khuynh hướng thế sự đời tư: đạo đức con người, những bức xúc của đời sống kinh tế và cả nhu cầu xem xét lại một số vấn đề của thời kì chiến tranh, nhu cầu hạnh phúc riêng tư của con người,… Đó là hướng nhìn sâu vào hiện thực. Sự đổi mới bắt đầu từ văn học dịch. Suốt thời gian dài, từ sau Cách mạng tháng Tám cho đến năm 1975, dân ta chỉ được tiếp xúc với nền văn học cổ điển châu Âu qua một số đỉnh cao từ thế kỉ XIX trở về trước. Văn học nước ngoài đương đại được giới 6 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 thiệu ở Việt Nam giới hạn ở sáng tác của các nước trong phe XHCN. Sau năm 1975, hoạt động dịch và giới thiệu nền văn học đương đại Âu – Mỹ diễn ra sôi nổi. Hầu hết những tác phẩm đạt giải Nobel, những tác phẩm ưu tú của các tác gia đương đại thuộc các trường phái nghệ thuật khác nhau như: tượng trưng , siêu thực, trường phái hiện đại,…đã được dịch ra tiếng Việt, và bày bán ở khắp các cửa hàng sách. Mảng văn học dịch này có tác động vô cùng lớn tới quá trình đổi mới văn học Việt Nam. Nó góp phần làm thay đổi thị hiếu nghệ thuật của đông đảo độc giả, đồng thời khiến cho các nhà văn càng nhận thức rõ hơn sự cần thiết của việc thay đổi cách viết. Có thể nói, trong khoảng thời gian đầu từ 1975 đến 1985 thì trong lĩnh vực sáng tác, khuynh hướng đổi mới chưa trở thành một phong trào rầm rộ. Bằng chứng cụ thể là chưa thấy xuất hiện những cây bút trẻ có khuynh hướng đổi mới. Những nhà văn tiên phong trong giai đoạn này có thể kể đến như Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Mạnh Tuấn,… Đến sau 1986 thì công cuộc cách tân trở nên sôi nổi. Trong mọi lĩnh vực nghệ thuật, từ văn học, hội họa, âm nhạc, cho đến sân khấu điện ảnh, sự đổi mới diễn ra vô cùng quyết liệt. Văn học dịch vẫn tiếp tục phát triển và phát huy tác dụng. Nhưng giờ đây, có thể nói thành tựu nỗi bật của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới được kết tinh ở truyện ngắn và tiểu thuyết. Sự tìm tòi đổi mới không chỉ ở các nhà văn đã khẳng định được chỗ đứng của mình trong lòng đọc giả như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường…., mà còn ở nhiều tác giả khác xuất hiện trong thời kỳ này, tiêu biểu là Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Lại Văn Long, Dương Hướng, Bảo Ninh,…. Cùng không ít tác phẩm xuất hiện đã tạo nên tiếng vang lớn trên văn đàn và gợi cho nguời đọc bao điều suy ngẫm như Phiên chợ Giát, Thời xa vắng, Tướng về hưu, Nỗi buồn chiến tranh…Các sáng tác này đã t ạo nên diện mạo vừa độc đáo, vừa đa dạng của văn học Việt Nam ở thời kỳ cách tân văn học. Ở chặng đường văn học này vẫn tiếp tục có những tên tuổi mới xuất hiện như Phạm Thị Hoài, Lê Thị Minh Khuê, Phan Thị Vàng Anh,….và còn nhiều tác phẩm đặt ra nhiều vấn đề từ cách nhìn, cách tư duy nghệ thuật mới mà người đọc rất quan tâm như Mảnh đất lắm người nhiều ma của nguyễn Khắc Trường, Bước qua lời nguyền của Tại Duy Anh, Bến không chồng của Dương Hướng, Kẻ sát nhân lương thiện của Lại Văn Long,… 7 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 1.2 Vài nét về truyện ngắn sau 1975 1.2.1 Diện mạo của truyện ngắn Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả dân tộc Việt Nam từng bước vượt lên những gian truân thử thách trên chặng đường lịch sử mới để làm nên những thay đổi toàn diện, sâu sắc, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc cùng chung tay đoàn kết xây đắp và bảo vệ cuộc đời mới, một tầm thế mới cho Tổ Quốc trên trường quốc tế. Bắt nguồn từ hiện thực đời sống đó, văn học Việt Nam từ sau 1975 mà tiêu biểu là thể loại truyện ngắn đã chuyển mình qua một bước ngoặt mới – chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về hiện thực, con người. Quan niệm về hiện thực thể hiện sự khám phá, sự lí giải, trình độ chiếm lĩnh hiện thực của nhà văn. Và mỗi người thường có một vùng đối tượng thẩm mĩ riêng mà tự nó đã ghi đậm dấu ấn của chủ thể sáng tác. Chiến tranh, đó là một hoàn cảnh đặc biệt. Đời sống của con người phải chịu đựng quy định nghiệt ngã của chiến tranh. Sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn không thể nằm ngoài quy luật đó. Phản ánh và phục vụ cuộc sống có thể xem đó là nguyên tắc sinh tử của văn học nghệ thuật.“Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi t ới của văn học” (Tố Hữu). Do ra đời trong hoàn cảnh chiến tranh, do yêu cầu của cách mạng, văn học cần phải nhanh chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu của đời sống chiến đấu, và để phục vụ tốt nhất cho việc khơi gợi lòng yêu nư ớc, kêu gọi đoàn kết chiến đấu, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, văn chương giai đoạn 1945- 1975 phản ánh hiện thực bằng cái nhìn đậm màu sắc của khuynh hướng sử thi và dào dạt cảm hứng lãnh mạn. Hiện thực được phản ánh trong tác phẩm chủ yếu là hiện thực chiến tranh. Đó là một hiện thực vận động xuôi chiều và nhìn chung rất lạc quan. Cảm quan của người nghệ sĩ thư ờng có khuynh hướng trừu tượng hóa, lướt qua những mảng tối, những gốc khuất để tập trung ghi nhận và thể hiện phần chói sáng, cao cả, hào hùng của đời sống chiến tranh. Hiện thực tàn khốc qua cái nhìn lãng mạn và ngòi bút có phần thi vị hóa, lý tư ởng hóa như được thăng hoa“ Đường ra trận mùa này đẹp lắm” ( Phạm Tiến Duật), “Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù” (Lê Mã Lương). Khi chiến tranh qua đi, cuộc sống trở lại bình thường, con người trở về với bao bộn bề lo toan trong cuộc mưu sinh thì lẽ dĩ nhiên văn chương cũng tr ở về với chức năng của 8 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 nó. Yêu cầu đặt ra cho các nhà văn ở vào chặng đường này là mô tả hiện thực như thế nào cho hợp lí trong điều kiện đất nước thống nhất và nhu cầu thẩm mĩ của độc giả. Văn học cần một quan niệm toàn diện, đa chiều hơn về hiện thực bởi hiện thực là một chỉnh thể vẹn toàn, bất khả phân chia. Luôn có sự đan xen đến bộn bề phức tạp của nhiều mặt đối lập: niềm vui và nỗi buồn, ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn, thiện và ác, tích cực và tiêu cực,…trong đời sống xã hội và trong mỗi con người. Sau 1975, các nhà văn không chỉ dừng lại ở phản ánh mà còn nghiền ngẫm hiện thực. Trước đây, hoàn cảnh chiến tranh không cho phép họ đi sâu vào từng ngỏ nghách tâm hồn con người để thể hiện trọn vẹn những cung bậc cảm xúc, khám phá tận cùng sự phức tạp, bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Giờ đây, do yêu cầu của thời đại, do nhu cầu tự thân của hoạt động sáng tạo, hiện thực đời sống đi vào văn chương vẹn nguyên sự đa chiều của nó, được soi sáng, cày xới cả những phần khuất lấp, mờ tối. Nhà văn Nguyễn Khải đã khẳng định: “tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngỗn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy rẫy những biến động bất ngờ - đấy mới thực là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ”[13, tr.7]. Biên độ hiện thực ngày càng được mở rộng. Cuộc sống được phản ánh vào trong tác phẩm không chỉ là phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn, vừa nhân hậu ấm áp vừa nhếch nhác lấm lem. Nhà văn có thể đi đến những miền khuất, những mặt trái của đời sống với chiều sâu tâm linh con người. Nhìn lại những sáng tác trong chiến tranh, chúng ta nhận thấy văn học đã cố gắng bám sát cuộc sống chiến đấu oanh liệt của dân tộc. Điểm mạnh trong những sáng tác của họ là giàu tính thời sự, có sức động viên và cổ vũ lớn lao. Tuy nhiên sau chiến tranh xuất hiện những yêu cầu mới, “yêu cầu tái hiện lịch sử phải gắn liền với đòi hỏi đi sâu vào số phận và diễn biến của con người; viết về cuộc chiến tranh hôm qua phải đặt trong tương quan với những yêu cầu của cuộc sống hôm nay” [28,tr.209]. Chiến tranh giờ đây đã đư ợc nhìn theo cái nhìn đa chi ều, toàn diện, trong đó có những phẩm chất anh hùng sáng ngời của người lính nhưng cũng có những kẻ hèn nhát, sợ chết, phản bội hay gắng gỏi leo lên những bậc thang địa vị, có cả những hi sinh mất mát, những tổn thất của quân ta, chứ không đơn thuần chỉ là những chiến thắng vẻ vang như trước đây. Mô tả chiến tranh thường song hành với việc miêu tả số phận, tích cách con người. Chiến tranh nhiều lúc chỉ là cái nền để nhân vật bộc lộ tính cách của mình. 9 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 Truyện ngắn Hai người trở lại trung đoàn của nhà văn Thái Bá Lợi đã th ể hiện rõ nét những vấn đề này. Trong truyện nhân vật Trí vừa là một con người dũng cảm, thông minh trong chiến trận nhưng lại là kẻ thủ đoạn trong tình yêu. Song khi có được tình yêu thì sẵn sàng rũ bỏ nó, rũ bỏ cả đứa con mình để leo lên địa vị trung đoàn trưởng. Bối cảnh chiến tranh ở truyện ngắn này không còn chiếm địa vị độc tôn mà luôn song hành, đan xen với hành trình đi tìm hạnh phúc của các nhân vật. Có khi bối cảnh chiến tranh chỉ là nền tảng để tác giả bộc lộ tư tưởng, nhận thức. Người đọc có thể thấy được điều này thông qua truyện ngắn Năm tháng đi qua của Nguyễn Thị Như Trang. Trong truyện nữ phóng viên Nguyên Bình khi đến với mặt trận Tây Nam, đến với những người lính dũng cảm mà giản dị, khiêm nhường lại giúp chị nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời. Là một phóng viên sống ở Hà nội, chị luôn khao khát được nếm trải nỗi vất vả của những chuyến đi thực tế, hoà cái riêng của mình vào ngàn mảnh đời chung để tạo nên những trang viết. Nhưng Văn, người yêu của chị, một nhà thơ trầm ngâm đi trên hè phố Hà Nội với những câu thơ viết về nỗi đau khổ, lại không đồng tình với suy nghĩ đó. Khi chứng kiến sự hi sinh của những người lính trong lòng chị cứ day dứt một câu hỏi Sống như thế tôi sẽ có ích gì cho cuộc đời này? Và hình ảnh của Văn bỗng nhoà đi rất nhanh. Như vậy, chiến tranh không chỉ là thước đo giá trị con người mà đồng thời cũng giúp con người nhận thức về cuộc sống và sống có ý nghĩa hơn. Song song với hiện thực chiến tranh là hiện thực về cuộc sống thường nhật sau cuộc chiến. Từ những năm 80 trở đi vùng hiện thưc thế sự, đời tư này chiếm một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong đời sống văn xuôi. Tiếp cận đời sống ở bình diện sinh hoạt thế sự, những sáng tác văn xuôi của Lê Minh Khuê Trong tập truyện ngắn được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam năm 1987 Một chiều xa thành phố, Lê Minh Khuê đã phản ánh khá tinh tế sự chuyển động lúc âm thầm, lúc mạnh mẽ trong đời sống tinh thần của con người thời đại. Con người bị cuốn vào cơn lũ của đời sống tiện nghi, của tâm lí tiêu dùng, của thói lãnh cảm với quá khứ, với đồng loại. Trong truyện Một chiều xa thành phố từ một cô gái nhiệt tình, hăm hở Tân trở thành kẻ hưởng thụ và ích kỷ bởi sự nhập cuộc với hiện tại cuồng nhiệt. Cô sống thờ ơ với bạn cũ, cố chạy theo lối sống vật chất, khiến cho chồng cô phải thốt lên một cách khinh bỉ cái nông cạn của người đàn bà cũng như một thứ tội ác.[37, tr.29]. Sự phê phán của 10 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 nhà văn với những thói hư tật xấu ấy của con người nhẹ nhàng mà thấm thía. Văn xuôi sau 1975 trở lại với hiện thực đời thường, chọn những con người, những việc bình thường đặt nó vào quỹ đạo quan sát để làm giàu thêm cho nhận thức và sinh hoạt tinh thần con người trong cuộc sống thời bình. Bên cạnh việc đổi mới quan niệm về hiện thực truyện ngắn Việt Nam sau 1975 còn có sự chuyển đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người. Ở bất kỳ nền văn học nào, con người cũng là đối tượng trung tâm của phản ánh hiện thực. Quan niệm về con người trong văn học là quan niệm nghệ thuật được nhà văn nhận thức và phản ánh trên cơ sở hiện thực. Theo thi pháp học: “Quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hoá thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp hình thức để thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hiện tượng nhân vật trong đó”[43, tr.43]. Tìm hiểu nghệ thuật về con người tức là tìm hiểu cách nhìn, chiều sâu của sự khám phá, sự lý giải, trình độ chiếm lĩnh con người của nhà văn. Quan niệm nghệ thuật về con người là cốt lõi tinh thần, là phương diện có tầm quan trọng hàng đầu để xác định những đặc trưng cơ bản, xác định trình độ, tài năng, sự đóng góp của nhà văn cho văn học và đời sống. Quan niệm về con người liên quan đến toàn bộ quá trình sáng tạo của nhà văn, đến tất cả các yếu tố nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó đánh dấu sự thay đổi đáng kể của hệ hình tư duy trong sáng tác của nhà văn. Theo Trần Đình Sử: “Chừng nào chưa có sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người, thì sự tái hiện các hiện tượng đời sống khác nhau chỉ có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều sâu”[41,tr.98]. Lịch sử văn học là lịch sử của những quan niệm khác nhau về con người. Văn học Trung đại có con người vô ngã. Văn h ọc 1930 - 1945 là những con người bản ngã. Văn học 1945-1975 do chiến tranh nên văn học quan tâm đến con người quần chúng, sử thi và anh hùng ca. Hình tư ợng trung tâm trong văn học giai đoạn này là người chiến sĩ – những người xả thân vì lí tưởng, gắn bó hết mình với sự nghiệp cách mạng, với quê hương đất nước. Hầu như suy nghĩ và hành đ ộng của họ đều thuộc về, hướng về Tổ quốc và dân tộc. Do tính chất căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh, con người có xu hướng hướng ngoại rõ nét hơn. Trong không khí hoành tráng với tiếng đạn bom, với lời hiệu triệu và tiếng thét xung phong hào hùng thì những cái riêng tư trở thành nhỏ bé trước cái chung vĩ đại 11 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 và khó được chấp nhận, hoặc có thể thì những tình cảm cá nhân, gia đình phải được đặt trong mối quan hệ với tình yêu Tổ quốc, tình cảm đối với Đảng và cách mạng. Sau 1975 đất nước hoà bình, đ ổi mới, nhân tố con người được nhấn mạnh, giá trị trị con người được tôn trọng, tạo nên sự thức tỉnh mạnh mẽ của ý thức cá nhân. Định hướng của Đảng về quan niệm nghệ thuật về con người đã t ạo tiền đề cho sự chuyển biến căn bản của văn xuôi sau 1975. Nếu như điểm dừng, đích đến của văn học nói chung và văn xuôi Việt Nam trước 1975 là các sự kiện của lịch sử, chính trị. Thì sau 1975 có sự thay đổi căn bản, đó không còn là các sự kiện lịch sử chính trị nữa mà là con người. Cơ cấu thành phần nhân vật trong văn xuôi cũng có sự thay đổi rõ rệt : trước 1975 thường xuất hiện những nhân vật tập thể, đám đông, nếu có xuất hiện con người cá nhân thì cũng ch ỉ là những con người cá nhân nhân danh tập thể, nhân danh cộng đồng. Đó là Tnu, chú bé Heng trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyên Ngọc, hay Nguyệt trong truyện ngắn Mãnh trăng cuối rừng của nhà văn Nguyễn Minh Châu…Còn văn học sau 1975 là là những nhân vật cá thể với cuộc sống đời tư phức tạp, đa diện và nhiều mâu thuẫn. Số phận con người trong văn học trước 1975 trùng với lịch sử dân tộc còn sau 1975 có sự vênh lệch, so le, lịch sử thì phát triển còn con người thì thất bại, cô đơn lạc lõng trước cuộc đời: Chẳng hạn như trong truyện ngắn Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, bề ngoài đó là một gia đình hạnh phúc nhưng bên trong lại là sự tẻ nhạt, là một khối cô đơn bởi mỗi thành viên trong gia đình đ ều có một thế giới riêng: vợ ngoại tình, chồng nhu nhược, người bố trong thời chiến ông là một người tướng giỏi nhưng trong thời bình ông khó có thể hòa nhập với cuộc sống thực tại, lại như một người lãnh đạo bù nhìn bởi chính ông cũng là m ột khối cô đơn trong gia đình đó. Người đọc cũng b ắt gặp được vấn đề này thông qua truyện ngắn Những bông bần li của Dương Thu Hương, trong truyện Khang - chồng Ngân là một người luôn thờ ơ trước mọi vấn đề xã hội, hằng ngày anh vùi vào công việc kiếm tiền. Còn Ngân dù có một cuộc sống đủ đầy vật chất nhưng Ngân lại không tìm thấy được hạnh phúc trong sự đủ đầy đó. Chị cô đơn, lạc lõng trong chính ngôi nhà của mình. Văn học sau 1975 cũng quan tâm đến phương diện con người tự nhiên - một phương diện của con người cá nhân. Đó là con người với những khát vọng riêng tư, những dục vọng bản năng như: làm giàu, hưởng thụ, tình dục... Ngoài ra với quan niệm mới mẻ về con người và cuộc đời trên nền tảng của những suy tư, nghiền ngẫm có chiều sâu, nhiều nhà văn cùng với đứa con tinh thần của mình đã 12 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 đem đến cho người đọc cái nhìn sâu hơn về con người, làm xuất hiện kiểu người không bao giờ trùng khít với chính mình (Bakhtine). Đó là người đàn bà làng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, dù thường xuyên bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng chị vẫn lạy “xin toà đừng bắt con bỏ nó”. Đi tìm câu trả lời cho nghịch lý ấy, nhà văn hướng người đọc đến một sự thật: “Đám đàn bà làng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con đến khi khôn lớn cho lên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”[10,tr344]. Thực ra người đàn bà ấy đã không hề cam chịu một cách vô lý, nông nổi, ngờ nghệch mà ngược lại chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài. Một người phụ nữ có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ và vẫn mang bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hy sinh và lòng vị tha. ở những truyện ngắn như thế Nguyễn Minh Châu đã chạm vào chiều sâu của lòng nhân bản ở con người. Từ một nền văn học phản ánh con người trong mối quan hệ cộng đồng, văn học sau 1975 chuyển sang phản ánh con người cá nhân, con người bản ngã, con ngư ời đời tư, con người với vô số bi kịch trong mối quan hệ đa chiều của nó. Trong thời kỳ đổi mới khi văn học được chú tâm quan sát và thể hiện bằng cảm hứng đạo đức, thế sự thì con người hiện ra như một cá thể phức tạp, có số phận riêng với tất cả tinh thần, nội tâm, tiềm thức, bản năng.... “con người là người với sự hèn hạ và cao quý của con người” (Thạch Lam). Con người trong giai đoạn này không chỉ biết xả thân mà còn tự bồi đắp phẩm cách và ý thức cá nhân. Khi nhà văn đặt con người trong mối quan hệ muôn mặt của đời thường, trong cái chung và cái riêng, trong tư tưởng tình cảm, trong đời sống tự nhiên, bản năng, trong khát vọng cao cả và dục vọng tầm thường, cả trong mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính mình. Có thể nói các nhà văn đã có những nhận thức mới về con người. Trước 1975 nhà văn chỉ ca ngợi con người nhất phiến, một chiều (tốt đẹp, cao thượng ...) nhưng sau 1975 văn học đã trở về với giá trị nhân bản của con người. Nhà văn nhìn con người từ nhiều toạ độ, nhiều chiều, đa nhân cách, vừa có "rồng phượng lẫn rắn rít, thiên thần và 13 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 ác quỷ" và nhìn chung, nó toàn diện và sâu sắc hơn. Điều này phản ánh sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về con người cá nhân. Họ đi sâu khám phá thế giới nội tâm của con người, tạo ra một thế giới nhân vật đa dạng, có đời sống tâm lí phức tạp, vừa gần gũi d ễ hiểu vừa mênh mông đầy bí ẩn. 1.2.2 Thành tựu của truyện ngắn Trong sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại từ sau cách mạng tháng Tám, cùng với thơ, tiểu thuyết truyện ngắn cũng phát triển trong đà đổi mới và gặt hái được những thành tựu đáng kể. Lúc này truyện ngắn được xem là thể loại có bước đột phá và là lực lượng xung kích của văn học. Tiếp nối những thành công đã g ặt hái được của truyện ngắn trong giai đoạn kháng chiến, sau những năm 1975 thể tài này vẫn tiếp tục phát triển. Số lượng truyện ngắn tăng nhanh, các đầu sách về truyện ngắn chiếm tỷ lệ lớn trong số lượng xuất bản hằng năm của các nhà xuất bản Hội nhà văn, Phụ nữ, Thanh niên, Văn nghệ, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, chưa kể đến các nhà xuất bản địa phương như TP HCM, Hải Phòng, Đà Nẵng, Đồng Nai…Thật khó có thể thống kê một cách chính xác về số lượng truyện ngắn đã in trên các báo văn nghệ từ trung ương đến địa phương, các tuyển tập truyện ngắn của các nhà xuất bản. Thành tựu của truyện ngắn Việt Nam cũng được đánh dấu bởi sự hình thành và khẳng định của những phong cách cá nhân. Hơn bất cứ thể loại nào, trong truyện ngắn dấu ấn cá nhân của người viết để lại rất rõ nét. Giai đoạn 1975 – 1985 ngoài những tên tuổi như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn,… với những phong cách nghệ thuật riêng còn có lối viết chặt chẽ, khúc triết của Bùi Hiển, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long...Có lối viết giản dị, giàu chi tiết hiện thực nhưng cũng chú ý tới việc khai thác tâm lí nhân vật như trong truyện của Vũ Tú Nam, Ma Văn Kháng, Vũ Thị Thường, Xuân Thiều, Triệu Bôn... Lại có lối viết chú trọng đến việc xây dựng những cốt truyện hấp dẫn với nhưng tình huống giàu kịch tính, bất ngờ như Nguyễn Quang Sáng, Lê Minh Khuê,… Nhiều tác giả trưởng thành từ trong chiến tranh tiếp tục khẳng định phong cách riêng nhưng có sự chuyển biến trong cách viết do quan niệm về hiện thực và con người đã thay đổi. Ma Văn kháng chuyển từ vùng hiện thực miền núi sang cuộc sống thị thành. Ngòi bút của nhà văn cố gắng len lỏi vào các ngóc ngách của đời sống để khám 14 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
- Cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn sau 1975 phá cái phong phú, phức tạp của lòng người và lẽ đời với tất cả các cung bậc buồn vui, lo âu, hi vọng của mỗi số phận. Để từ đó vang lên khát vọng phải bảo tồn cho được cái khả năng yêu thương đồng loại, cái mầm nhân bản trong mỗi con người. Nguyễn Minh Châu chuyển hướng khai thác từ hiện thực chiến tranh sang cuộc sống đời thường. Ông được coi là người mở đường tinh anh và tài hoa với hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985). Truyện ngắn của hai tác giả này làm loé lên tính chất phong phú đa dạng, phức tạp của cuộc sống sau chiến tranh. Tiếp nối những thành công của thế hệ nhà văn tiên phong cần phải kể đến sự xuất hiện và khẳng định của một loạt cây bút mới như : Chu Lai, Thái Bá Lợi, Xuân Đức, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Trí Huân, Nguyễn Thị Như Trang, Trung Trung Đỉnh…Thế hệ này đã đem vào trong văn xuôi, đặc biệt ở những tác phẩm viết về chiến tranh, sự từng trải, những kinh nghiệm cá nhân của mình và của thế hệ mình đã tích luỹ trong những năm chiến đấu. Những cây bút nữ khác như Thuỳ Linh, Lí Lan, Trần Thuỳ Mai, Phạm Thị Minh Thư cũng đã tạo được những dấu ấn riêng ở dòng truyện ngắn trữ tình. Trong quãng thời gian từ 1986 đến nay, các cuộc thi truyện ngắn tăng lên nhiều, đây cũng là cơ h ội xuất hiện nhiều tên tuổi mới như: Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Y Ban, Phạm Ngọc Tiến, Từ Nguyên Tĩnh, Lưu Minh Sơn,… Điểm qua các tập truyện ngắn Ánh trăng, Bến trần gian, truyện ngắn hay dễ dàng liệt kê được hàng trăm tác giả với hàng trăm truyện ngắn. Trong số đó có các tác giả tiêu biểu cùng với những tác phẩm gây chú ý của bạn đọc như: Phan Thị Vàng Anh với Hoa muộn; Nguyễn Thị Thu Huệ với Hậu thiên đường, Mùa đông ấm áp; Lưu Sơn Minh với Duyên nghiệp, Bến trần gian; Nguyễn Thế Tường với Hồi ức một binh nhì, Một chuyện đau lòng… Quá trình đổi mới và phát triển truyện ngắn bước đầu đã tạo nên một không khí vui tươi và hứa hẹn nhiều triển vọng. Sự đan cài của nhiều lớp nhà văn nhiều phong cách, nhiều cá tính nghệ thuật khác nhau đã tạo ra cho truyện ngắn sau 1975 một diện mạo mới. 1.3 Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn Nói đến nghệ thuật của truyện ngắn thứ nhất cần phải nói đến cốt truyện. Khái niệm cốt truyện là một phạm trù đa dạng và đầy biến động. Bởi “Cốt truyện là một hệ thống 15 GVHD : Nguyễn Thị Mỹ Nhung SVTH : Trần Thị Thúy An
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975
71 p | 51 | 23
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn lãng mạn của Macxim Gorki
72 p | 57 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Phương thức chiếu vật trong một số tác phẩm của Nam Cao
79 p | 60 | 20
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hệ thống nhân vật trong truyện cổ tích thần kỳ người Việt
65 p | 87 | 18
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945
84 p | 39 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thơ tình A.X. Puskin
125 p | 58 | 17
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thi pháp tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
69 p | 56 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng
87 p | 42 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong truyện ngắn Nguyễn Khải sau 1975
73 p | 33 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thế giới nhân vật trong tác phẩm “Chiến tranh và hòa bình” của Liev Tolstoi
110 p | 38 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao
86 p | 26 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bức tranh nông thôn trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường
76 p | 31 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cơ chế tạo hàm ý trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
68 p | 25 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn của Stendhal
86 p | 20 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ
81 p | 23 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người mẹ trong thơ X.Êxênhin
74 p | 21 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm từ chỉ đồ dùng cá nhân, dụng cụ gia đình và công cụ sản xuất trong thành ngữ
66 p | 21 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm tiểu thuyết Engenie Grandet
67 p | 23 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn