Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân
lượt xem 13
download
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân được thực hiện với mục tiêu nhằm giúp bạn đọc hiểu được tinh thần nhân đạo của nhà văn Nam Cao, hiểu được cách thể hiện tinh thần nhân đạo của nhà văn Nam Cao, nhận ra được giá trị của tinh thần nhân đạo của Nam Cao đồng thời rút ra được kết luận cho chính mình từ tinh thần ấy. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nam Cao có một vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Những tác phẩm của Nam Cao phần lớn ra đời trong những năm chiến tranh thế giới thứ hai, đánh dấu bước phát triển của trào lưu văn học phê phán trong thời kì tưởng chừng như bế tắc. Nam Cao bước chân vào con đường văn chương khi trên văn đàn, dòng văn học hiện thực phê phán đã xuất hiện những nhà văn tiêu biểu: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng,…nhưng tên tuổi của Nam Cao không bị lu mờ. Trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình, Nam Cao đã không dẫm lên lối mòn của những người đi trước. Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội thực dân phong kiến, và thể hiện sinh động cuộc sống khổ đau, bế tắc của những người tiểu trí thức nghèo và nông dân những năm 1940 – 1945. Sau khi xác định được khuynh hướng sáng tác, Nam Cao trở thành một nhà văn trung thành với khuynh hướng chủ nghĩa hiện thực. Thế nên, những tác phẩm của ông là những bức họa tái hiện đúng với những gì đã diễn ra ở hiện thực xã hội lúc bấy giờ: không lãng mạn, không lí tưởng hóa, không thoát li thực tại cũng không xây dựng nên những nhân vật anh hùng hóa. Nhưng không phải vì thế mà ta nói: Nam Cao sống quá lí trí mà không có tình cảm. Trung thành với hiện thực, đó cũng là một cách thể hiện tình cảm thấm đẫm, nồng nàn và chân thực nhất của ông. Tinh thần nhân đạo của Nam Cao là vấn đề phổ biến, liên tục được các nhà phê bình, các nhà nghiên cứu, các bật giáo viên và các sinh viên nghiên cứu tìm hiểu. Đặt vấn đề ngày càng sâu, ngày càng rộng, đa chiều, đa dạng, nhiều góc độ khác nhau nhưng vẫn không tận. Bởi thế cho nên, tìm hiểu về Nam Cao là một chủ đề cũ nhưng mãi không nhàm. Và hôm nay, tôi xin được lựa chọn tìm hiểu đôi nét về khởi nguồn của tấm lòng nhân đạo của ông đó là cảm hứng nhân đạo của Nam Cao và chỉ giới hạn trong những sáng tác về người nông dân. Viết về người nông dân, Nam Cao đã tái hiện lại một giai đoạn lịch sử bi thương của đất nước. Cả một xã hội chìm ngập trong đói nghèo. Con người luôn phải đối mặt với những nguy cơ mất đi tính người hoặc tính mạng con người. Nơi mà những cái ác được tồn tại còn cái thiện lại bị hủy diệt. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 1
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân Qua hiện thực xã hội, Nam Cao cũng thể hiện thái độ yêu thương, trân trọng con người, cảm thông cho những số phận bất hạnh. Đồng thời, lí giải những hành động trái với bản chất vốn lương thiện của con ngươi. Ông còn tố cáo xã hội, lên án những thế lực thống trị đã bức những người vốn nghèo khổ vào tuyệt lộ. Để tái hiện chân thực cuộc sống của những con người khốn khổ trong thời đói ấy, Nam Cao đã sử dụng một đôi mắt tinh tường để nhận định đúng sai, phải trai; Sử dụng kinh nghiệp sông một đời bần hàn, gian khó của bản thân để đồng cảm cho nổi khổ của người khác; Quan trọng hơn, Nam Cao đã sử dụng tấm lòng biết yêu thương, bản chất lương thiện để mở lòng mình với lớp người nghèo, mạc vận. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Trước Cách mạng tháng Tám 1945, số bài viết về Nam Cao chưa nhiều, nhưng có một bài viết có thể nói rằng đã đánh giá khá chuẩn xác về phong cách cũng như bản lĩnh sáng tác của Nam Cao. Đó là bài tựa của Lê Văn Trương cho tác phẩm Đôi lứa xứng đôi (1941). Lê Văn Trương nhận xét: “Giữa lúc người ta đang đắm chìm trong những truyện tình thơ mộng và hùa nhau “phụng sự” cái thị hiếu tầm thường của độc giả, ông Nam Cao đã mạnh dạn đi theo một lối riêng, nghĩa là không thèm đếm xỉa đến cái sở thích của độc giả. Những cạnh tài của ông đã đem đến cho văn chương một lối văn mới, sâu sa, chua chát và tàn nhẫn, thứ tàn nhẫn của con người biết tin ở tài mình, ở thiên chức của mình” [8, tr.9]. Như vậy, Lê Văn Trương đã chỉ ra được “lối văn mới”, yếu tố tạo nên giọng văn độc đáo trong sáng tác của Nam Cao. Cũng thời kỳ này, không phải ai cũng có một cái nhìn chính xác về nhà văn Nam Cao như Lê Văn Trương. Từ sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao gây được nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu, các nhà phê bình và lý luận văn học. Có nhiều bài viết đã cung cấp được những tư liệu quý giá về nhà văn Nam Cao của chúng ta. Nhưng phải đến những năm 80 của thế kỷ này, người ta mới nghiên cứu nhiều về Nam Cao như một sự phát hiện mới mẻ mà càng tìm kiếm càng phát hiện thêm nhiều tầng mới. Năm 1987, Phong Lê viết tiểu luận Nam Cao, Văn và đời. Tiểu luận có giá trị này, vừa kế thừa những thành quả đã nghiên cứu của ông về Nam Cao trước đó, vừa có cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về “sự chiến thắng đầy vất vả và vinh quang của chủ nghĩa hiện thực kiểu Nam Cao”, và những khám phá mới mẻ về tính chất đối thoại tư tưởng của sáng tác Nam Cao. Năm 1991, kỷ niệm 40 năm ngày mất của nhà văn GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 2
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân Nam Cao, có một cuộc Hội thảo với quy mô lớn về nhà văn và cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao do Phong Lê chủ biên (xuất bản 1992) tập hợp những bài nghiên cứu mới, có giá trị nhằm tiếp tục khẳng định vị trí của nhà văn hiện thực xuất sắc này. Năm 1997, kỷ niệm 80 năm ngày sinh nhà văn có rất nhiều bài viết giá trị về Nam Cao ra đời. Bên cạnh đó cần phải kể đến hai công trình Nam cao, Đời văn và tác phẩm (1997) của Hà Minh Đức, tập hợp những công trình nghiên cứu của ông về Nam Cao, Phác thảo sự nghiệp và chân dung (1997) của Phong Lê bao gồm những tiểu luận, những bài viết trước đó và có bổ sung một số bài viết mới về Nam Cao. Giáo sư đã phát hiện ra trong tư cách xuất hiện của Nam Cao trong sáng tác của ông: “có người viết tự truyện như tiểu thuyết có người viết tiểu thuyết như tự truyện. Nam Cao thuộc dạng thứ hai. Đọc lại hầu hết sáng tác của Nan Cao, thấy hình ảnh của nhà văn gần như có mặt ở khắp mọi nơi. Lúc ở vị trí Thứ, Điền, Hộ, Ngạn, Du,… lúc ở vị trí nhân vật phụ, để quan sát, nhìn ngắm, cảm thông, chia sẽ với cảnh ngộ những người lao động, trên hai địa bàn, hai môi trường hoạt động chính là làng Vũ Đại trên quê ông hoặc ở vùng ngoại ô thành phố, nơi có cái trường tư ông dạy thuê”. [7, tr.13]. Năm 1998, công trình Nam Cao về tác gia và tác phẩm (do Bích Thu tuyển chọn, giới thiệu) đã công bố tập hợp những bài nghiên cứu tiêu biểu về Nam Cao từ những năm 40 đến nay. Trong Văn học và học văn (Nxb Văn học, 1999), nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến có bài Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo ghi nhận cảm hứng nhân văn trong sáng tác Nam Cao. Các bài viết của Phong Lê (Nam Cao - nhìn từ cuối thế kỷ in trong Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb ĐHQGHN, 1997), Nguyễn Văn Hạnh (Nam Cao và khát vọng về một cuộc sống lương thiện, xứng đáng in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao), Nguyễn Đăng Mạnh (Cái đói và miếng ăn trong tác phẩm Nam Cao in trong Nhà văn Việt Nam hiện đại chân dung và phong cách)... tiếp tục khẳng định tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Nam Cao. Năm 2001, trong Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQGHN, 2001), Phong Lê dành 67 trang trên tổng số 539 trang giới thiệu Nam Cao cùng với 17 nhà văn khác. Cũng trong năm 2001, nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền công bố chuyên luận Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao (Nxb KHXH, GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 3
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân 2001) nghiên cứu khá toàn diện và hệ thống những phương diện của chủ nghĩa hiện thực Nam Cao. Ngoài ra, còn có nhiều luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã nghiên cứu và đề cập tới nhiều phương diện trong sáng tác Nam Cao. Sáng tác của Nam Cao còn thu hút sự chú ý của những nhà nghiên cứu nước ngoài như T.M Khitarian, I. Dimônhia, Niculin... Tóm lại, với tư cách một tác gia văn học lớn, một phong cách độc đáo trong văn học Việt Nam hiện đại, Nam Cao đã được tìm hiểu nghiên cứu trên nhiều phương diện như vấn đề tư tưởng, cảm hứng chủ đạo, thế giới nhân vật, phong cách nghệ thuật... Tuy nhiên không vì thế mà việc nghiên cứu về Nam Cao dừng lại. Còn rất nhiều vấn đề về tác giả văn học này cần phải được tiếp tục đi sâu tìm hiểu. Về các khía cạnh nhân đạo đối với nhà văn Nam Cao là vấn đề được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Ông là một nhà văn có tư tưởng lớn. Các giá trị nhân đạo được thể hiện xuyên suốt trong các sáng tác của ông. Tấm lòng nhân đạo của Nam Cao được thể hiện qua nhiều hình thức: Căm ghét cái ác, phê phán những thói xấu xa, độc ác của con người; Bên vực, ca ngợi những điều tốt đẹp, thiện lương; Yêu thương, đồng cảm, xót xa với những con người bất hạnh. Từng niền vui nỗi buồn, nụ cười, nước mắt đều thể hiện tấm lòng nhà văn chân thành thể hiện. Tất cả các trạng thái ấy được phân tích, nghiên cứu trở thành những khía cạnh ít nhiều có liên quan đến những giá trị nhân đạo trong văn chương và con người Nam Cao. Và những phân tích, nghiên cứu từ trước đến nay đã trở thành một bề dày lịch sử vững chắc trong vấn đề này. 3. Mục dích nghiên cứu Khi nghiên cứu về Cảm hứng nhân đạo của nhà văn Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân, mục đích tôi muốn vươn đến và đạt được qua quá trình nghiên cứu đó là: Thứ nhất, hiểu được tinh thần nhân đạo của nhà văn Nam Cao. Nam Cao là một nhà văn có được một tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Ông yêu thương những con người khốn khổ, bị xã hội bấy giờ áp bức. Ông xót xa cho cuộc đời của những con người thấp cổ bé họng bị đè nén vào làng quê tù túng. Những thói quen, những nếp nghĩ cam phận cũ kỹ làm cho cuộc sống của họ chỉ còn là những khoãng không lầm lũi, chết lặng theo từng ngày, chịu biết bao đau khổ. Ông lắng nghe và thấu hiểu cho GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 4
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân từng kiếp người, bao dung cho những con người biến chất. Cho dù có thế nào, ông vẫn dành trọn tình yêu cho họ. Thứ hai, hiểu được cách thể hiện tinh thần nhân đạo của nhà văn Nam Cao. Nam Cao là một con người đặc biệt. Cho nên, cách thể hiện tình yêu con người của ông cũng không giống ai. Người ta yêu thương thì nói về cái tốt, cái đẹp còn nhà văn Nam Cao ông yêu thương bằng cách nói lên cái kiếp sống bần cùng, thói hư, tật xấu, các khía cạnh mà người ta xem như là một vết xẹo vừa mới nghe đã không thể chấp nhận nổi mà muốn lẫn tránh thật nhanh. Vậy mà, ông vẫn kiên quyết với con đường hiện thực ấy, ông tin tưởng vào tình yêu của mình vào cách thể hiện tấm lòng yêu thương của mình. Thứ ba, nhận ra được giá trị của tinh thần nhân đạo của Nam Cao đồng thời rút ra được kết luận cho chính mình từ tinh thần ấy. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn Nam Cao đối với những con người cùng khổ đáng để cả thế hệ hậu bối chúng ta học tập và noi theo. Nam Cao không đi theo cái khuynh hướng chung mà tỏa sáng bằng cách riêng của chính ông. Cái cách trung thành với hiện thực của ông quả thật đã dạy cho ta biết trong cuộc sống người ta cần phải có dũng khí nhìn thẳng vào vết xẹo của mình, chứ không phải là cố công lẫn tránh hoặc dùng mọi biện pháp để che dấu. Đồng thời khi nhận ra vết xẹo của người khác thì phải dùng chính chân tình của mình để xoa dịu nó chứ không phải dạy người ta cách quay mặt đi để không nhìn thấy. 4. Phạm vi nghiên cứu Khi nghiên cứu đề tài này, muốn phân định được phạm vi nghiên cứu ta cần phải thực hiện: - Tham khảo những tác phẩm của Nam Cao. Đặc biệt là những sáng tác về người nông dân. - Những tác phẩm của những nhà văn cùng trào lưu dòng văn học hiện thực phê phán của Việt Nam 1930-1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng,… - Những bài luận, những bài phê bình, đánh giá,… của những nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học đối với Nam Cao. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 5
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân 5. Phƣơng pháp nghiên cứu - Tham khảo, đối chiếu nhiều tài liệu. - Thực hiện phương pháp so sánh. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích. - Phương pháp tổng hợp. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 6
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG 1.1. Đôi nét về tác giả Nam Cao 1.1.1. Tiểu sử Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29 tháng10 năm 1915 tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao. Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo. Thân phụ ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Thân mẫu ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Nam Cao sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống khá chật vật, trong các anh em, chỉ có mình Nam Cao được đi học. Đói nghèo, bệnh tật đeo đuổi và giày vò Nam Cao ngay từ những năm còn nhỏ. Thi Thành chung trượt, Nam Cao theo một người cậu làm thợ may vào Sài Gòn kiếm sống. Rời bỏ cái làng quê nghèo đói và tù túng, Nam Cao mang theo nhiều ước mơ và dự định lớn lao. Những tưởng miền xa quê hương sẽ mở ra một chân trời mới lạ; nhưng rốt cuộc, bệnh tật lại trả nam cao trở về với nơi chôn nhau cát rốn. Ở Sài Gòn về, Nam Cao ôn lại vốn học cũ và thi đậu Thanh chung. Nam Cao định xin đi làm công chức, nhưng vì bệnh tật nên không được chấp nhận. Một người trong họ mở trường tư ở Hà Nội (trường tư thục Công Thanh, đường Thụy Khuê, Hà Nội ), cần một giáo viên có bằng trung học, Nam Cao được mời lên dạy học. Cuộc sống của một thầy giáo khổ trường tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc thân phận của người tiểu tư sản trí thức nghèo trong một xã hội ngột ngạt, bế tắc. Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, trường bị đóng cửa, Nam Cao sống chật vật bằng nghề viết văn, làm gia sư, có khi thất nghiệp phải về quê “ăn bám” vợ. Năm 1943, Nam Cao gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật cùng một số nhà văn như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, v.v… khi cơ sơ Văn hóa cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Thời kỳ Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân, và được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó ít lâu, Nam Cao được điều lên Hà Nội GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 7
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân và công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc. Có thời kỳ, Nam Cao làm thư ký tòa soạn tạp chí Tiên phong, cơ quan của Hội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, Nam Cao vừa làm biên tạp cho các báo Cứu quốc Việt Bắc, cứu quốc trung ương, vừa làm mọi công việc của một cán bộ thông tin tuyên truyền : viết tin, viết tài liệu giải thích các chính sách, làm ca dao tuyên truyền, viết truyền đơn địch vận, v.v… thời gian này, Nam Cao được vinh dự gia nhập Đãng Cộng sản Đông Dương (1948). Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam Cao bị địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình). Năm 1996, Nam Cao được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh ( đợt một). 1.1.2. Sự nghiệp 1.1.2.1. Trƣớc CMT8 năm 1945 * Đề tài về ngƣời nông dân Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn hoc lãng mạn đương thời. Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt. Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 8
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn.... Lận đận trong cuộc đời, Nam Cao cũng không gặp may mắn trên con đường văn chương. Ông viết văn từ năm 1936 và thử nghiệm qua nhiều thể loại khác nhau: thơ, kịch, truyện ngắn, … nhưng đều không thành công. Đã có lúc Nam Cao thất vọng và nghi ngờ khả năng văn chương của mình. Cũng giống như Nguyên Hồng, những sáng tác đầu tay của Nam Cao chịu ảnh hưởng khá rõ của văn học lãng mạn. Tầm hồn mơ mộng của tuổi trẻ cùng với những tác động của văn chương lãng mạn đương thời đã khiến ông hướng tới xu hướng “ nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát ly thực tế. Những bài thơ của Nam Cao viết thời kỳ này với bút danh: Nguyệt, Thúy Rư, Xuân Du, Nhiên Khê… phần lớn đều xoay quanh những chủ đề quen thuộc của nghĩa lãng mạn. Nhưng Nam Cao không dừng lại lâu ở thế giới mơ mộng, ảo tưởng, mà chóng trở về với cuộc sống thực. “nhưng ở những người trẻ tuổi nhà nghèo, những cái buồn thường phải sớm nhường chỗ cho những cái lo”, nỗi lo cơm áo, bệnh tật, đói rét. Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve: “ Nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”. Trong trào lưu hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945, Nam Cao nổi lên như một nhà văn tiêu biểu và độc đáo. Là “ người thư ký trung thành của thời đại”, với một bút pháp riêng đầy tính sáng tạo, Nam Cao đẫ đặc ra trước người đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chát, những bi kịch đau đớn, vật vã. Thông qua những sáng tác của mình, Nam Cao đẫ phản ánh được cái khung cảnh ngột ngạt, tăm tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Những tác phẩm của Nam Cao từ truyện ngắn đầu tay nổi tiếng Chí Phèo đến tiểu thuyết Sống mòn là sự thể hiện trên nhiều bình diện về số phân con người, và hơn thế nữa, là cuộc sống cùng khổ của cả một lớp người, một giai cấp. Nam Cao viết nhiều, nhưng sãng tác của ông có thể quy về hai đề tài chủ yếu: người nông dân, và người tiểu tư sản, trí thức nghèo. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 9
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân * Ngƣời Trí thức nghèo Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội giai đoạn trước 1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà văn nghèo, viên chức nhỏ - Đó là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết mòn", phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp ngẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người. Những tác phẩm tiêu biểu: Cái mặt không chơi được, Những chuyện không muốn viết, Giăng sáng, Đời thừa, Sống mòn,… 1.1.2.2. Sau CMT8 năm 1945 “ Đôi mắt”, tác giả thể hiện một cái nhìn, một quan điểm, một sự thay đổi đối với thời cuộc, có đi nhiều tìm hiểu nhiều và quan sát nhiều mới có sự thay đổi cách nhìn cách nghĩ. Sau CMT8, nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật. Những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ thuật cho giới nghệ sĩ đương thời. Grăng sáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao “ Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”.[8, tr.112] Những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao trong giai đoạn này: Mò sâm-banh, Nỗi truân chuyên của khách má hồng, Đường vô Nam, Đợi chờ, Ở rừng, Đôi mát, Những bàn tay đẹp ấy, Trên những con đường Việt Bắc, Từ ngược về xuôi, bốn cây số cách một căn cứ địch, Vui dân công, Trần cừ, Vài nét nghi qua vùng vừa giải phóng, … 1.1.3. Quan điểm sáng tác Nam Cao là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Điều đặc biệt ở nhà văn Nam Cao là ông không chỉ sáng tạo nghệ thuật mà còn đề ra những quan điểm GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 10
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân sáng tạo nghệ thuật. Quan điểm của Nam Cao không phát biểu qua văn chính luận như một số nhà văn khác mà được ông lồng chứa trong những sáng tạo nghệ thuật của mình như truyện ngắn Trăng sáng (1943), Đời thừa (1943), Đôi mắt (1948). Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về quan điểm nghệ thuật của mình. Quan điểm nghệ thuật đáng chú ý nhất của nhà văn Nam Cao được nêu ra ở thời điểm lúc bấy giờ là quan điểm nghệ thuật phải phản ánh hiện thực, phải phục vụ nhân sinh. Thời Nam Cao sống và viết các nhà văn lãng mạn chủ trương một thứ văn chương thoát li “nghệ thuật vị nghệ thuật”, Nam Cao đã chủ trương đoạn tuyệt với văn chương lãng mạn phủ nhận quan điểm nghệ thuật vì nghệ thuật, quyết tâm đi theo con đường nghệ thuật vì nhân sinh “nghệ thuật vị nhân sinh”, nghệ thuật phục vụ nhân dân, phục vụ những người lao khổ. Sự chuyển biến của Nam Cao là cả một quá trình phấn đấu gian khổ nhưng dứt khoát. Để xác định cho mình một quan điểm sống và viết đúng đắn, Nam Cao đã trải qua không ít những dằn vặt, băn khoăn. Và những băn khoăn để tìm ra quan điểm sáng tác của Nam Cao được thể hiên rõ nhất thông qua hai tác phẩm: Truyện ngắn Trăng sáng đã thể hiện sinh động tâm trạng đấu tranh day dứt của một nhà văn giữa hai con đường : mơ mộng và thực tế, lãng mạn và hiện thực, để rồi khẳng định sức mạnh của văn học nghệ thuật chính là bắt nguồn từ đời sống và phục vụ đời sống. Trăng sáng có giá trị như một bản tuyên ngôn nghệ thuật “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than”.[8, tr. 112]. Nó đánh dấu một bước chuyển biến trong nhận thức tư tưởng cũng như quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Còn với tác phẩm Đời thừa (1943), khẳng định một quan điểm khác mà Nam Cao không kém phần tâm huyết là quan điểm nghệ thuật phải sáng tạo. Theo Nam Cao việc tìm tòi sáng tạo không chỉ là bản chất đích thực của sáng tạo nghệ thuật mà còn là lương tâm của người cầm bút. Nhà văn phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng. Và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 11
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". [8, tr.341] Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện. Và cuối cùng là quan điểm sống đã rồi hãy viết, quan điểm này có nghĩa là một nhà văn muốn sáng tạo nghệ thuật đúng và hay phải lao mình vào cuộc sống để hiểu bản chất đích thực của cuộc sống. Quan điểm này được nhà văn Nam Cao minh họa qua nhân vật Hoàng và Độ trong truyện ngắn Đôi mắt. 1.1.4. Phong cách sáng tác Theo khái niệm từ Từ điển thuật ngữ văn học, “ Phong cách là nguyên tắc xuyên suốt trong việc xây dựng hình thức nghệ thuật, đem lại cho tác phẩm một tính chỉnh thể có thể cảm nhận được, một giọng điệu và một sắc thái thống nhất”.[9, tr.255] Phong cách sáng tác của nhà văn là những đặc điểm nội dung, hình thức riêng bào trùm toàn bộ sáng tác của họ. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút có phong cách độc đáo. Phong Lê nhận xét về các sáng tác cuả Nam Cao : “Gần như toàn bộ những gì cuả Nam Cao sưu tầm được đều có thể in, có thể đọc, trong đó một tỷ lệ lớn những trang hay, tức là những trang có thể đọc đi đọc lại nhiều lần, mà không gây cảm giác cũ. Phải chăng đó chính là phẩm chất cuả những gì ưu tú, là cái giá trị đã có thể đi dần vào quỹ đạo cuả những gì thuộc về cổ điển”[15] .Hà Minh Đức cũng khẳng định : “Sáng tác cuả Nam Cao giàu sức khám phá sáng tạo, với phong cách độc đáo” [8, tr. 71]. Nam Cao thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh trong cuộc sống hàng ngày, từ đó, đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Truyện của Nam Cao tuy giàu triết lý, nhưng triết lý mà không khô khan, vì nó xuất phát từ cuộc sống thực và từ tâm tư đau đớn, dằn vặt của tác giả. Viết về nông dân hay trí thức, Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của họ và đặc biệt hứng thú với việc khám phá “con người trong con người” (sau vẻ bề ngoài của Chí Phèo, thị Nở, lang Rận... còn có một con người khác mà chỉ những ai cố công tìm hiểu mới phát hiện được) Ông quan niệm “bản tính cốt yếu của sự sống GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 12
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân là cảm giác và tư tưởng” (Sống mòn). Cảm giác, tư tưởng càng sâu sắc, linh diệu thì sự sống càng cao. Vì thế, Nam Cao đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong của con người, coi đó là nguyên nhân của hành động. Với quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm. Ông có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Nội tâm nhân vật thành trung tâm chú ý, đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể hiện những quá trình tâm lý phức tạp (quỷ dữ thức tỉnh; hiện tượng dở say dở tỉnh; cá tính chấp chới giữa thiện - ác, hiền - dữ, người - vật… ). Để đi vào chiều sâu không cùng của nội tâm, Nam Cao thường sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thật, sinh động. Mặt khác, trong kết cấu - Ngòi bút của ông có thể thâm nhập vào những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn con người; từ đó dựng lên được những nhân vật tư tưởng vừa có tầm khái quát lớn vừa có cá tính độc đáo. Ông thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu kết cấu tâm lý phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn nhất quán, chặt chẽ. Về đề tài, ngòi bút Nam Cao cũng quan tâm đến “Những chuyện không muốn viết” - chuyện nhỏ nhặt, thường ngày. Từ đó, ông đặt ra những vấn đề xã hội, con người, cuộc sống và nghệ thuật chân chính. Truyện của Nam Cao luôn luôn thay đổi giọng điệu, có khi là giọng tỉnh táo và sắc lạnh; có khi là giọng đằm thắm, trữ tình sôi nổi, nặng trĩu yêu thương. Hai giọng văn đối lập nhau cứ chuyển hoá qua lại, tạo nên những trang viết thú vị, hấp dẫn. 1.2. Giới thuyết về khái niệm 1.2.1. Cảm hứng là gì? Cảm hứng là trạng thái tâm lí then chốt bao chùm trong sáng tác của nhà văn. Cảm hứng cũng là trạng thái căn thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căn thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đạt đến sự hoài hòa, kết tinh, sẽ cháy bùng trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến với những mục tiêu bằng con đường gần như trực giác, bản năng. Traixcapxki đã nói rằng “Cảm hứng là một khách quan không ưa thăm đến kẻ lười”. Sinle lại nói “Cái mà uổng công suốt mấy tuần liền, thì được giải quyết trong ba ngày nhờ một tia nắng dịu; song rõ ràng là sự thường xuyên của tôi đã chuẩn bị cho bước tiến triển đó”. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 13
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân Bôđơlơ cũng nói “ cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang tính chất trí tuệ và là cái khả năng nương giữ cái sức mạnh trong trạng thái kích thích”. Ngay từ thời cổ Hy Lạp và sau này Hégel và Biêlinxki đều đã dùng từ cảm hứng (tiếng Hy Lạp cổ: Pathos) để chỉ trạng thái xuất thần, hưng phấn, một tình cảm nồng nàn, sâu sắc khi nhà văn sáng tạo tác phẩm. Phùng Quí Nhâm gọi là thái độ tư tưởng-tình cảm đối với những điều được miêu tả. Cảm hứng của nhà văn và cảm hứng tư tưởng của tác phẩm quan hệ mật thiết với nhau nhưng không phải là một. Có 2 khả năng thể hiện rõ nét cảm hứng tư tưởng của nhà văn trong tác phẩm qua thái độ- tư tưởng -tình cảm của nhà văn đối với các hiện tượng, tính cách được miêu tả: khẳng định hoặc phủ định đối với những điều được miêu tả. Khẳng định lí tưởng tốt đẹp và phủ định đối với những cái xấu, là sự đồng tình, cảm thông, ngợi ca những nhân vật chính diện và phê phán, tố cáo các thế lực đen tối. Ðiều này làm cho tác phẩm thể hiện rõ tính khuynh hướng, "thiên vị" đối với những nhân vật lí tưởng mà tác giả yêu mến và cho phép họ thể hiện mãnh liệt cảm xúc của mình. Sêđrin khẳng định:"Nếu thiếu một tư tưởng thiên vị (không phải thiên vị trong ý nghĩa xuyên tạc người khác mà là với ý nghĩa khuynh hướng chung của tác phẩm) thì sẽ không có sức sống sôi động. Ngẫu nhiên, rờ rạc, nguội lạnh, nhạt nhẽo, đó là đặc trưng lớn nhất của tác phẩm không có tính khuynh hướng. Không tình tiết nào có thể bù đắp cho thiếu sót đó". Theo như tác giả Thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi thì “ trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm. Bê-Lin-Xki coi cảm hứng chủ đạo là điều kiện không thể thiếu của việc tạo ra những tác phẩm đích thực, bởi nó biến sự chiếm lỉnh thuần túy trá óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành”.[10, tr.110] Trong lí luận văn học của Phượng Lưu chủ biên: “ Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một ham muốn tích cực đưa đến hành động. Điều GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 14
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân quan trọng là cần nhận ra cảm hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học.”[16, tr. 83] Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là niềm say mê khẳng định chân lí, lí tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với những nhân vật chính diện, và phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường. 1.2.2. Cảm hứng nhân đạo là gì? Nhân đạo có thể hiểu là đạo đức thể hiện sự thương yêu, quý trọng và bảo vệ con người. Nói đến chủ nghĩa nhân đạo trước hết phải nói đến lòng thương người, sự mẫn cảm trước nỗi khổ đau, bất hạnh của đồng loại, sự quan tâm, mưu cầu điều tốt, điều lành. Nhân đạo là thái độ đạo đức đối với con người như là đối tượng của tình thương. Tình thương cách hiểu đơn giản nhất là năng lực cảm thông với nỗi đau của người khác. Không phải ngẫu nhiên mà trong ngôn ngữ của ta, “đau” và “thương” đi với nhau. Thông cảm với nỗi đau của người khác cũng là một cái đau, một sự xót xa của chính mình: tình thương thật sự bao giờ cũng là đau xót. Tình thương là một năng lực nhân tính vĩ đại. Đau thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa lớn lao của văn học nghệ thuật. Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là lòng thương người. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, không những thế phải đồng cảm xót thương những số phận bị chà đạp, lên án tố cáo những thế lực thù địch, đồng thời phải biết đồng tình với khát vọng và ước mơ chính đáng của con người. Nhân đạo còn có mặc khác là đặc ra nhu cầu để con người phát triển, những điều tốt đẹp được đề cao. Nói tóm lại, cảm hứng nhân đạo là lòng ưu ái tình thương đối với con người, đặc biệt là những con ngừi khốn khổ, gặp cảnh hoạn nạn. Là cảm hứng trân trọng và đề cao phẩm chất tốt đẹp, như cầu nâng cao, phát triển năng lực của con người. Có thể nói, đến Nam Cao thì khái niệm nhân đạo đạt được hoàn chỉnh. Trước hết, ông quan niệm văn chương có một sứ mệnh hết sức quan trọng. Nó vừa đề cập GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 15
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân đến những nỗi đau của con người bằng niềm thông cảm, yêu thương. Đồng thời, nó cũng góp phần thêm sức mạnh giúp con người có thể vươn đến cuộc sống tốt đẹp hơn. Một cuộc sống đầy lòng nhân ái, công bình “ Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” [8, tr.-] (Trăng sáng). Đọc truyện của Nam Cao, người đọc nhân ra bao cảnh đau thương của người nông dân với bao cảnh đời cơ cực, xót xa. Mỗi nhân vật của Nam Cao là một cảnh ngộ riêng. Hầu như những gia đình nông dân không mấy khi được toàn vẹn. Cuộc sống đói nghèo và nạn cường hào địa chủ đã bắt vọ chồng, cha con, anh em,.. phải ly tán. Người thì đi phu, người phải vào rường kiếm ăn, kẻ tha phương cầu thực, kẻ tìm đến cái chết,..(Lão Hạc, Một Đám cưới, Chí Phèo, Lang Rận,…). Nam Cao cũng viết về cái nghèo, cái đói và miếng ăn của người nông dân (Trẽ con không được ăn thịt chó, Một bữa no,…). Hầu như chưa có một nhà văn nào đi sâu vào số phận con người sâu sắc và đày day dứt như Nam Cao. 1.2.3. Cơ sở hình thành cảm hứng nhân đạo 1.2.3.1. Đời sống văn chƣơng nghệ thuật Khi mới bắt đầu viết văn, Nam Cao cũng rất lận đận trên con đường văn chương. Từ năm 1936, ông bắt đầu thử nghiệm viết qua nhiều thể loại khác nhau : thơ, kịch, truyện ngắn, …nhưng vẫn không thành công. Đã có lúc, Nam Cao thất vọng và nghi ngờ khả năng văn chương của mình. Cũng giống như Nguyên Hồng, những sáng tác đầu tay của Nam Cao chịu ảnh hưởng khá rõ của văn học lãng mạn. Tầm hồn mơ mộng của tuổi trẻ cùng với những tác động của văn chương lãng mạn đương thời đã khiến ông hướng tới xu hướng “ nghệ thuật vị nghệ thuật”, thoát ly thực tế. Trên báo Ngày nay năm 1938, Nam Cao đã tường viết : “ Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh Vương vấn theo ai bốn góc trời Rồi để một chiều theo gió thổi Bay lên thành những mảnh mây trôi” Giống như nhiều nhà văn hiện thực khác, Nam Cao cũng bắt đầu sự nghiệp của mình bằng những tác phẩm lãng mạn. Tuy nhiên, giai đoạn đó nhanh chóng trôi qua để tên tuổi Nam Cao sớm định hình với tư cách một nhà văn hiện thực. Nhận xét về Nam Cao, GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 16
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trước cách mạng, Nam Cao không trực tiếp phát biểu về quan điểm nghệ thuật lần nào, nhưng qua những ý kiến gửi gắm rải rác trong các trang truyện, ta thấy quan điểm nghệ thuật của nhà văn được thể hiện khá hệ thống, nhất quán và nhất là khá tiến bộ” [18, tr.76]. Vì sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực được nhìn nhận như là một sự phản ứng chống lại chủ nghĩa lãng mạn nên dấu vết của cuộc chiến đấu chống chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rất đậm nét trong tác phẩm của không ít nhà văn hiện thực, trong đó có Nam Cao. Trong Nam Cao và sự lựa chọn một chủ nghĩa hiện thực mới, Phạm Xuân Nguyên viết: “nhưng ảnh hưởng lãng mạn đối với Nam Cao qua rất nhanh. Sau này, khi Nam Cao đã viết văn hiện thực hoàn toàn rồi thì lối văn chương có hơi hướng Tự lực văn đoàn, kiểu: “Lòng tôi buồn như con chim lạc vào cái lúc chiều thẫm cho đất trời mênh mông (Cái mặt không chơi được) chỉ còn mang ý nghĩa là một cách nhạo báng, đùa cợt” [1, tr.141]. Do vậy, không bao giờ nhà văn được phép xa lìa cuộc sống, không bao giờ được tự mãn về những gì mình biết về cuộc đời. Muốn chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, làm cho người gần người hơn, nghệ sĩ không thể chỉ biết quan tâm đến bản thân mình. Cái tôi đáng ghét của văn học lãng mạn đã bị các nhà văn hiện thực lên án rất mạnh mẽ. Nam Cao cũng đoạn tuyệt với văn chương lãng mạn ở cả vấn đề cái tôi. Thật ra, đây là hệ quả của quan niệm xem hiện thực cuộc sống là điểm xuất phát, cũng là điểm đến của nghệ thuật. Một khi đã gắn hồn mình với cuộc đời rộng lớn, nhà văn không thể chỉ ngắm nghía bản thân mình. Để nói được điều gì thật sự có ý nghĩa với mọi người, nhà văn cũng không thể chỉ nói những suy nghĩ hoàn toàn chủ quan của mình. Xác định chỉ nói đến mình khi có cái gì đáng nói, phải “mở hồn ra để đón lấy những vang động của đời” để nói được “cái gì lớn lao, mạnh mẽ”, Nam Cao đã thực sự là người phát ngôn cho chủ nghĩa hiện thực. Thoát khỏi yếu tố cá nhân của nhà văn, hình tượng nghệ thuật sẽ có sức khái quát lớn. Nói đến chủ nghĩa hiện thực không thể không nói đến tính cách điển hình, hoàn cảnh điển hình. Nam Cao không dùng những thuật ngữ ấy. Ông chỉ để cho nhân vật nhà văn nọ than phiền: “Thoạt tiên tôi viết truyện một người đàn ông có vợ rồi. Đó chỉ là một người đàn ông rất vô danh. Hắn có thể là tôi, là anh hay bất cứ một anh nào có vợ. Nhưng một ông bạn tôi vơ chằng ngay lấy. Ông ta bảo tôi định GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 17
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân nói ông. Ông hục hặc với tôi. Ông khuyên tôi chớ đem in. Đem in thì vỡ mặt. Tôi trót dại, chưa học võ. Thôi thì đành chiều ông. Trong sáng tác của Nam Cao, ta bắt gặp những vấn đề mang tính lí luận. Mặc dù không bao quát toàn bộ lí luận về chủ nghĩa hiện thực, nhưng những vấn đề Nam Cao đề cập đến đều là những vấn đề hết sức trọng tâm. Đó là nguyên tắc bám sát mảnh đất hiện thực, là thái độ khách quan không che đậy sự thật, là mối quan hệ giữa yếu tố chủ quan và khách quan, là tính khái quát của hình tượng, là mối quan hệ biện chứng giữa hoàn cảnh và tính cách hay chi tiết chân thực. Dựa vào những sáng tác của Nam Cao, không một ai không thừa nhận ông là nhà văn hiện thực chủ nghĩa. Tuy nhiên, những phát biểu về chủ nghĩa hiện thực mà Nam Cao thường mượn nhân vật thể hiện như trên dường như chưa được quan tâm đúng mức. Khác với các nhà lí luận, lời phát biểu của Nam Cao mang tính nửa trực tiếp. Không sử dụng những thuật ngữ, cũng không viện dẫn những ý kiến của các nhà kinh điển, nó được thể hiện bằng lối nói khi thì bóng bẩy hơn, lúc lại đơn giản, mộc mạc hơn lối nói của các nhà lí luận. Bằng cách nào thì những câu nói ấy cũng ngầm biểu thị những vấn đề mang tính khái quát hơn bản thân vấn đề cụ thể được nói đến. Đối với người đọc, những vấn đề mang tính lí luận ấy lại trở nên dễ lĩnh hội hơn, bởi còn gì dễ cảm, dễ hiểu và dễ nhớ hơn những vấn đề trừu tượng đã được cụ thể hóa, thẩm mĩ hóa bằng ngôn từ nghệ thuật. Cho nên, nói Nam Cao có đóng góp quan trọng cho việc hoàn thiện văn học hiện thực chưa đủ. Còn phải nói: Nam Cao đã đóng góp không nhỏ cho sự hoàn chỉnh lí thuyết về chủ nghĩa hiện thực trong lí luận văn học Việt Nam. 1.2.3.2. Gia đình Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Thân phụ ông là Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Thân mẫu ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Do bởi là thành viên của một gia đình công giáo nên Nam Cao từ nhỏ được tiếp thu nguồn giáo lí luôn dạy cho người ta tránh xa cái ác và luôn hướng thiện. Chính điều này đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách con người Nam Cao. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 18
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân Gia đình Nam Cao có đông anh em nhưng vì nhà nghèo nên Nam Cao là người duy nhất trong gia đình được đi học. Vì ông đã tận mắt thấy những nổi cực nhọc của người thân trong gia đình và những người xung quanh ông nên những nổi khổ cực của những con người bần cùng ông đều có thể cảm nhận được. Nam Cao xót thương cho những con người khốn khổ ấy. Tám lòng xót thương ấy của Nam Cao cũng là một trong những nguyên nhân giúp Nam Cao trở thành nhà văn lớn 1.2.3.3. Bản thân nhà văn Những ai từng sống, chiến đấu với Nam Cao đều thấy rõ ba đặc điểm trong tích cách của ông. Nhìn bề ngoài, Nam Cao có phần vụng về, ít nói, lạnh lùng nhưng nội tâm thì luôn luôn sôi sục, căng thẳng. Trong ông thường diễn ra xung đột gay gắt giữa “lòng nhân đạo và thói ích kỷ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn nhát, giữa tính chân thực với sự giả dối, giữa khát vọng cao cả với mong muốn tầm thường”. Các trang viết về tri thức nghèo thể hiện rất rõ đặc điểm trên đây trong con người Nam Cao. Nam Cao sống ân tình với người nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt. Ông cho rằng: không có tình thương thì không xứng đáng được gọi là Người. Trước Cách mạng, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất của một trí thức tài cao phận thấp, nhưng không khinh bạc, “ngất ngưởng” như Nguyễn Tuân... Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng nhân hậu, hiền hòa. Không nỡ ăn bát cơm ngon dành riêng cho mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả nhà... Vì vậy, viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót thương, cảm thông... Ông luôn luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống. Vì thế, từ những chuyện nhỏ nhặt, thường ngày, Nam Cao nêu được nhiều vấn đề xã hội lớn lao, nhiều bài học triết lý sâu sắc. Với mình thì khiêm nhường, với người thì trân trọng. Đánh giá văn học thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, ông viết “Nguyễn Huy Tưởng dẫn đầu ... Tố Hữu, Kim Lân thứ nhì; Nam Cao bét, bởi vì xét ra vẫn cũ...”. Ngoài ra, việc Nam Cao từ nhỏ đã được học, tiếp thu văn hóa phương tây. Kế thừa tư tưởng của các nhà văn lớn thế giới như: Dostoievski, Solokhov, V.HuyGo, M.Gorki,… cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến cảm hứng nhân đạo của ông. GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 19
- Cảm hứng nhân đạo của Nam Cao trong những sáng tác về người nông dân CHƢƠNG 2 BIỂU HIỆN CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO TRONG SÁNG TÁC VIẾT VỀ NGƢỜI NÔNG DÂN CỦA NAM CAO 2.1. Cảm hứng nhân đạo thể hiện qua đề tài Ðề tài là phạm vi hiện thực mà nhà văn chọn lựa và miêu tả, thể hiện tạo thành chất liệu của thế giới hình tượng trong tác phẩm đồng thời là cơ sở để từ đó nhà văn đặt ra những vấn đề mà mình quan tâm. Trong sáng tác của Nam Cao, đề tài về người nông dân và trí thức tiểu tư sản là hai mảng đề tài lớn trải dài trong suốt quá trình sáng tác, đặc biệt là giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong mỗi mảng đề tài lớn đó còn có nhiều mảng đề tài được chia nhỏ hơn ở bên trong, có phạm vi rõ ràng và cụ thể hơn. Đề tài về người trí thức là đề tài về lối sống mòn: Sống mòn, Đời thừa,…; cuộc sống nghèo khó: Những chuyện không muốn viết, Nhỏ nhen, Giăng sáng,… Đề tài về người nông dân Việt Nam trước CMT8, đây cũng là đề tài quen thuộc trong sáng tác của các nhà văn hiện thực – phê phán đương thời. Tại sao họ lại viết về đề tài này? Bởi họ là nhà văn của lớp người cần lao. Cuộc sống của họ có khác gì so với số phận của người nông dân trong xã hội lúc bấy giờ. Họ đã vượt qua thiên kiến của thành phần, tầng lớp mình mở lòng chia sẽ cảm thông với những số phận nghèo hèn của người nông dân đương thời. Đề tài về người nông dân. Trong bối cảnh xã hội đang nảy sinh mâu thuẫn dân Nếu như với Ngô Tất Tố, nhà văn nổi tiếng viết về xung đột giai cấp gay gắt và phản ảnh bức tranh nông thôn toàn cảnh thì Nam Cao ít hướng đến phạm vi miêu tả rộng như thế. Nhà văn của làng Đại Hoàng này mạnh dạn đi vào “cái hàng ngày” nhưng mang tính phổ biến, cái bản chất. Các đề tài “ thu nhỏ” dễ nhận ra ngay ở nhan đề của các truyện ngắn: “ Trẻ con không được ăn thịt chó”, “ Con mèo”, “ Một đám cưới”, “ Một bữa no”, “ Từ ngày mẹ chết”… Điều nổi bật ở tài năng Nam Cao là “ Ông đã khai thác được cái chiều sâu, cái mạnh nước ngầm ẩn chứa bên trong và nâng lên một tầm khái quát cao hơn. Ở truyện ngắn của Nam Cao, chúng ta thường thấy hai tầng ý nghĩa: Một tầng ý nghĩa gắn liền với những tình tiết, sự việc và câu chuyện mà nhà văn muốn trần thuật lại và tầng ý nghĩa thứ hai là những đúc kết có tính chất triết lý khái quát”[11, tr.215]. Quả vậy, tiếp xúc với GVHD: Hồ Thị Xuân Quỳnh SVTH: Trần Thị Kim Chi 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn của A. P. Chekhov
79 p | 139 | 43
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tình huống truyện trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu
89 p | 40 | 24
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện ngắn lãng mạn của Macxim Gorki
72 p | 56 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Phương thức chiếu vật trong một số tác phẩm của Nam Cao
79 p | 59 | 20
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Thi pháp tập truyện Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
69 p | 55 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ động vật trong thành ngữ tiếng Việt
72 p | 33 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật trí thức tiểu tư sản trong sáng tác của Nam Cao
86 p | 26 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong thơ Nguyễn Duy
85 p | 21 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cơ chế tạo hàm ý trong tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
68 p | 25 | 12
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Cảm hứng lãng mạn trong tập thơ "Gió lộng" của Tố Hữu
72 p | 25 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ địa phương trong ca dao Nam bộ
80 p | 29 | 11
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ đồ dùng trong gia đình và công cụ nông nghiệp trong ca dao Nam bộ
81 p | 23 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Nhân vật mang tính tự thuật trong tác phẩm của Nam Cao
85 p | 31 | 10
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Đặc điểm truyện Ba Phi
87 p | 22 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Tìm hiểu địa danh trong ca dao đồng bằng sông Cửu Long
70 p | 19 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Chàng trai và cô gái trong ca dao Nam bộ về tình yêu đôi lứa
79 p | 17 | 9
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng
84 p | 22 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Từ chỉ động vật trong ca dao Nam bộ
103 p | 26 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn