intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945

Chia sẻ: Tiêu Sở Hà | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

30
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945 được thực hiện với mục tiêu nhằm giúp người đọc thấy được những điểm khác biệt giữa các nhà văn khi viết về người nông dân. Đồng thời, người viết vận dụng cái bi – một phạm trù mĩ học vào việc luận giải cái bi của những cuộc đời các nhân vật nông dân mà Nam Cao đã miêu tả trong những truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám -1945. Từ đó thấy được giá trị hiện thực đặc biệt là giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn viết về đề tài nông dân trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nam Cao. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp Văn học: Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC BI KỊCH NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 HUỲNH DƯƠNG Hậu Giang, 2013
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÕ TRƯỜNG TOẢN KHOA KHOA CƠ BẢN KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC BI KỊCH NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Giảng viên hướng dẫn Sinh viên thực hiện Ths. Hồ Thị Xuân Quỳnh Huỳnh Dương
  3. LỜI CẢM TẠ Sau thời gian học tập, nghiên cứu, tôi đã hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến thầy cô ở trường Đại học Võ Trường Toản đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, và các thầy cô thỉnh giảng đã giảng dạy tôi trong suốt khóa học. Đặc biệt, tôi xin kính gửi lời cảm ơn tới cô Hồ Thị Xuân Quỳnh, người đã hướng dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành khóa luận một cách tốt nhất. Đồng thời, tôi cũng gửi lời cám ơn đến gia đình và bạn bè, những người đã giúp đỡ và động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài. Trân trọng cảm ơn! Sinh viên thực hiện Huỳnh Dương
  4. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn do tôi thực hiện không trùng với bất cứ tài liêu nào đã có, và luận văn là do chính bản thân tôi thực hiện, nghiên cứu, tổng hợp phân tích. Sinh viên thực hiện Huỳnh Dương
  5. MỤC LỤC Phần một - PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài………………............................................................................1 2. Lịch sử vấn đề…………………………………………………….…………......2 3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………....5 4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………………….….....6 5. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………….7 Phần hai - Phần nội dung: CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TÁC GIẢ NAM CAO 1.1 Một số nét về nhà văn Nam Cao (1917-1951) 1.1.1 Tiểu sử…………………………………………………………………………9 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao...................................................................12 1.1.2.1 Thời kỳ trước cách mạng tháng Tám………………………………...……..12 1.1.2.2 Thời kỳ sau cách mạng tháng Tám…………………………………………14 1.2 Quan niệm sang tác……………………………………………………………15 1.3 Đề tài người nông dân – một trong những đề tài lớn trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao. …………………………………………………………………16 1.4 Khái niệm về cái bi ………………………………………………..………….26 CHƯƠNG 2: BIỂU HIỆN BI KỊCH CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO 2..1 Tình cảnh của người nông dân ……………………...……………………...30 2.1.1 Luôn làm việc vất vả, cực nhọc……………………………………….………30 2.1.2 Luôn bị cái đói hành hạ…………………………………………………....…36. 2.2 Biểu hiện bi kịch ....................................................................…………………38 2.2.1 Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người……………………....………………….38 2.2.2 Bi kịch vỡ mộng……………………………………………...……………….46
  6. 2.2.3 Bi kịch tự ý thức………………………………………………...…………….48 CHƯƠNG 3: NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT GÓP PHẦN KHẮC HỌA BI KỊCH CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN 3.1 Nghệ thuật miêu tả nhân vật 3.1.1 Nghệ thuật miêu tả ngoại hình…..……………………………………………51 3.1.2 Nghệ thuật miêu tả nội tâm….......……………………………………………54 3.1.3 Nghệ thuật miêu tả hành động, cử chỉ………………………………………...58 3.2 Giọng điệu 3.2.1 Giọng điệu kể lể, thống thiết……………………………………………….…60 3.2.2 Giọng điệu cảm thông, chia sẻ.........................................................................64 3.2.3 Giọng điệu trân trọng và trìu mến.....................................................................67 3.2.4 Giọng điệu xót xa và đau đớn...........................................................................68 3.2.5 Giọng điệu lạnh lùng và chua chát....................................................................70 Phần ba - Kết luận Kết luận Tư liệu tham khảo
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Như chúng ta đã biết bối cảnh lịch sử xã hội giai đoạn 1930-1945 vô cùng tăm tối và cả dân tộc chìm đắm trong đêm trường nộ lệ. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khốn khổ, lầm than. Bằng cảm quan hiện thực nhạy bén và trái tim nhân đạo cao cả, Nam Cao đã hướng ngòi bút của mình vào tận ngõ ngách, góc khuất để phản ánh cuộc sống tăm tối bần cùng của xã hội lúc bấy giờ. Vì thế khi nhắc tới sáng tác của Nam Cao là nói đến sự phong phú và đa dạng của một ngòi bút đầy tài năng. Hai đề tài chính trong sự nghiệp sáng tác của Nam Cao đó là đề tài người nông dân, những con người “thấp cổ bé họng” và trí thức tiểu tư sản. Người viết chọn đề tài :”Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước 1945” xuất phát từ lòng yêu mến, cảm phục tài năng và quan điểm vì nghệ thuật của Nam Cao. Nhà văn với thái độ dám nhìn vào sự thật nên đã có những trang viết thật độc đáo và sâu sắc về cuộc sống của những con người sống trong xã hội đen tối giai đoạn 1930-1945. Nam Cao suốt đời chiến đấu với cái ác cái xấu để bảo vệ cái tốt đẹp và bảo vệ tuyên ngôn nghệ thuật mà ông đã đặt ra cho đời mình “ Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng nó làm cho người gần người hơn.” (Đời thừa). Nam Cao đã góp phần đáng kể vào việc hình thành nhân cách của những người cầm bút chân chính. Bên cạnh sự yêu thích muốn tìm hiểu về tác giả Nam Cao, người viết chọn đề tài này cho thấy được sự mới mẻ và độc đáo cũng như sự chân thành của ngòi bút hiện thực Nam Cao khi viết về người nông dân. So với các nhà văn hiện thực cùng thời đều viết về cái khổ, về vật chất nhưng Nam Cao có phần tiến bộ hơn, khi ông tìm hiểu cái khổ về mặt tinh thần. người nông dân sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến không những thiếu thốn về mặt vật chất mà thiếu thốn về cả mặt tinh thần. cái khổ về vật chất có thể nguôi ngoai được nhưng cái khổ về mặt tinh thần thì nó lại càng đáng sợ hơn. 1
  8. 2.Lịch sử vấn đề Hai mảng đề tài khơi nguồn bất tận cho biết bao thế hệ độc giả muốn tìm tòi, nghiên cứu về tác phấm của Nam Cao là đề tài tri thức tiểu tư sản và đề tài người nông dân . Mỗi nhà nghiên cứu đều có một cách nhìn, cách cảm riêng khi nghiên cứu về những “đứa con tinh thần” của Nam Cao. Đặc biệt ở đây người viết muốn tìm hiểu những bài nghiên cứu về đề tài người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao để lấy đó làm tư liệu quý báu cho quá trình nghiên cứu về đề tài: “Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước 1945”. Đầu tiên xin được tìm hiểu những bài nghiên cứu về đề tài người nông dân ở phương diện nội dung. Trong quyển Nam Cao đời văn và tác phẩm, Nxb Văn học , năm 1997 của Hà Minh Đức, tác giả nghiên cứu những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao với những cuộc đời, những số phận bi thảm, đáng thương của những con người “thấp cổ bé họng” trong chế độ thực dân nửa phong kiến. Hà Minh Đức đã đi vào phân tích, đánh giá, đưa ra những dẫn chứng chi tiết đề làm bật nổi lên số phận bi thảm của người nông dân: “Bằng cách thể hiện chân thật những cảnh đời tủi cực, nghèo khổ nơi xóm thôn, Nam Cao đã đề cập được quá trình bần cùng hóa. Kết quả khốc hại của chế độ bóc lột người, của một bộ máy thống trị vô cùng hà khắc” [4; tr.52]. Nội dung thể hiện chủ yếu trong bài viết là nói về nỗi khổ, nỗi đau cùng cực của người nông dân mà nguyên nhân sâu xa là do chế độ xã hội gây ra. Và làng Vũ Đại như là một hoàn cảnh điển hình trong những sáng tác viết về người nông dân của Nam Cao. Vì làng Vũ Đại là nơi bộc lộ những ung nhọt và những cảnh tượng đáng thương của những kiếp người sống trong xã hội Việt Nam giai đoạn tiền cách mạng. Hoàng Ngọc Hiến khi nghiên cứu những tác phẩm viết về người nông dân của Nam Cao, ông cũng có bài viết “Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của truyện Chí Phèo” trong quyển Văn học và văn học, Nxb Văn học – H năm 1997. Hoàng Ngọc Hiến đã nhận xét “Trong “Chí Phèo” qua cuộc sống của làng Vũ Đại, tác giả đã làm nổi bật một số nét cơ bản trong hoàn cảnh lớn của nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Bọn thống trị cũng như người lao động bị tha hóa, những chất độc ở ngay trong sự sống thấm vào máu từng người, vùi dập những gì tốt đẹp và kích thích những gì nhỏ nhen, xấu xa trong con người” [14; tr.196]. Hay trong quyển Nam Cao – Đời văn và tác phẩm , 2
  9. Nxb Văn học năm 1998, Nguyễn Văn Hạnh khi nghiên cứu về đời sống của người nông dân thông qua những sáng tác của Nam Cao thì ông có nhận định sau: “Họ thuộc thế giới của những người cùng khổ ở “dưới đáy” của xã hội, những con người bị tha hóa, bị què quặt, cả về thể xác lẫn tinh thần, bị áp bức, bị hành hạ vì tối tăm mặt mũi lo chạy ăn từng bữa , vì sự bế tắt mục ruỗng của xã hội, vì sự hèn nhát, sợ hãi của chính mỗi người” [15; tr.179]. Cũng nói về vấn đề nhân cách của người nông dân khi phải đối mặt với cái đói cái nghèo thì Lê Đình Kỵ đã viết: “Nam Cao đã diễn tả với một sức mạnh lạ thường quá trình lưu manh hóa của một số quần chúng cơ bản trong hoàn cảnh bị đè nén, áp bức, bốc lột của xã hội cũ” [16; tr.108]. Đau xót và thương cảm trước nỗi đau bị tước đoạt nhân phẩm của người nông dân, Vũ Dương Quỹ đã đi vào nghiên cứu về những quá trình đi tìm lại nhân cách bị đánh mất: “Miêu tả số phận người nông dân chính là quá trình đi tìm nhân cách của họ” [16; tr.185]. Tác giả đã định nghĩa con đường tìm nhân cách mà nhà văn Nam Cao hướng nhân vật của mình vươn tới: “Chí Phèo – Con đường tìm nhân cách của người thanh niên Chí Phèo là đi tìm lại cuộc đời” [16; tr.185] hay “Con đường thứ hai đi tìm nhân cách là con đường của Lão Hạc (trong truyện ngắn Lão Hạc) xin tạm gọi là con đường của tình thương và danh dự” [16; tr.186 – 187]. Từ nguyên nhân nghèo khổ, bị xã hội áp bức, người nông dân đã không giữ được nhân phẩm của mình trước hoàn cảnh nên họ bị biến chất, bị tha hóa và lâm vào bi kịch của những con người bị bần cùng hóa, bị lưu manh hóa. Lê Đình Kỵ đã xót xa, thương cảm đối với quá trình con người bị tha hóa biến chất và ông đã cảm thông sâu sắc với nỗi đau của họ: “Quần chúng nghèo khổ dù hiện ra dưới màu sắc sáng sủa hay u ám, ý nghĩa khách quan của truyện ngắn Nam Cao vẫn là một: phải cứu lấy cuộc sống, phải cứu lấy con người” [16; tr.110]. Tiếp theo người viết đi vào tìm hiểu những ý kiến và những công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu về phương diện nghệ thuật trong những truyện ngắn viết về người nông dân trước cách mạng tháng tám 1945 của Nam Cao. Trong quyển Văn học Việt Nam hành trình của thế kỉ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1997, Phong Lê cũng tìm tòi và nghiên cứu về giá trị tố cáo xã hội qua những tác phẩm của Nam Cao. Phong Lê không đi vào hai mảng đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao là viết về người nông dân và trí thức tiểu tư sản, ở đây Phong Lê đi sâu vào nghiên cứu những cái nghịch dị trong những sáng tác của Nam Cao. Ông đi sâu vào nghiên cứu tác phẩm Chí Phèo và Sống mòn. Qua 3
  10. việc tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật người nông dân của Nam Cao thì Phong Lê đã phát hiện được những nét mới trong những sáng tác của Nam Cao là ông đã đi sâu với những cái vặt vãnh của cuộc sống đời thường: “Nam Cao và Sê Khôp đều tìm về một chủ nghĩa hiện thực của đời thường, soi chiếu các giá trị phổ quát của đời sống vào “những chuyện không muốn viết”, vào những điều tưởng như chi li vặt vãnh” [17; tr.252]. Tuy nhiên, từ những chi tiết nhỏ nhặt, đời thường mang những nét rất riêng đã có một ý nghĩa khái quát thật sâu sắc: “Vũ Đại – không chỉ gợi một đơn vị làng với những ao chuôm, những lũy tre, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự biểu hiện chung cho sự phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể dân cư nào đó, cả nông thôn và thành thị” [17; tr.255]. Từ những hình ảnh của những người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao, chúng ta như thấy được cả một xã hội đang ngột ngạt đen tối và đang quằn quại trong đêm trường nô lệ dưới sự thống trị của thực dân nửa phong kiến. Cuộc sống của những người nông dân vô cùng nghèo đói, khổ cực và tủi nhục. Nhà văn Nam Cao đã thấy được cảnh nghèo túng, bần cùng của họ và ông có một cái nhìn rất trân trọng và cảm thông đối với những người nông dân. Hay trong quyển Văn học Việt Nam 1990 – 1945, Nxb Giáo dục năm 1997, Phan Cự Đệ đã có nhận xét về ngòi bút hiện thực của Nam Cao “Những tác phẩm của Nam Cao đã phản ánh chân thực cuộc sống ngột ngạt, đen tối của xã hội thực dân phong kiến, và thể hiện sinh động thân phận khổ đau, bế tắc của những người tiểu tư sản nghèo và nông dân những năm 1940 – 1945” [18; tr.471] và Nam Cao là “Người thư kí trung thành của thời đại, với một bút pháp riêng đầy sáng tạo, Nam Cao đã đặt ra trước người đọc hàng loạt vấn đề: những cảnh đời éo le, chua chát, những bi kịch đau đớn, vật vã. Thông qua những sáng tác của mình, Nam Cao đã phản ánh cái khung cảnh ngột ngạt, tâm tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng tám” [18; tr.475]. Một nhận định cũng không kém phần quan trọng cảu Trần Đăng Suyền “Nam Cao – Nhà văn hiện thực xuất sắc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn” – Tạp chí văn học số 6 năm 1998, ông viết “Nam Cao là một trong những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông để lại càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo” [19; tr.63]. Và trong quyển Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Nxb Khoa 4
  11. học xã hội năm 2008 của Trần Đăng Suyền, ông đi vào khám phá thế giới nghệ thuật trong những sáng tác của Nam Cao “Những nhân vật của Nam Cao là những “con người nhỏ bé”, những con người bình thường trong cuộc sống hằng ngày. Nhà văn, với một sự cảm thông lớn lao đã chăm chú quan sát cuộc sống hằng ngày của nhân vật. Cái đói, sự nghèo khổ, bệnh tật, tất cả những cái đó cứ đeo đuổi, cứ bám riết trên con đường đời của họ. Trong những hoàn cảnh như vậy, với một sức mạnh nghệ thuật đặc biệt, Nam Cao đã làm sống dậy thật cụ thể, sinh động, đầy ám ảnh những cuộc đời và số phận, những nét tâm lí và tính cách của nhân vật. Chủ nghĩa tâm lí của sự trần thuật đã chi phối mạnh mẽ và sâu sắc đến toàn bộ tổ chức của tác phẩm, từ cốt truyện, kết cấu, xung đột đến không gian và thời gian nghệ thuật” [20; tr.41 – 42]. Nhìn chung, các bài nghiên cứu trên của các tác giả thì đều có điểm chung là: đều nói về cái khổ về cuộc sống vật chất và cái khổ về cuộc sống tinh thần của người nông dân trong những sáng tác của Nam Cao. Các tác giả đưa ra hàng loạt những cái khổ của người nông dân khi sống trong chế độ thực dân phong kiến. Và những tác động ghê gớm của cơ chế xã hội đó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc sống của những người nông dân và ảnh hưởng đến cả một bộ mặt xã hội nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ. Nó đã đẩy đời sống của người dân rơi vào cảnh bần cùng, ngõ cụt và không lối thoát. Đồng thời các tác giả còn làm bật nổi lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của nhà văn Nam Cao trong những sáng tác viết về đề tài người nông dân. 3.Mục đích nghiên cứu: Hình ảnh người nông dân được các nhà văn khắc họa một cách chân thật, sinh động qua ngồi bút hiện thực đầy sáng tạo và độc đáo. Mỗi nhà văn có cái nhìn riêng về người nông dân. Các nhà văn hiện thực phê phán tuy cùng cảm quan hiện thực nhạy bén nhưng việc thành công của những trang viết còn phụ thuộc rất nhiều vào tài năng, tấm lòng và sự nhiệt huyết của từng ngồi bút. Đặc biệt Nam Cao có những trang viết về người nông dân rất đa dạng, phong phú và chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi viết về người nông dân thì Nam Cao thường viết về người nông dân rất đa dạng, phong phú và chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Khi viết về người nông dân thì Nam Cao thường viết về những cái khổ, những bi kịch về số phận của những người nông dân sống trong xã hội thuộc địa nữa phong kiến. Người nông dân bị đàn áp, bị xô đẩy vào 5
  12. những sự cùng cực và rơi vào bi kịch của số phận những người nghèo khổ bất hạnh.Vì thế nhà văn Nam Cao được xem là một trong những nhà văn hiện thực có nhiều sáng tác hay và độc đáo khi viết về mảng đề tài người nông dân. Đặc biệt viết về những cái khổ, cái tủi nhục và những kết cục bi thảm của những số phận bất hạnh của người nông dân. Khi nghiên cứu về đề tài “Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám 1945” người viết dựa trên bình diện so sánh, đối chiếu với những sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp, Bùi Hiển…cũng như những tác phẩm của những nhà văn Tự lực văn đoàn khi viết về đề tài người nông dân như: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo…để thấy được những điểm khác biệt giữa các nhà văn khi viết về người nông dân. Đồng thời, người viết vận dụng cái bi – một phạm trù mĩ học vào việc luận giải cái bi của những cuộc đời các nhân vật nông dân mà Nam Cao đã miêu tả trong những truyện ngắn trước Cách mạng tháng Tám -1945. Từ đó thấy được giá trị hiện thực đặc biệt là giá trị nhân đạo sâu sắc trong truyện ngắn viết về đề tài nông dân trước Cách mạng tháng Tám của nhà văn Nam Cao. Và việc nghiên cứu về đề tài này, người viết nhằm mục đích là để lại tư liệu quý giá cho bản thân trong quá trình công tác sau này. 4.Phạm vi nghiên cứu Từ một nhà văn chân chất, hiền lành và rồi trở thành một người lính anh dũng đã chiến đấu và đã hi sinh vì quê hương Tổ Quốc. Nam Cao đã để lại cho đời những tác phẩm có giá trị vừa mang tính nhân văn về quyền sống của con người, đặc biệt là người nông dân (Lão Hạc, Chí Phèo, Một bữa no, Nghèo, Dì Hảo…) và vừa mang tính tuyên ngôn và quan điểm nghệ thuật (Đời thừa, Giăng sáng, Sống mòn…). Nam Cao đã viết nhiều về hai đề tài về nông dân và trí thức tiểu tư sản đã tạo nên nét riêng trong phong cách sáng tác của Nam Cao. Những sáng tác của Nam Cao thuộc khuynh hướng hiện thực phê phán luôn thu hút nhiều người thích nghiên cứu, tìm tòi và khám phá. Những công trình nghiên cứu về tác gia Nam Cao của những nhà nghiên cứu sẽ góp phần làm cho những thế hệ hôm sau và mai sau sẽ hiểu sâu sắc, đúng đắn về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và những tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Nam Cao. Với tư cách là một người nghiên cứu, người viết chọn nghiên cứu về nhà văn Nam Cao, một phần là muốn đóng góp một ít sự hiểu biết mới mẻ của bản ong về nội dung “bi kịch” được thể hiện trong những sáng tác viết về người nông dân. 6
  13. Đồng thời người viết nghiên cứu về Nam Cao vì muốn tri ân về những đóng góp to lớn và rất ý nghĩa của nhà văn đối với văn học. Và phạm vi nghiên cứu của người viết là những truyện ngắn viết về người nông dân của Nam Cao trước cách mạng tháng tám – 1945: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Đoàn chồng, Mua danh, Một bữa no, Một đám cưới, Tư cách mỏ, Trẻ con không biết đói, Lan Rận, Nửa đêm,…Từ nội dung của những tác phẩm đó, người viết đi sâu vào tìm hiểu những bi kịch trong số phận của những người nông dân sống trong xã hội thực dân phong kiến. Qua đó ta sẽ thấy được giá trị phản ánh hiên thực một cách chân thực và rất cụ thể của Nam Cao. Cũng thông qua đó ta cũng thấy được giá trị hiện thực, giá trị nhân văn, giá trị nhân đạo và những bài học triết lí mà nhà văn gởi gắm vào trong tác phẩm. Do có rất nhiều tài liệu tham khảo liên quan đến đề tài nghiên cứu nhưng người viết cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu. Vì có nhiều người viết về tác giả Nam Cao, viết về những tác phẩm của ông và có nhiều bài viết hay về nhà văn nên người viết e rằng đôi khi có sự lập ý hoặc lập lại những điều mà người khác đã nói trong những bài nghiên cứu trước của họ. Nhưng thay vào đó bằng những cố gắng cũng như ong yêu quí chân thành đối với tác gia Nam Cao thì người viết hi vọng sẽ đạt được nhiều thành công trong đề tài nghiên cứu này và có thể hoàn thành sớm học phần luận văn của mình. 5.Phương pháp nghiên cứu: Mỗi công trình cứu thì tác giả đều lựa chọn cho mình một phương pháp nghiên cứu cụ thể. Vì thế khi người viết chọn nghiên cứu về đề tài: “Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước 1945” thì người viết đã chọn cho mình những phương pháp nghiên cứu phù hợp với đề tài. Vì phương pháp là vũ khí, là công cụ để vạch ra hướng đi, đường lối đúng đắn trong mỗi lĩnh vực của cuộc sống. Và trong lĩnh vực khoa học cũng vậy, muốn đạt được hiệu quả cao cho những công trình nghiên cứu ta phải vạch ra những phương pháp đúng đắn cho cả quá trình nghiên cứu. Phương pháp và mục đích chính là điều kiện đầu tiên và quan trọng trong mọi hoạt động. Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học thì phương pháp được xem là yếu tố quyết định trong việc đánh giá nhìn nhận vấn đề vì nhờ phương pháp mà chúng ta có thể thấy được những quá trình tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo của họ trong những công trình nghiên cứu đó. Trong đề tài nghiên cứu về “Bi kịch người nông dân trong truyện ngắn của Nam Cao trước 1945” thì người viết đã vận dụng 7
  14. những phương pháp nghiên cứu khoa học để truyền tải nội dung mà người viết muốn trình bày về công trình nghiên cứu của mình. Cụ thể những phương pháp nghiên cứu tiêu biểu và có hiệu quả mà người viết đã sử dụng trong bài nghiên cứu gồm có những phương pháp sau: Đầu tiên người viết đọc kỹ những truyện ngắn viết về đề tài người nông dân của Nam Cao, đặc biệt là những truyện ngắn thể hiện “bi kịch” trong đó để nắm được nội dung chính và giá trị của từng tác phẩm cụ thể; thu thập tài liệu có liên quan đến đề tài để hiểu rõ hơn về “bi kịch” và nhất là những “biểu hiện của bi kịch” trong tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao. Từ đó, người viết tập trung vào phân tích từng loại bi kịch qua số phận của người nông dân sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, người viết còn ghi nhận những đóng góp, những nhận định có tính chất khách quan chính xác của những nhà nghiên cứu trước đó để làm cơ sở nền tảng cho việc đưa ra những dẫn luận chung về “bi kịch” là những “buổi hiện của bi kịch” trong sáng tác văn học. Để từ đó người viết đi vào lý giải vấn đề cái bi thông qua từng tác phẩm cụ thể viết về người nông dân do đó, ở đề tài này người viết chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp cùng với những thao tác chứng minh, phân tích, giải thích, bình luận. Đồng thời người viết còn vận dụng phương pháp so sánh, đối chiếu để làm bật nổi vấn đề mà người viết muốn đề cập đến và để làm sáng tỏ những luận điểm mà người viết đã nêu. Người viết cũng đưa ra những dẫn chứng và lý lẽ, kiến thức, kinh nghiệm sống để chứng minh, lập luận những vấn đề tiêu biểu mà người viết trình bày. 8
  15. Phần hai - PHẦN NỘI DUNG Chương 1 CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TÁC GIẢ NAM CAO 1.1. Mấy nét về cuộc đời của nhà văn hiện thực xuất sắc Nam Cao (1917 - 1951) 1.1.1. Tiểu sử Nam Cao tên thật Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1915. Quê ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, Tỉnh Hà Nam (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam). Nam Cao sinh trưởng và lớn lên trong một gia đình trung nông lúc trước có kết hợp buôn bán ít nhiều nhưng về sau bị phá sản. Ông thân sinh Nam Cao có mở một hiệu đồ gỗ ở phố hàn Tiện – Nam Định, sau vì thua lỗ nên cửa hàng vỡ, lại trở về làm ruộng. Gia đình Nam Cao sống khá chật vật, đông anh em và chỉ có một mình Nam Cao được đi học. Từ nhỏ Nam Cao đã được lên Nam Định đi học. Năm 1934, Nam Cao thi trượt Thành Chung. Đầu năm 1935, Nam Cao trở về quê để chữa bệnh. Cũng như đa số thanh niên thời bấy giờ, Nam Cao cưới vợ khi anh mười tám tuổi. Và đó là ngày 2/10/1935 Nam Cao đã lập gia đình với bà Trần Thị Sen. Vợ ông kém hơn ông một tuổi. Hai gia đình ở cùng xã đều sống bằng nghề nông nghiệp nhưng so về kinh tế thì gia đình bên vợ của Nam Cao có phần khá giả hơn. Vợ của Nam Cao là một người vợ hết mực yêu chồng và lo lắng cho chồng nhưng lắm khi cũng khổ vì chồng. Khi vừa cưới vợ xong được một tháng Nam Cao lên Nam Định đi tàu về Sài Gòn sống và làm việc cho một người cậu là ông Ba Lễ, chủ một cơ sở may đồ Tây cho Pháp. Nam Cao là một cậu học trò hiền lành nhút nhát nhưng cũng có nhiều điều mơ mộng nên Nam Cao quyết định theo người cậu vào Sài Gòn sinh sống ấp ủ bao nhiêu ước mơ muốn theo đuổi việc học tập của mình với hi vọng sẽ được sang Tây du học nhằm để mở rộng tằm hiểu biết và để học hỏi “Y sẽ vào Đại học đường, y sẽ sang Tây, y sẽ thành vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến xứ sở mình” (Sống mòn). Và trong những năm sống ở Sài Gòn, Nam Cao phải lăn lộn vất vả để kiếm sống, ngoài việc làm chính thì Nam Cao còn làm rất nhiều nghề khác như chích thuốc ở nhà thương, sống chung với phu phen, thợ thuyền. Chính những năm tháng lao động đầy cực khổ này đã giúp cho Nam Cao nhìn thấy 9
  16. đã hiểu biết về đời sống khổ cực bị đọa đày cả về vật chất lẫn tinh thần của những người lao động mà đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản và nông dân lao động nghèo. Nhưng bao hoài bão bao khát vọng của Nam Cao chưa thực hiện được thì bệnh tật lại đến và hành hạ thân xác Nam Cao. Nam Cao quay về làng cũ lúc này thì hoàn cảnh gia đình lâm vào tình trạng túng quẫn “Lũ em lúc nhút rất đông không được học,không được mặc, thường thường không đến cả ăn, gầy guộc, rách rưới, bẩn thỉu” (Sống mòn), và một ông bố nát rượu. Đến năm 1938, Nam Cao bị ốm nặng do bệnh tim và tê thấp nên ông từ Sài Gòn trở ra Bắc. Đứng trước bao chông gai và trở ngại của cuộc sống nhưng bằng sự kiên cường và lòng quyết tâm đã tiếp thêm sức mạnh cho Nam Cao mạnh dạn ôn lại vốn học cũ và đi thi đậu bằng Thành Chung. Sau đó Nam Cao xin làm công chức nhưng vì sức khỏe yếu nên không được nhận vào làm. Và lúc này ông xin vào làm dạy học trong trường tư thục Công Thanh. Chính môi trường dạy học nhiều vất vả của một thầy giáo trường tư nên Nam Cao một phần nào hiểu rõ hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư sản nghèo dưới chế độ thực dân nữa phong kiến. Năm 1940, khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương thì lúc này Trường Công Thanh bị chúng lấy để làm chuồng ngựa. Lúc này Nam Cao đành lui về sống một cuộc sống đói khổ, cơ cực và tủi nhục cùng với những người nông dân lao động nghèo ở làng Đại Hoàng. Để trang trải cuộc sống và để phần nào giảm nhẹ gánh nặng cho gia đình Nam Cao phải viết văn để kiếm sống. Đồng thời qua tác phẩm đó Nam Cao cũng muốn gửi gắm những tâm tư, tình cảm và cái nhìn của mình đối với thực tại của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1943, Nam Cao tiếp thu đường lối đúng đắn của Đảng Cộng Sản Đông Dương qua đề cương văn hóa 1943 và sự giới thiệu của Tô Hoài, Nam Cao tham gia vào nhóm văn hóa cứu quốc bí mật cùng với Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi…Và từ đó, Nam Cao đã xác định và quan điểm lập trường tư tưởng của mình trong sáng tác gắn liền với “nghệ thuật vị nhân sinh”. Khi cơ sở Văn hóa cứu quốc và Phong trào Cách mạng thanh niên bị giặc khủng bố Nam Cao trở về quê và tham gia phong trào Việt minh ở địa phương. Khi cả nước bước vào cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 đầy cam go và ác liệt, Nam Cao cũng tham gia vào phong trào cướp chính quyền của phủ lý nhân và Nam Cao được bầu làm chủ tịch xã. Sau đó, Nam Cao được lên Hà Nội và công tác ở hội Văn hóa cứu quốc. Có Thời kỳ Nam Cao được làm thư kí tòa soạn Tạp chí Tiên phong. 10
  17. Đây là cơ quan ngôn luận của Hội cứu quốc. Cuộc Cách Mạng tháng Tám thành công rực rỡ, cả dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ chuyển sang thân phận làm chủ đất nước. Nhưng niềm vui thống nhất đất nước không trọn vẹn thì bọn thực dân Pháp đã điên cuồng quay đầu lại xâm lượt đất nước ta một lần nữa. Vào ngày 19/12/1946, theo lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước cùng đứng lên chiến đấu chống lại thực dân Pháp và kháng chiến chống Pháp toàn nước bùng nổ. Nam Cao theo tiếng gọi của quê hương theo đoàn Nam tiến vào Nam Trung Bộ. Năm 1947, ông lên Việt Bắc, những năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ chính là lúc Nam Cao sống và chiến đấu hết mình vì quê hương và tổ quốc. Nam Cao đã tham gia cuộc chiến,va chạm cuộc sống thực tế của cuộc chiến để có những tác phẩm mang giá trị hiện thực và phản ánh đúng cuộc chiến mà cả dân tộc Việt Nam đang đấu tranh chống thực dân pháp. Nam Cao vừa làm biên tập cho báo Cứu quốc Việt Bắc, báo Cứu quốc Trung Ương, vừa là cộng tác viên tuyên truyền thông tin: viết tin, viết tài liệu giải thích các chính sách, làm ca dao tuyên truyền, viết truyền đơn địch vận,…Năm 1948, Nam Cao được vinh dự kết nạp vào hàng ngũ của Đảng Cộng Sản Đông Dương, đây là niềm vinh dự và niềm vui lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của nguời chiến sĩ cộng sản Nam Cao. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu Liên khu Ba, Nam Cao bị một toán địch phục kích và bắn chết gần bốt Hoàng Đan, Ninh Bình. Nam Cao ngã xuống giữa lúc ông đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương. Chuyến đi đó nhà văn lấy tư liệu hoàn chỉnh về tác phẩm Làng nhưng ông không kịp thực hiện được hoài bão và khát vọng của cuộc đời mình . Về con người của nhà văn, Nam Cao là một con người hiền lành, trầm mặc, nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nam Cao rất khổ tâm về cái tật “hãi người” và “cái mặt không chơi được” (tên một truyện ngắn) của Nam Cao. Con người “mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kì thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt”. Trước Cách mạng tháng Tám Nam Cao luôn sống trong tâm rạng đau khổ, u uất, bất đắc chí. Phần vì ốm yếu, thất nghiệp nên Nam Cao sống lay lắt qua ngày bằng nghề viết văn và dạy học – là hai nghề bạc bẽo khi đó. Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần mười năm viết văn trước cách mạng, Nam Cao hầu như không có vị trí trên văn đàn đương thời. Hầu 11
  18. hết những truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi vứt đi vào một xó nào đó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. 1.1.2 Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao 1.1.2.1. Thời kì trước cách mạng tháng Tám 1945 Năm 1936, Nam Cao mới bước vào văn đàn hiện thực phê phán, đây là giai đoạn diễn ra quá trình đấu tranh quan điểm tư tưởng nghệ thuật, cũng như khuynh hướng sáng tác cho mình. Và đây cũng là thời kì mà Nam Cao đang phiêu bạt ở đất lạ quê người. ở sài gòn ông làm đủ nghề để kiếm sống vừa viết báo cho Kịch bóng, tiểu thuyết thứ 7, Ngày nay. Nội dung của những tác phẩm thời kì này xoáy sâu vào cuộc sống của những người kiếm sống bằng nghề mua vui cho người khác “Cảnh cuối cùng” nói về cô đào hát hát đam mê ca hát, suốt đời chỉ biết nghệ thuật nhưng cuối cùng cô đã gục trên sân khấu với cả giọng hát của mình. Và truyện “Hai xác chết” kể về một diễn viên nghèo bị tình phụ và anh ta đã giết chết người tình của mình trong lúc biểu diễn cùng nhau. Những tác phẩm thời kì này chưa được đánh giá cao vì chúng chưa đạt đến độ sắc xảo về nội dung và nghệ thuật. lúc này Nam Cao lấy bút danh là: Nguyệt, Thúy Rư, Xuân Du, Nhiêu Khuê. Năm 1937, ông gửi in trên Tiểu thuyết Thứ bảy: Nghèo, Đui mù. Trên báo Hữu Ích: những cánh hoa tàn, một bà hào hiệp. thông qua nội dung của những tác phẩm này ta thấy được ngòi bút Nam Cao đang đi vào khai thác bản chất của cuộc sống và phản ánh hiện thực cuộc sống. Đây chính là dấu hiệu chuyển mình về khuynh hướng sáng tác trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Từ năm 1940, khi phát xít Nhật tràn vào Việt Nam âm mưu bành trướng sở hữu Đông Dương, trường Tư thục Công Thanh nơi mà Nam Cao đang dạy học bị chiếm đóng. Nam Cao buộc thôi dạy phải về quê và viết truyện ngắn Cái chết của con mình gửi cho báo Hà Nội Tân văn với bút danh Xuân Du. Năm 1941, là năm đánh dấu sự thành công vang dội và khẳng định tên tuổi của Nam Cao trong dòng văn học hiện thực phê phán khi Nam Cao đem trình làng tập truyện ngắn Đôi lứa xứng đôi( bên trong bản thảo là cái lò gạch cũ, sau dược đổi tên la Chí Phèo). Khi tác phẩm này ra đời đã dược sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng chính sự đón nhận ấy đã tiếp thêm nghị lực và niềm tin cho Nam Cao tiếp tục sang tác theo khuynh hướng văn học hiện thực phê phán. Xã hội Việt Nam trong thời kỳ 12
  19. này đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ, nhân dân phải sống trong tối tăm, u tối dưới chế đọ thực dân nữa phong kiến. Bọn thực dân phong kiến cấu kết chặt chẽ với nhau nhằm bóp nghẹt đời sống của nhân dân ta, làm cho nông dân sống trong cảnh bằng cùng, cơ cực và nghèo đói. Chúng còn tranh nhau bốc lột nhân dân ta làm cho nhân dân ta ngày càng bần cùng hóa. Đây chính là thời điểm mà Nam Cao cần phát huy hơn nữa ngồi bút hiện thực của mình. Năm 1942, Nam Cao trở về làng và sáng tác hàng loạt các truyện ngắn như:Cái mặt không chơi được, Nhỏ nhen,Con mèo, Những truyện không muốn viêt, Nhìn người ta sung sướng, Trẻ con không dược ăn thịt chó…đồng thời trong thời gian này ông còn in nhiều truyện ngắn viết cho thiếu nhi: Con mèo mắt ngọc, Những kẻ khốn nạn, Người thợ rèn, Nụ cười, Ba người bạn. Những truyện viết về thiếu nhi thường tập trung miêu tả những cảnh đời lưu lạc, những mảnh đời bất hạnh, những đứa trẻ đầu đường xó chợ thiếu thốn vật chất lẫn tinh thần. Nam Cao đã viết bằng cả trái tim cảm thông thương xót đói với những cảnh đời bất hạnh của những trẻ thơ vô tội. Tháng 4/1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và cho ra đời các tác phẩm như: Mua nhà, Quai dị, Từ ngày mẹ chết, Làm tổ, Thôi đi về, Truyện tình, Mua danh, Một truyện xuvonia, Sau lại như thế này, Mong mưa, Tư cách mõ, Bài học quét nhà, Chuyện buồn giữa đêm vui, Một bữa no, Đời thừa…In trên Tiểu thuyết Thứ bảy. Năm 1944 in truyện ngắn lang rận, Một đám cưới và một truyện dài: Truyện người hàng xóm được in trên tờ Trung Bắc chủ nhật, chia ra làm nhiều kì. Bản thân nội dung của những tác phẩm này không phản ánh xã hội nhưng thông qua những cảnh đời cơ cực, những số phận bi thảm những con người sống trong cảnh đói rách, nghèo khổ sau cùng phải lâm vào tình cảnh bế tắc bần cùng hóa, bị tha háo về tiinh thần lẩn nhân cách cho ta thấy được giá trị tố cáo của tác phẩm này rất cao. Qua đó, Nam Cao đã vạch trần bộ mặt xã hội thối nát đã gây cho người nông dân biết bao nhiêu nỗi mất mát và chua cay vô cùng to lớn. đó là sự căm hờn đối với những chế độ áp bức, bất công và đàn áp cuộc sống con người của các thế lực thống trị. Vào tháng 10/1944, Nam Cao hoàn thành tiểu thuyết “chết mòn”(sau đổi tên thành sống mòn). Bộ tiểu thuyết này là cả một quá trình “sống mòn” của người trí thức tiểu tư sản giữa một xã hội mà suốt ngày phải sống trong cảnh “áo cơm ghì sát đất”, sống trong mối quan hệ xấu tốt giữa con người với con người. Qua sống mòn chúng ta thấy được sức mạnh tố cáo xã hội gay gắt cũng như thấy được khát khao thay đổi cuộc sống tù túng đó. Cuộc 13
  20. sống chặt vật hằng ngày được thể hiện qua những mâu thuẩn và đời sống nội tâm của nhân vật Thứ trong tác phẩm; “ Lòng Thứ đột nhiên hé lên một tia sáng mong manh: Thứ tự thấy hi vọng một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này cuộc sống sẽ dễ chịu hơn, công bình hơn, dễ chịu hơn” (sống mòn). 1.1.1.2 Sau cách mạng tháng Tám 1945 Sau cách mạng tháng Tám thành công, Nam Cao tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng. Năm 1946, ông tham gia vào đoàn quân Nam tiến và tiếp tục viết Nỗi truân chuyên của khách má hồng, Đường vô Nam, Cười. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, trong thời kì này ông sáng tác Nhật kí ở rừng. Cuối năm 1947, tiếp tục viết nhật kí Ở rừng và cho ra mắt tác phẩm Đôi Mắt. Tác phẩm có ý nghĩa như một tuyên ngôn nghệ thuật đanh thép. Tác phẩm nói về cách nhìn nhận vấn đề của các thế hệ nhà văn lúc bấy giờ. Nhà văn phải có cái nhìn đúng đắn và tích cực. Tháng 7/1948, ông viết về Vài ý nghĩ về văn nghệ được đăng trên báo Cứu quốc. Năm 1948 – 1949, Nam Cao đi thực tế ở vùng đồng bằng, sáng tác truyện ngắn Bốn cây số cách một căn cư địch. Tháng 5/1950, ông nhận công tác và làm việc ở tạp chí Văn nghệ Việt Nam, ông đã viết tiểu thuyết Trận đầu về du kích đồng bằng nhưng ông phải bỏ dở dang vi ông chưa thu thập tài liệu thực tế để viết. Sau đó ông đi chiến dịch và viết truyện Chuyện biên giới. Năm 1951, in tập truyện kí Chuyện biên giới và kịch bản Đóng góp. Ngày 23/9/1951, Nam Cao cùng Nguyễn Huy tưởng dự hội nghị liên khu Ba. Sau đó, ông lên liên khu Bốn, rồi tham gia vào đoàn công tác thuế nông nghiệp vào vùng địch khu ba. Nam Cao có dự định vừa đi làm nhiệm vụ vừa thu thập tài liệu thêm đề hoàn thành cuốn tiểu thuyết thai nghén của mình nhưng chưa thực hiện được mong ước của mình thì ông đã bị kịch phục kích và hy sinh ngày 30/11/1951. Cả hai thời kì trước và sau cách mạng Tháng Tám 1945 thi Nam Cao đều có những sáng tác xuất sắc. Tuy ở thời kì đầu còn ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn nhưng sau đó Nam Cao nhanh chóng chuyển ngòi bút của mình sang chủ nghĩa hiện thực. Vì thế khi nhắc tới Nam Cao người ta thường nghĩ vai trò của ông la một nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc giai đoạn 1930 – 1945. Cuộc đời của Nam Cao tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại cho chúng ta những tác phẩm hết sức xuất sắc góp phần to lớn vào kho tàng văn học nước ta. Chiến tranh đã cướp đi Nam Cao, 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1