Luận văn nghiên cứu các xu hướng phát triển của báo chí thế giới - GVHD : Bùi Tiến Dũng
lượt xem 178
download
Theo từ điển tiếng Việt (Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 1992 - trang 1135), “Xu hướng” có nghĩa là xu thế thiên về một chiều nào đó. Sự thiên về những hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài. Từ định nghĩa đó, ta có thể hiểu Xu hướng báo chí đó là xu thế thiên về một chiều hướng nào đó của báo chí, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng trong thời gian dài. Tác động đến hệ thống báo chí của thế giới....
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn nghiên cứu các xu hướng phát triển của báo chí thế giới - GVHD : Bùi Tiến Dũng
- MÔN: LỊCH SỬ BÁO CHÍ THẾ GIỚI Đề bài: Các xu hướng phát triển của báo chí thế giới Giảng viên : Th.S Bùi Tiến Dũng Hà Nội, 5/2008 MỤC LỤC KHÁI QUÁT CHUNG..........................................................................................................................2 CHƯƠNG II – XU HƯỚNG CỤ THỂ VỚI TỪNG LOẠI HÌNH..................................................29 TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................93 DANH SÁCH NHÓM 6 LỚP K50 BÁO CHÍ – ĐH KHXHNV.......................................................94
- KHÁI QUÁT CHUNG Theo từ điển tiếng Việt (Viện khoa học xã hội Việt Nam năm 1992 - trang 1135), “Xu hướng” có nghĩa là xu thế thiên về một chiều nào đó. Sự thiên về những hoạt động nào đó nhằm một mục tiêu có ý nghĩa đối với bản thân trong một thời gian lâu dài. Từ định nghĩa đó, ta có thể hiểu Xu hướng báo chí đó là xu thế thiên về một chiều hướng nào đó của báo chí, có mục tiêu, ý nghĩa và ảnh hưởng trong thời gian dài. Tác động đến hệ thống báo chí của thế giới. Báo chí từ ngày đầu ra đời đã liên tục có những thay đổi để tiến xa hơn. Từ tờ báo chỉ là những bản chép tay rồi đến những bản báo in đầu tiên và phát triển cho tới đa phương tiện như ngày nay, tất cả điều đó đều là kết quả của quá trình phát triển lâu dài với nhiều thách thức. Tùy theo điều kiện lịch sử và xu hướng của công chúng, hệ thống báo chí có những bước đi riêng của mình để đáp ứng lại những điều đó. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, báo chí cũng chịu phần nào ảnh hưởng. Việc nghiên cứu các xu hướng của báo chí thế giới sẽ góp phần hiểu rõ hơn đặc điểm, thực trạng của nền báo chí toàn cầu hiện nay. Qua đó có cách thức, giải pháp cho phù hợp với tình hình chung. Được giao tìm hiểu về các xu hướng phát triển của báo chí thế giới, nhóm 6 phát triển đề tài theo hướng tìm hiểu chung về các xu hướng đang diễn ra trên thế giới, rồi đi cụ thể vào từng loại hình báo chí. Trong quá trình tìm hiểu, nhóm cố gắng lý giải nguyên nhân và điều kiện dẫn tới các xu hướng đó và dự đoán hướng phát triển trong tương lai. So sánh các xu hướng đó với thực tại nền báo chí Việt Nam. Trong quá trình tìm hiểu sẽ không tránh khỏi những thiếu xót, mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn. 2
- CHƯƠNG I – XU HƯỚNG CHUNG CỦA BÁO CHÍ THẾ GIỚI 1. Toàn cầu hóa thông tin Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa thông tin đó là quá trình thông tin ở khắp mọi nơi trên thế giới được truyền tải liên tục, nhiều chiều và dễ dàng tới cho công chúng. Ngày nay, ở bất kì đâu bạn cũng đều có thể nắm bắt được toàn bộ thông tin của thế giới trong ngày qua. Đó là kết quả của quá trình toàn cầu hóa thông tin. Thông tin tại mọi ngóc ngách của trái đất được các hãng truyền thông cung cấp một cách nhanh chóng và chính xác tới cho mỗi công dân. Bạn đang ngồi ở nhà và có thể theo dõi tình hình đang diễn ra ở Iraq hay ở Mĩ, hay như tình hình giá xăng dầu trên thế giới hiện nay… điều sẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của bạn 1.1 Điều kiện hình thành toàn cầu hóa thông tin Những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trong các lĩnh vực đăng tải, in ấn tạp chí, báo, sự phát triển các công nghệ phát thanh truyền hình và đặc biệt là internet đã cho phép những thông tin từ một quốc gia có thể được biết đến trên toàn thế giới. Quá trình toàn cầu hóa thông tin được gắn với những thành tựu mới nhất trong kỹ thuật thông tin liên lạc và điện tử. Thông tin trong khoảnh khắc được truyền tải tức thời tới cho người xem và người đọc. Điều đó cho phép hàng triệu người được chứng kiến và tham gia vào các sự kiện. Mạng internet bao phủ toàn cầu, nhờ đó mà người sử dụng có khả năng nhận được thông tin cần thiết từ các hãng tin một cách dễ dàng. Sự xâm nhập của tiến bộ khoa học kĩ thuật vào các hoạt động báo chí là điều rõ ràng và dễ nhận thấy. Việc áp dụng rộng rãi kỹ thuật điện tử, truyền tải dữ liệu xuyên biên giới, việc hình thành mạng lưới thông tin toàn cầu đã góp phần đưa tin tức nhanh chóng tới công chúng. Điều đó là cần thiết cho một xã hội đang phát triển nhanh. 3
- Một điều kiện thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa nữa là nhu cầu thông tin của công chúng ngày một gia tăng. Các cơ quan báo chí muốn đáp ứng nhu cầu đó thì cần phải đẩy mạnh việc khai thác sự đa dạng của thông tin, không thể bó hẹp thông tin trong phạm vi một quốc gia hay một khu vực. 1.2 Biểu hiện của toàn cầu hóa thông tin Biểu hiện rõ nhất là việc hình thành rất nhiều hãng thông tấn, hãng tin chuyên khai thác tin tức trên khắp thế giới rồi bán lại cho các cơ quan thông tấn trên thế giới. Với sự chuyên biệt này, các cơ quan báo chí chỉ cần mua lại tin từ các hãng thông tấn đó là có thể có đủ tin tức trên thế giới cung cấp cho công chúng của mình. Biểu hiện thứ hai đó là thông tin ở mọi nơi được cập nhật liên tục và nhiều chiều. Nếu như trước kia, chỉ những thông tin quan trọng và có ảnh hưởng lớn mới được đề cập, thì ngày nay những thông tin về những con người bình thường ở mọi nơi đều có thể được nhắc tới. Thông tin về những nhân vật nổi tiếng không còn chỉ là thông tin riêng của một quốc gia mà đã trở nên nguồn tin nóng cho những người quan tâm trên thế giới. Tuy nhiên một vấn đề đặt ra là liệu các thông tin được toàn cầu hóa đó liệu có trung thực? Các chuyên gia đã nhận xét, quốc gia nào làm chủ được thông tin thì quốc gia đó sẽ giành chiến thắng. Không ai dám chắc những thông tin mà các hãng tin đưa ra không mang màu sắc chính trị, phục vụ cho một đảng phái, một nền chính trị nào đó. Điều đó là dễ hiểu trong thời đại thông tin có vai trò quan trọng như ngày nay. Các chính phủ phải điều tiết các dòng thông tin trong tầm kiểm soát của họ, đưa ra những tin tức có lợi và theo những mưu đồ chính trị được tính toán kĩ. Không thể phủ nhận những thành tựu của công cuộc toàn cầu hóa thông tin đem lại. Truyền hình, phát thanh, internet, báo chí đã và đang tác động về tình cảm, tư tưởng của công chúng tiếp nhận thông tin, bất kể khoảng cách từ họ tới nguồn thông tin là bao nhiêu. Sự kết hợp giữa thông tin toàn cầu và lợi ích khu vực làm 4
- cho hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trở nên hữu hiệu hơn nếu xét từ góc độc hình thành và thao túng công luận. 2. Quốc tế hóa báo chí Trong bối cảnh thông tin toàn cầu đang phát triển, các tập đoàn truyền thông, các cơ quan báo chí đều muốn đẩy mạnh ảnh hưởng của mình tở các quốc gia khác. Chính vì vậy mà họ cố gắng đưa tờ báo của mình ra khỏi khuôn khổ của một quốc gia. Quốc tế hóa báo chí là hình thức mà một tờ báo, ấn phẩm báo chí được phát hành ở nhiều quốc gia, hoặc phát hành ở quốc gia này nhưng được bán ở quốc gia khác. 2.1 Biểu hiện của quốc tế hóa trong lĩnh vực báo in • Báo chí in ấn ở nước này, nhưng lại được phát hành ở nhiều nước trên thế giới. • Báo chí in ấn ở nhiều nước cùng một lúc (thí dụ Nhân dân Nhật báo của Trung quốc, tạp chí Tuyển tập (Readers Digest) • Hai nước liên kết với nhau xuất bản một số báo • Cơ quan báo chí mở nhiều chi nhánh ở nước ngoài • Các tập đoàn báo chí phát triển những tờ báo cho khu vực riêng với ngôn ngữ của khu vực đó. 2.2 Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực phát thanh • Biểu hiện lớn nhất trong lĩnh vực phát thanh đó là xu hướng phát sóng ra nước ngoài của các tổ hợp truyền thông. • Có tổng số: 80 đài phát thanh ra nước ngoài, phát thanh tới 20.000 giờ trong tuần, bằng 48 thứ tiếng, phủ sóng toàn cầu. • Một số đài tiêu biểu như : - VOA của Mỹ phát 2001 giờ/ tuần với 40 thứ tiếng - BBC của Anh phát khoảng 120 giờ/ ngày với 38 thứ tiếng - Làn sóng Đức phát 100 giờ/ ngày, với 40 thứ tiếng 5
- - Đài CRI (Trung quốc) phát sóng 680 giờ/ngày với 43 thứ tiếng • Những điểm cần chú ý về nội dung: - Đài phát thanh ra nước ngoài của các nước không có lợi cho nước chủ nhà về mặt kinh tế nhưng quan trọng về mặt chính trị nên được nhà nước quan tâm - Về cơ cấu tổ chức có nét đặc biệt (có phòng PR - nghiên cứu nhu cầu công chúng, ban dạy tiếng nước ngoài) - Những nội dung cần chú ý trong thông tin của các nước tư bản qua đài phát thanh: • Mô tả các nước tư bản giàu có thanh bình, là mô hình của nhiều nước vươn tới. • Không đưa ra đầy đủ những mặt trái, mặt tiêu cực của xh TBCN để công chúng phê phán • Đồng nhất mục tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa với chủ nghĩa cộng sản • Phê phán chủ nghĩa Mác , chống phá các nước XHCN, tăng cường các chiến lược diễn biến hòa bình 2.3 Biểu hiện quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực truyền hình • Lợi thế của thông tin trong lĩnh vực truyền hình đó là sử dụng hình ảnh • Xu thế nhiều đài truyền hình trên thế giới phát các chương trình truyền hình đối ngoại • Tăng cường các chương trình phát hình gắn với lồng tiếng hoặc có chữ dịch hiện trên màn hình • Hình thành nhiều đài truyền hình của khu vực, đài truyền hình cho châu lục, hoăc đài của các tập đoàn báo chí dành riêng cho khu vực. 2.4 Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực thông tấn • Thu thập thông tin nước ngoài đầy đủ, chính xác là nghĩa vụ và trách nhiệm của các hãng thông tấn • Đa dạng hóa các loại hình thông tin: hình ảnh, âm thanh, các văn bản... • Số lượng ấn phẩm báo ảnh càng ngày càng phát triển 6
- • Liên kết các hãng thông tấn quốc tế 2.5 Biểu hiện của quốc tế hóa báo chí trong lĩnh vực báo mạng • Hình thành những trang web của các cơ quan báo chí. • Các phiên bản của báo in được cập nhật thông tin nhanh chóng • Hình thành những dịch vụ thông tin mới như chat, thư điện tử, điện thoại qua mạng • Thông tin nhanh chóng, vượt qua mọi trở ngại về không gian và thời gian, • Cần có trình độ cao để có thể loại bỏ thông tin nhiễu, thông tin không có độ tin cậy, thông tin rác rưởi. 3. Thương mại hóa báo chí Khái niệm thương mại hóa báo chí hiện nay vẫn còn có nhiều tranh cãi. Có nhiều người cho rằng không nên dùng từ thương mại hóa đối với báo chí, vì điều đó có thể gây hiểu sai là các tờ báo đang “lá cải hóa” Tuy nhiên nhóm cũng xin tự đưa ra cách hiểu của mình về “thương mại hóa báo chí”. Đó là một quá trình mà các cơ quan báo chí tìm cách tăng thu nhập cho mình bằng các hoạt động kinh tế khác bên cạnh việc kinh doanh các loại hình báo chí thông thường. Đó có thể là các hoạt động quảng cáo cho các sản phẩm, thâu tóm các khâu trong quá trình làm báo: in ấn, phát hành… phát triển thêm các dịch vụ giá trị gia tăng trên tờ báo hoặc cũng có thể tham gia và các lĩnh vực kinh tế khác. 3.1 Điều kiện hình thành thương mại hóa báo chí Sau cuộc “cách mạng thương mại” những năm 1830 – 1840, các phương tiện thông tin đại chúng trở thành những doanh nghiệp tư bản sinh lời, vì vậy bản thân chúng cũng chịu sự tác động của tất cả các quy luật của hoạt động kinh doanh: cạnh tranh và hạn chế cạnh tranh, tập trung hóa, độc quyền hóa và những luật lệ khác. Tất cả những điều đó để lại dấu ấn trong hoạt động báo chí hằng ngày và hoạt động của những tổ chức hữu quan. Chính vì sau “cuộc cách mạng thương mại”, những nguồn thu của báo chí định kỳ chủ yếu đến từ quảng cáo chứ không phải từ số lượng phát hành nên những tổ chức đặt in quảng cáo bắt đầu hướng 7
- đến những ấn phẩm có số lượng phát hành cao nhất. Điều đó làm cho các nhà báo phải thay đổi nội dung và cách trình bày ấn phẩm. Trong lĩnh vực kinh tế thị trường và trong bối cảnh tương mại hóa toàn cầu, hầu như mọi lĩnh vực nghề nghiệp đều chịu ảnh hưởng của lợi ích về quảng cáo và thương mại. Họ nhận ra vai trò của quảng cáo trên báo chí đối với tư duy của khách hàng. Báo chí cũng nhận ra điều đó. Nhà tài phiệt truyền thông như Rupert Murdoch đã cho chúng ta thấy kinh doanh từ các loại hình truyền thông đem lại lợi nhuận khổng lồ như thế nào. Hoạt động tổ chức của mọi phương tiện thông tin đại chúng đều nhằm đạt được hiệu quả cao về phương diện kinh tế - tài chính, cũng như các phương diện tư tưởng. Nếu chỉ xét về phương diện kinh tế của vấn đề thì cần nêu rõ rằng để đạt được mức sinh lời cao khâu quản lý ở các báo và tạp chí, các đài phát thanh truyền hình cũng phải được xây dựng theo những nguyên tắc giống như những nguyên tắc trong điều hành các doanh nghiệp. 3.2 Biểu hiện của thương mại hóa báo chí Hiện nay những nguồn thu chủ yếu của mọi ấn phẩm đều gồm: - Những khoản thu tài chính từ quảng cáo - Những khoản thu nhờ bán báo, phát sóng… - Những khoản thu từ các hoạt động thương mại dưới các hình thức khác - Những khoản tiền đóng góp từ bên ngoài. Và nền tảng cho những khoản thu bằng tiền này là khoản thu từ quảng cáo đem lại. Từ khi khai sinh, mục đích thương mại của báo in đã rất rõ rằng. Tờ Anzeiger (người quảng cáo) xuất bản ở Dresden (Đức) năm 1730, theo nhà nghiên cứu Anthony Smith, đã tự cho mình là phục vụ tất cả những ai trong hay ngoài thành phố muốn mua bán, cho thuê hay đi thuê, cho vay hay đi vay. Ở Mỹ, trong thời gian thuộc địa, thương mại đó là một yếu tố tiên quyết của báo chí. Nhu cầu về buôn bán hàng hóa tiêu dùng, đặc biệt thông tin về những tuyến tàu chở hàng từ 8
- bên kia đại dương đã để lại kết quả là các tờ báo ban đầu hầu hết gắn với từ “người quảng cáo” (Advertiser) trên vi-nhét. Bất kì một tờ báo nào, một tạp chí hoặc một ấn phẩm niên giám nào cũng dành một vài trang cho quảng cáo. Hiện chính quảng cáo là nguồn thu chủ yếu của ấn phẩm. Tùy thuộc vào điều kiện phát hành, truyền thống dân tộc và tình hình kinh tế, ở từng nước các khoản thu từ quảng cáo của các phương tiện thông tin đại chúng có khác nhau. Ở Tây Ban Nha là khoảng 80%, ở Mỹ là 75% và ở Pháp là khoảng 60% Sức ép về kinh tế đã buộc các cơ quan báo chí bước vào cuộc cạnh tranh dữ dội để thu hút độc giả, thay đổi trong cách thu hút quảng cáo. Nhiều cơ quan đã tiến hành hàng loạt chiến lược để thương mại hóa sâu xa hơn ngành công nghiệp này, khiến cho các mối quan tâm thương mại ngang với hoặc quan trọng hơn chất lượng của xã luận hay trách nhiệm với xã hội. Riêng ngành công nghiệp báo in Mỹ: thu nhập tăng từ 12,2 tủy đô la Mỹ vào năm 1975 lên 54,4 tỷ đô la năm 2000. Nói cách khác, báo in đã thu nhập tăng gấp 2,5 lần từ quảng cáo năm 2000 so với năm 1950. Trong vòng 30 năm qua, lượng nội dung quảng cáo trong báo in Mỹ vượt trên 60% (Báo chí & tuyên truyền 6/2006 trang 43) Việc các tờ báo hiện nay coi trọng tin tức thương mại hơn và phụ thuộc vào quảng cáo để tăng thu nhập đã khiến cho độ tin cậy vào các tin bài bị giảm xuống, sự tin cậy của công chúng với các nhà báo bị tổn hại nhiều. Thủ tướng Vajpayee của Ấn Độ, trong cuộc phỏng vấn với BBC năm 2003 đã nói lên mối lo ngại về sự gia tăng tính thương mại và tính giật gân trong báo chí. Ông nhấn mạnh các loại hình báo chí phải thể vai trò quan trọng của mình bằng tính có tư tưởng và giá trị: “Nếu không có lý tưởng, báo chí sẽ trở thành hàng hóa và không thể tác động đến suy nghĩ của độc giả nữa”. Ở Đài Loan, giáo sư báo chí Kuan Chung-Hsiang, Đại học Shih Hsin đã tiên đoán rằng trong tương lai gần các loại hình báo chí Đài Loan sẽ tiếp tục xuống cấp vì ảnh hưởng của các nhóm lợi ích chính trị và thương mại. Ở Úc, khi các nhà báo mới bị coi là “người kinh doanh 9
- nhỏ hiệu quả” đang cung cấp sản phẩm của họ cho người dân, nhà nghiên cứu Katrina Mandy Oakham tin vào sự đổi thay lớn mà các nhà báo không còn là người giám sát xã hội hay các thành viên ưu tiên của “quyền lực thứ tư” nữa mà “họ là những doanh nhân sản xuất hàng hóa phục vụ thị trường”. Nhà báo Michelle Grattan thậm chí cho rằng “tính thương mại” đã nổi lên như là “giá trị cốt lõi” của báo chí. Như vậy, điều mọi người lo ngại có thể đã thành hiện thực: báo chí được xem như là hàng hóa. Vai trò của nhà báo đã thay đổi sâu sắc nếu chúng ta đồng ý với ý tưởng của Simon Canning trên tờ The Autrailian: “Mọi thứ có thể sẽ thay đổi và nhà báo sẽ sớm thấy công việc của họ không chỉ là phản ánh sự kiện, mà chính là phương tiện mà các nhà quảng cáo phát tán thông điệp của mình”. Thậm chí báo chí và thương mại luôn sát cánh kề vai, Canning cũng chỉ ra rằng quảng cáo đã kiếm được rất nhiều lợi nhuận bằng cách đặt các thông điệp quảng cáo của họ cạnh tin tức. Như thế, các nhà báo đã “bị ép” để cho ra những tin tức thương mại giống như thế trở thành tin tức”. Internet cung cấp một môi trường tuyệt vời cho ngành quảng cáo và do đó báo chí điện tử dù muốn hay không cũng bị ảnh hưởng. Một ví dụ mà Canning đưa ra là phần mềm quảng cáo có tên là IntelliTXT của công ty quảng cáo trực tuyến Vibrant Media ở Mỹ. Khi các nhà quảng cáo sử dụng hệ thống này, họ có thể biến hàng trăm từ trong bài báo có tiềm năng gây thu hút về sản phẩm của họ mà bạn đọc có thể đọc sang dạng có kết nối đến quảng cáo. Và chỉ cần di con chuột tới vị trí từ đó, một màn hình nhỏ sẽ hiện ngay ra mời gọi người đọc nhấn vào trang quảng cáo chính thức. Ứng dụng này khiến các chuyên gia báo chí Mỹ lo ngại về việc nhà báo chọn từ khi viết, bởi họ sẽ hướng tới những từ dễ được chuyển sang kết nối tới trang quảng cáo. Sự can thiệp khá sâu cả về nội dung và hình thức này rõ ràng đã ảnh hưởng đến tính chính xác, sự công bằng và đạo đức báo chí. 3.3 Ảnh hưởng của thương mại hóa với báo chí 10
- Trong bối cảnh thương mại hóa báo chí, Lynette Sheridan Burns cho rằng các nhà báo ngày nay luôn phải tìm cách dung hòa giữa cạnh tranh nghề nghiệp, quan tâm thương mại và trách nhiệm đạo đức liên quan đến việc khai thác thông tin và thể hiện thông tin. Bà cho rằng “báo chí là một công việc phức tạp – cố gắng làm hài lòng tổng biên tập – ông chủ của bạn, bản thân bạn và toàn bộ độc giả” Vì các cơ quan báo chí là các doanh nghiệp, các nhà báo phải làm hài lòng ông chủ mình và để làm điều đó, họ phải tuân thủ những nguyên tắc riêng của phòng tin”. Quy tắc này có thể là nhà báo phải hiểu cơ quan mình sẽ chọn cái gì đưa tin và cái gì không. Những yếu tố này không thể nói là không làm khó xử cho họ và họ sẽ quen với việc được bảo là làm gì, hơn là làm điều mình muốn. Tuy nhiên ở các nước phương Tây họ có một giải pháp, đó là tách biệt các hoạt động quảng cáo với phần hoạt động báo chí đích thực. Điều đó giúp cho bản chất của tin tức sẽ không bị ảnh hưởng, thông tin vẫn chính xác và đảm bảo sự trung thực. Ở đa số các quốc gia, người ta nghiêm cấm hình thức quảng cáo lén lút, núp dưới các bản tin, tin tức. Một vài nước còn đưa ra cả luật lệ cho việc đó. Trong báo chí, cũng như những ngành nghề khác, thời gian là tiền. Các tổng biên tập luôn muốn có nhiều tin hơn trong thời gian ngắn hơn, áp lực đặt lên nhà báo. Hậu quả là họ có thể trở thành những cỗ máy được lập trình để hoạt động. Họ thiếu thời gian để nghiên cứu, điều tra, để tìm hết các ngóc ngách, phương diện của vấn đề. Nhiều khi các ông tổng biên tập muốn mọi phương diện của một câu chuyện tội phạm đi quá cả phạm vi giá trị thông tin câu chuyện bởi họ có thể in nhiều bản hơn để bán. Ngược lại cũng có những câu chuyện không bao giờ được khám phá bởi chi phí lớn về việc đi lại hoặc chúng không giúp bán được nhiều báo Vấn đề khác của báo chí hiện nay liên quan đến tính thương mại là báo chí trả tiền cho nguồn tin bằng các tấm séc (chequebook journalism). Tuy nhiên vấn đề này vẫn con tranh cãi, nhưng cho thấy báo chí dùng tiền để mua tin là chuyện bình thường. Theo Hargreaves, checkbook journalism nghĩa là báo chí trả tiền cho nguồn 11
- tin, thậm chí là tội phạm đang chờ xét xử, để khai thác các câu chuyện, không quan tâm tới hiệu quả của sự can thiệp của đồng tiền có thể có đối với tính tin cậy của thông tin. Câu hỏi đặt ra là: liệu nhà báo sẽ có những thông tin trung thực từ nguồn tin hay không? Nếu nguồn tin đòi tiền thì động cơ của họ là gì? Nhưng đối với McClellan, một cựu chuyên gia các vấn đề thời sự của kênh truyền hình số 9 và số 7 của Úc, các tấm séc là việc việc cần thiết cho việc thực hành nghề báo. McClellan cũng cho biết tiền được chi ở Úc chỉ bằng phần nhỏ so với Anh, Mỹ và hầu hết tiền được trả là nhỏ hơn 10.000 đô là và số tiền lớn nhất được trả cũng không khác mấy so với 20 năm trước. Hầu hết chi phí séc ở Úc là cho những câu chuyện cá nhân nổi bật như Delta Goodrem và Belinda Emmett. Ở Anh hay Mỹ, phí séc ngày càng cao hơn và nhiều hơn. Monica Lewinsky được cho là đã bỏ túi khoảng 400.000 bảng cho một cuộc phỏng vấn năm 1999 sau vụ scandal với cựu tổng thống Mỹ. Bối cảnh của các nước tư bản là trong nền kinh tế thị trường, khi mỗi cơ quan báo chí là một doanh nghiệp, nó phải nghĩ trước tiên đến việc làm sao để sống còn, rồi mới nghĩ đến việc truyền tải thông tin đến cho độc giả của mình. Nghịch lý là nhu cầu cao về thắng lợi kinh tế khó có thể đảm bảo một nền báo chí công bằng và trách nhiệm. Điều đáng lo ngại là quan tâm đến lợi ích kinh tế đã không chỉ là do sức ép bên ngoài, mà nó có thể phát sinh từ bên trong, ngay ở “tim” của mỗi cơ quan báo chí. Vậy cái hứa hẹn nền báo chí tốt, vì lợi ích xã hội thực sự lại đặt lên vai các nhà báo, với hệ thống chính trị nhân bản và nhận thức riêng, nằm trong phạm vi đạo đức nghề nghiệp. Điều 6, quy định đạo đức nghề nghiệp của Hiệp hội báo chí Úc nói: “Đừng để quảng cáo hay quan tâm thương mại làm tổn hại đến tính chính xác, công bằng hay độc lập của báo chí”. Quy định này còn có thể coi là lời kêu gọi rất có ý nghĩa với người làm báo hiện nay. 4. Tập trung và độc quyền hóa báo chí 4.1 Khái niệm 12
- Tập trung hóa báo chí là quá trình sáp nhập giữa các cơ quan báo chí, hoặc thôn tính, thâu tóm, bành trướng lẫn nhau giữa các cơ quan báo chí để hình thành nên các tập đoàn báo chí. Độc quyền, trong kinh tế học, độc quyền là trạng thái thị trường chỉ có duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm, không có sản phẩm thay thế gần gũi. Tiếng Anh: monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy lạp monos (nghĩa là một) và polein (nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. (vi.wikipedia.org) Độc quyền hóa báo chí đó là tình trạng mà các các tập đoàn báo chí đã thâu tóm toàn bộ các cơ quan báo chí, biến mình trở thành duy nhất trên thị trường nhằm phục vụ mục đích riêng của mình. 4.2 Quá trình hình thành Quá trình tập trung và độc quyền báo chí bắt đầu được hình thành từ năm 1892 khi mà Scripps cùng với người bạn là Macrê thành lập một mối liên kết giữa 5 tờ báo của họ. Ở Mỹ người ta đã tính toán rằng kề từ năm 1962 “các tập đoàn tài chính hữu quan” hàng năm đã mua lại khoảng 68 tờ báo độc lập. Năm 1979, số lượng bản phát hành của các tờ báo hằng ngày thuộc sở hữu của các tổ chức độc quyền chiếm đến 71% tổng số lượng bản phát hành của tất cả các báo. Đồng thời, trong số 38 tờ báo hằng ngày đã truyển về tay người chủ khác thì trong 7 tháng của năm 1979 đã có 34 tờ báo trở thành sở hữu của chính các tổ chức độc quyền. Có một điều đáng lưu ý là chính những tập đoàn báo chí hùng mạnh thì lại càng tăng cường sự ảnh hưởng của mình về cả số lượng ấn phẩm và cả số lượng bản phát hành. Năm 1979 ở Mỹ, số lượng các tổ chức độc quyền từ con số 11 đã tăng lên 13 với tổng số lượng bản phát hành mỗi lần của các tờ báo đều vượt quá 1 triệu bản. Kết quả là 13 tổ chức độc quyền đó kiểm soát 42% tổng số các tờ báo hằng ngày và 50% tổng số các tờ báo chủ nhật. Ở Mỹ tồn tại 165 tập đoàn báo chí, chiếm 60% tổng số báo ra hằng ngày ở trong nước. 13
- Ở Thụy Điển, xu hướng tập trung và độc quyền hóa báo chí thể hiện qua những chỉ số phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng – loại hình ấn phẩm – chuyển sang hệ thống “một thành phố - một tờ báo”, bởi vì số lượng các điểm dân cư có những tờ báo cạnh tranh nhau thì không ngừng giảm sút. Sự phân bố các báo ở Thụy Điển Các điểm dân cư có 2 tờ báo hoặc Các điểm dân cư chỉ có một tờ Năm nhiều hơn báo 1945 51 42 1950 51 42 1955 39 53 1960 32 56 1965 23 59 1970 21 65 1975 20 64 1980 21 62 1985 24 60 1990 20 63 1995 20 58 Chú thích: Những số liệu dẫn trên liên quan đến tờ báo xuát bản 3-7 lần trong một tuần. Sự độc quyền thông tin quyết định rất nhiều về nội dung thông tin. Báo chí ngày nay là công cụ mạnh mẽ, nhiều nhánh và linh hoạt trong tay giai cấp thống trị và báo chí được giai cấp thống trị sử dụng một cách khéo léo nhằm mục đích “tẩy não” quần chúng, nhằm luận chứng và biện minh cho hành động gây tâm lý quân phiệt, nhằm bảo đảm sự ủng hộ đối với đường lối chính trị đang được thi hành. Ví dụ, đại công ty “Gannett company”. Năm 1966 sở hữu 26 tờ báo hằng ngày và 6 tờ báo chủ nhật. Trong những năm 1980, nó có ảnh hưởng tới 88 tờ báo hằng ngày và 23 tờ báo tuần, 13 đài phát thanh và 17 đài truyền hình. Theo sự tính toán của các chuyên gia Mỹ: 20 tập đoàn nắm trong tay hơn một nửa tổng số các tờ báo trong nước, 4 tập đoàn kiểm soát ngành truyền hình, 10 tập đoàn kiểm soát ngành phát thanh, 12 tập đoàn thống trị trong ngành xuất bản sách, 4 14
- tập đoàn ngự trị trong ngành điện ảnh. Đầu những năm 1980 nếu như tất cả các thành phố Mỹ đều có những tờ báo ngày, thì 98% trong số đó đặt dưới quyền kiểm soát của một trung tâm, trong tổng số 1700 tờ báo hằng ngày ở Mỹ có hơn 1000 báo thuộc sở hữu “các mạng lưới”. 4.3 Biểu hiện của tập trung hóa, độc quyền hóa - Quá trình giảm bớt số lượng của những tờ báo độc lập Chẳng khó khăn gì để các ông trùm báo chí đóng cửa bất kỳ một ấn phẩm báo chí nào có hại cho lợi ích của họ. Sự tập trung và độc quyền hóa lĩnh vực báo chí dẫn tới một hệ quả là thông tin khi được đưa ra đã chịu một sự chi phối từ các ông trùm truyền thông khiến cho thông tin không còn chân thực và khách quan. Có nhiều cách khác nhau để tác động lên các cơ quan báo chí: - Thông qua việc tham gia tài chính trong cơ quan báo chí. - Thông quan việc kiểm soát các cơ quan tuyên truyền của chính phủ. - Thông qua việc lãnh đạo trực tiếp các tổ chức thông tin – tuyên truyền của các tổ chức kinh doanh lớn và trong việc lãnh đạo nhiều tổ chức xã hội. - Chiếm lĩnh các vị trí lãnh đạo trong các tổ chức báo chí lớn. - Thông qua quảng cáo có trả tiền là hoạt động không thể thiếu đối với sự tồn tại của các tờ báo, tạp chí, các đài phát thanh và truyền hình về phương diện tài chính. Năm 1999, ở Mỹ trong tổng số 1489 tờ báo hằng ngày thì chỉ có 269 tờ nghĩa là 18% là những tờ báo độc lập còn lại thì đều thuộc quyền ở hữu của các tập đoàn báo chí. Tổng số các tờ báo hàng ngày cũng tiếp tục giảm. Năm 1998 đã có 20 tờ báo hằng ngày đóng cửa, tính đến tháng 2/1999 chỉ còn 1489 tờ báo. Trong 10 năm trở lại đây đã có 153 tờ báo hằng ngày chấm dứt tồn tại.Một trong những 15
- nguyên nhân dẫn đến việc này cũng phải kể đến sự thâu tóm của các tập đoàn báo chí đối với các tờ báo độc lập. Quá trình tập trung và độc quyền hóa diễn ra một cách nhanh chóng, nhiều quốc gia đã nới lỏng luật pháp tạo điều kiện cho các tập đoàn truyền thông phát triển và tập trung hóa. Việc tập trung hóa và độc quyền hóa giờ đây không còn chỉ diễn ra trong một quốc gia nữa mà nó đã có sự tập trung xuyên quốc gia. Các tập đoàn truyền thông lớn muốn nâng cao ảnh hưởng của mình đã vươn xa tới các quốc gia khác và thâu tóm các cơ quan báo chí để phục vụ cho lợi ích của họ. Quá trình đó dẫn tới hình thành một mạng lưới tập đoàn báo chí Đa quốc gia. Ngày nay quá trình tích tụ tư bản và độc quyền hóa các phương tiện thông tin đại chúng vẫn tiếp diễn. Không phụ thuộc vào các hình thức sở hữu và các phương pháp điều hành doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay sự tập trung và độc quyền hóa các phương tiện thông tin đại chúng đang diễn ra theo một loạt định hướng. Những tổ chức độc quyền đang tồn tại thì gia tăng sự hùng mạnh của mình bằng cách không ngừng giảm số lượng các phương tiện thông tin đại chúng “độc lập”, các phương tiện thông tin đại chúng tăng cường quan hệ với các tập đoàn xuyên quốc gia, các cơ quan chính phủ đóng vai trò ngày càng lớn trong định hướng và thao túng các phương tiện thông tin đại chúng. Đã xuất hiện những doanh nghiệp thông tin đại chúng xuyên quốc gia với số tư bản “phân tán”, khi mà trên thực tế không thể xác định được chúng thuộc sở hữu quốc gia nào. - Sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn Các công ty báo chí truyền thông ngày càng bành trướng mạnh mẽ bằng cách mua lại, sáp nhập, thôn tính các công ty nhỏ hơn không đủ sức cạnh tranh để thành lập nên các tập đoàn báo chí. Với việc bỏ ra hàng tỷ đô la, các ông chủ này đã đẩy nhanh những sự tập hợp mới trong lĩnh vực báo chí, truyền thông đại chúng, tạo ra quy mô hoạt động, sức mạnh ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới quốc gia, phạm vi khu vực. Điều này dẫn đến sự ra đời của hàng loạt các tập đoàn báo chí lớn trên toàn thế giới đặc biệt là ở các nước TBCN phát triển. Theo số liệu của Công ty 16
- nghiên cứu thị trường Dialogic, trong 5 tháng đầu năm 2007, trên toàn thế giới đã ghi nhận 372 bản hợp đồng sáp nhập, mua lại giữa các công ty, tập đoàn báo chí truyền thông với tổng giá trị lên đến 93,8 tỷ USD. Đáng chú ý nhất là hợp đồng sáp nhập giữa Google và Double Click, trị giá 3,1 tỷ USD hồi tháng 4-2007, hợp đồng sáp nhập giữa Yahoo với Right Media trị giá 680 triệu USD. (nhóm 3) Thế giới đa dạng, các quá trình tập trung tư bản và độc quyền nắm giữ các phương tiện thông tin đại chúng ở các nước khác nhau đang diễn ra theo những cách khác nhau, tuy nhiên đó đều đang là xu hướng chung của nền báo chí truyền thông thế giới. 5. Quá trình phân hóa và chuyên môn hóa Qúa trình phân hóa và chuyên môn hóa cũng là một phần không kém quan trọng của báo chí. Đó là một phương thức trong đó một ấn phẩm báo chí chỉ tập trung vào một lĩnh vực cụ thể của đời sống, nhằm vào một lượng đối tượng công chúng xác định. cụ thể. Trong điều kiện toàn cầu hóa thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng thực hiện mạnh hơn quá trình phân hóa và chuyên môn hóa, tạo cơ hội cho những tổ chức ấy tìm được vị trí xã hội của mình, hướng đến một tầng lớp dân cư hoàn toàn xác định, tác động có hiệu quả đến người đọc, người nghe và người xem. Thông thường chúng ta phân các tờ báo căn cứ theo quy mô phát hành thành các tờ báo quốc gia, khu vực, địa phương. Xét theo tính chất định kỳ và thời gian ấn hành thì người ta phân các tờ báo thành báo hằng ngày và không ra hằng ngày, báo buổi sáng, báo buổi chiều. Xét theo tính chất và ý nghĩa xã hội thì các tờ báo được phân ra thành các tờ báo địa chúng, có chất lượng, các báo hỗn hợp. Có thể phân chia các tạp chí thành hai nhóm lớn: - Các tạp chí chuyên ngành và các tạp chí đáp ứng được “lợi ích chung”. Nhưng các tạp chí “lợi ích chung”, hay các tạp chí đại chúng lại phân thành các tạp chí thông tin, tạp chí giải trí… 17
- - Một số nhà nghiên cứu lại phân chia toàn bộ báo chỉ ở phương Tây ra làm 4 nhóm ấn phẩm. Đó là các ấn phẩm nông nghiệp, thương mại, chuyên ngành và các ấn phẩm đại chúng. Những ấn phẩm chuyên ngành bao gồm nhiều ấn phẩm phục vụ tầng lớp dân chúng, có chung nghề nghiệp và có chung hình thức lao động. Mỗi loại ấn phẩm đều có những đặc điểm riêng và những dấu hiệu phân biệt. Tuy nhiên giữa chúng cũng có rất nhiều điểm giống nhau. Trước hết đó là khả năng tác động một cách có phân biệt đến những nhóm độc giả khác nhau. Những ấn phẩm chuyên ngành chủ yếu tập trung vào những vấn đề khoa học và kỹ thuật – tập trung vào một lĩnh vực cụ thể. Các tạp chí chuyên ngành không chỉ phát hành ở trong nước mà còn phát ra nước ngoài. Nhiều ấn phẩm còn có chi nhánh ở nước ngoài. Nội dung của các ấn phẩm chuyên ngành này được tập trung vào một ngành nghề cụ thể do đó khu biệt được đối tượng khán giả. Lợi ích của quá trình phân hóa và chuyên môn hóa: Đó là nó cho phép nâng cao hiệu quả của các bài vở của báo chí, đài phát thanh và truyền hình, sử dụng phương tiện sẵn có với hiệu quả cao nhất. Quá trình phân hóa giúp thiết lập ra được các ấn phẩm chuyên sâu vào một lĩnh vực, giúp cho công chúng có thể lựa chọn dễ dàng ấn phẩm phù hợp. Trong tương lai, việc khu biệt đối tượng và lựa chọn cho mình một lĩnh vực để kinh doanh truyền thông là một xu hướng tất yếu. 6. Gia tăng mối quan hệ giữa báo chí và kỹ thuật Kỹ thuật có một ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển chung của xã hội, truyền thông cũng là một lĩnh vực chịu sự tác động lớn của khoa học kỹ thuật. Trong quá trình phát triển của các phương tiện thông tin đại chúng, kỹ thuật đã và đang sẽ luôn giữ vai trò hàng đầu. Từ các hình thức truyền thống là thông tin truyền miệng từ một người này sang người khác cho đến những chữ viết cổ đầu tiên đã góp phần trao đổi thông tin giữa người với người. Thời kì đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển báo chí đó là sự ra đời của máy in. Với sự ra đời của máy in vào vào năm 1455 do Johan Gutenberg phát minh. Đó được xem là châm ngòi cho 18
- nền công nghiệp giấy bùng nổ. Sự ra đời của máy in đã đơn giản hóa đi rất nhiều trong công đoạn làm báo, góp phần tăng lượng xuất bản, tăng chất lượng và hình thành một nền công nghiệp báo chí. Phát thanh – truyền hình ra đời cũng phải phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố kĩ thuật và để phát triển chất lượng tin bài phát thanh truyền hình thì cũng đồng nghĩa với việc nâng cao cơ sở vật chất kĩ thuật. Máy tính cùng với mạng internet ra đời đã đánh dấu sự đột phá với lĩnh vực truyền thông. Một loại hình phương tiện mới ra đời có thể truyền tải thông tin nhanh chóng kéo theo sự bùng nổ thông tin, điều này đã dẫn đến sự thay đổi hết sức triệt để trong các phương tiện thông tin đại chúng. Việc áp dụng khoa học kĩ thuật, các công nghệ mới vào các phương tiện thông tin đại chúng đã dẫn đến những hệ quả xã hội quan trọng. Một trong những hệ quả ấy được giáo sư G.V.Giêccốp nêu ra trong báo cáo khoa học của mình đó là hình thành nên “Kỷ nguyên thông tin” (Information Era). Các quá trình thông tin hiện đại của xã hội có một trình độ trang bị kỹ thuật cho phép con người ngoài cái thế giới bao quanh mình – còn kiến tạo cho cái cá nhân mình một phạm vi thế giới ảo đặc biệt, sống trong thế giới ấy theo cách mà con người ưa thích và có được một sự tự do lựa chọn gần như tuyệt đối, điều mà con người chưa thực hiện được. Để đáp ứng kịp nhu cầu thông tin của công chúng, cũng như thay đổi chính bản thân mình, báo chí cần phải biết phát huy những thành quả của khoa học công nghệ, đồng thời cũng phải tự nghiên cứu các kĩ thuật mới phục vụ cho quá trình cung cấp thông tin. Ta có thể nhận thấy điều đó qua các loại hình báo chí đòi hỏi công nghệ cao: như truyền hình, các thiết bị để sản xuất ra một chương trình truyền hình phải đồng bộ, hiện đại… nếu như muốn có một chương trình chất lượng. Công nghệ sản xuất máy quay phim cho phép ghi lại những hình ảnh chân thực và rõ nét nhất. Công nghệ phát sóng giúp truyền tải hình ảnh đi nhanh và giữ được chất lượng. 19
- Báo chí và kỹ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự phát triển của báo chí đòi hỏi kỹ thuật phải không ngừng phát triển để đáp ứng, còn sự phát triển của kỹ thuật sẽ giúp cho truyền thông phục vụ công chúng tốt hơn. 7. Xu hướng đa phương tiện 7.1 Khái quát chung Trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự bùng nổ của internet đã tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội của con nguời và ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của báo chí thế giới. Trước đó, các loại hình báo chí truyền thống (báo in, phát thanh, truyền hình) phát triển tương đối độc lập, mỗi loại hình có những ưu thế riêng không bị lấn át. Nhưng internet ra đời kéo theo sự ra đời của báo mạng, thông tin được cung cấp cho công chúng theo hình thức đa phương tiện sinh động, hấp dẫn hơn và đang là sự lựa chọn số 1 của lớp công chúng trẻ và tiếp tục ảnh hưởng tới lớp công chúng kế cận Tương lai báo chí thuộc về truyền thông đa phương tiện (đi cùng sự phát triển của internet) Có thể hiểu, “multimedia” hay “truyền thông đa phương tiện” là sự kết hợp của ngôn ngữ viết, ảnh, video, âm thanh, thiết kế đồ họa và các phương thức tương tác khác trên trang web nhằm truyền tải một câu chuyện, một vấn đề một cách đa diện, mỗi hình thức thể hiện góp phần tạo nên câu chuyện thuyết phục nhất và đầy đủ thông tin nhất. Đối với ngành báo chí nói riêng, đặc biệt là báo điện tử và các kênh truyền hình trực tuyến, phóng sự đa phương tiện chính là tương lai của sự phát triển. Theo hình thức truyền thông thông thường (media), thông tin được truyền – phát đi bằng cách nghe, nhìn. Ví dụ một bản tin được đăng trên báo in, công chúng đọc tờ báo và tiếp nhận thông tin ấy. Nhưng cũng cùng thông tin ấy, khi thể hiện chúng trên Wedsite, ngoài bản text còn đính kèm hình ảnh, đoạn video có liên quan, … Công chúng tiếp nhận thông tin bằng nhiều giác quan khác nhau, với những hình thức thông tin khác nhau, đó là truyền thông đa phương tiện. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG HẤP PHỤ METYL ĐỎ TRONG DUNG DỊCH NƯỚC CỦA CÁC VẬT LIỆU HẤP PHỤ CHẾ TẠO TỪ BÃ MÍA VÀ THỬ NGHIỆM XỬ LÝ MÔI TRƯỜNG
55 p | 258 | 72
-
Luận văn: NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG BỆNH -THALASSEMIA VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở TRẺ EM DÂN TỘC TÀY VÀ DAO TẠI HUYỆN ĐỊNH HÓA - TỈNH THÁI NGUYÊN
73 p | 343 | 65
-
Luận văn: " Nghiên cứu thực trạng các ngành nghề trong hộ nông dân trên địa bàn xã Liêm Chính – thị xã Phủ Lý – tỉnh Hà Nam."
79 p | 183 | 62
-
Luận văn: NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG PHÂN HỦY 2,4,5-T VÀ ĐẶC ĐIỂM PHÂN LOẠI CỦA CHỦNG VI KHUẨN PHÂN LẬP TỪ CÁC BIOREACTOR XỬ LÝ ĐẤT NHIỄM CHẤT DIỆT CỎ/DIOXIN
70 p | 210 | 56
-
Luận văn: Nghiên cứu những biến đổi hình ảnh điện tâm đồ và Microablumin niệu ở những người tăng huyết áp tại ban bảo vệ sức khỏe huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
74 p | 235 | 39
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Công nghệ thông tin: Nghiên cứu về xu thế IoT (internet of things) và ứng dụng vào bài toán quản lý giao thông tại Hà Nội
21 p | 193 | 32
-
Luận văn: Nghiên cứu các vấn đề môi trường nông thôn Việt Nam theo các vùng sinh thái đặc trưng, dự báo xu thế diễn biến và đề xuất các chính sách và giải pháp kiểm soát thích hợp
398 p | 134 | 32
-
Đề tài: Phương pháp thảo luận nhóm nghiên cứu thị trường
11 p | 192 | 15
-
Luận văn: NGHIÊN CỨU PHÂN LẬP CÁC YẾU TỐ ĐIỀU KHIỂN BIỂU HIỆN GEN UBIQUITIN TỪ HAI LOẠI BÈO TẤM LEMNA AEQUINOCTIALIS DB1 VÀ SPIRODELA POLYRHYZA DB2
69 p | 131 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn điểm đến du lịch của du khách - trường hợp lựa chọn điểm đến Hội An của khách du lịch Tây Âu - Bắc Mỹ
147 p | 39 | 13
-
Luận văn: NGHIÊN CỨU BIỂU HIỆN GEN MÃ HÓA CHẤT HOẠT HÓA PLASMINOGEN MÔ CỦA NGƯỜI TRONG VI KHUẨN
65 p | 84 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau
94 p | 39 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấp dưỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay
89 p | 70 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn gửi tiết kiệm tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Đà Nẵng
127 p | 15 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
84 p | 24 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kế toán: Các yếu tố ảnh hưởng đến giá nhà phố tại Thành Phố Hồ Chí Minh, dự báo xu hướng và giải pháp phát triển bền vững đến năm 2020
99 p | 30 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Khu vực dịch vụ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp phát triển
149 p | 24 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn