LUẬN VĂN:Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
lượt xem 42
download
LUẬN VĂN: Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh Mở đầu .1. Tính cấp thiết của đề tài Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ với diện tích tự nhiên: 803,9 km2, dân số: 998.300 người. Sau những năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 2000 đến nay, kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, cơ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN:Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
- LUẬN VĂN: Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh Mở đầu
- 1. Tính cấp thiết của đề tài Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc cũ với diện tích tự nhiên: 803,9 km2, dân số: 998.300 người. Sau những năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá trình đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 2000 đến nay, kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, cơ cấu chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực trong từng khu vực, từng địa phương và các thành phần kinh tế. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng bình quân hàng năm 13,9%, tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp xây dựng tăng nhanh từ 25,6% năm 2000 lên 47,2% năm 2005, khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 38% xuống còn 25% năm 2005. Tuy nhiên, Bắc Ninh vẫn còn mang nặng dấu ấn của một tỉnh nông nghiệp, lao động nông nghiệp ở nông thôn Bắc Ninh hiện nay vẫn đang chiếm 82,71% lao động xã hội và một trong những thách thức lớn nhất trong khu vực này là tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao động đang có xu hướng gia tăng. Điều đó, trong chừng mực nhất định đang cản trở bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17 (nhiệm kỳ 2006 - 2010) đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đổi mới quan hệ sản xuất, phát huy mạnh mẽ các nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới" [53]. Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực - nhân tố quan trọng nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Bắc Ninh nói riêng. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề "Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã có nhiều công trình khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu của các công trình này là: + Làm rõ quan niệm, nội dung và biện pháp để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. + Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở các vùng khác nhau trong nước. + Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta nói chung. Các công trình tiêu biểu mà tác giả được biết: - Nguyễn Văn Bích: "Đổi mới và phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. - Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng (chủ biên): "Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam", Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998. - GS.TS Nguyễn Đình Phan, GS.TS Trần Minh Đạo và TS Nguyễn Văn Phúc (đồng chủ biên): "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Vấn đề con người - nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã có nhiều tác giả nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Một số công trình, tác phẩm nghiên cứu mà tác giả được biết đó là: - Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Trần Kim Hải. - Vai trò Nhà nước trong tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Quý Tình.
- - Đề án chiến lược về lao động và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp và nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1999 - 2020) của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1999. - Chương trình khoa học cấp nhà nước KX 04-04(1995): "Luận cứ khoa học cho giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần". - PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc "Vấn đề giải quyết việc làm và dạy nghề cho nông dân", Tạp chí Con số và Sự kiện, 8/1999. - Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Kim Long, 2005. - TS Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (chủ biên): "Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Các công trình trên được các tác giả nghiên cứu ở tầm vĩ mô trong phạm vi cả nước hoặc từng vùng tiêu biểu. Tuy nhiên, một đề tài riêng về nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh thì còn ít tác giả nghiên cứu một cách tổng thể dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài luận văn này là cần thiết và có ý nghĩa lý luận - thực tiễn đối với tỉnh Bắc Ninh. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục tiêu: Phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh. * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên luận văn có nhiệm vụ: - Hệ thống hóa lý luận cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; về nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp
- hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đối với nguồn nhân lực. - Đánh giá thực trạng về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh. - Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. * Phạm vi nghiên cứu: Đề tài luận văn thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nên việc nghiên cứu đối tượng này được tiến hành dưới góc độ: + Coi nguồn nhân lực là một trong số các nguồn lực sản xuất. Sử dụng nguồn nhân lực được xem xét và phân tích trong mối quan hệ ràng buộc với các yếu tố khác trong quá trình sản xuất, đó là: Đất đai, vốn, tài nguyên, thị trường, công nghệ và các nguồn lực khác trong nông nghiệp, nông thôn. + Xem xét mối quan hệ tương tác giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với vấn đề sử dụng lao động và tạo việc làm cho người lao động. + Mốc thời gian để lấy số liệu, tư liệu minh họa chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài. - Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị
- như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề, rút ra kết luận. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách, chỉ đạo thực tiễn, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết.
- Chương 1 Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta 1.1. Bản chất và nội dung Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn 1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước đã được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội lần thứ III (năm 1960). Đến Đại hội lần thứ VII và VIII, Đảng ta nhấn mạnh thêm nội dung hiện đại hóa và coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu của sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp là chủ yếu thành một nước công nghiệp. Đó cũng là con đường cơ bản để thực hiện mục tiêu: "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 4/2001 tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn là nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Sau 20 năm đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã bước vào giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Đây là sự tiếp nối đường lối và chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 của Đảng. Chỉ có đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức mới có thể đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản đã trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỷ XXI, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta trước hết và chủ yếu là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là vấn đề rộng lớn và phức tạp, vì thế cho đến nay vẫn còn có những quan niệm ít nhiều chưa thống nhất.
- * Một số nhà nghiên cứu cho rằng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là vấn đề khoa học bao gồm 4 nội dung khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Đó là: Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa nông nghiệp; hiện đại hóa nông thôn. Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giá Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn là: Quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và thâm canh cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình độ trang bị công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa, cơ khí hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin học hóa, tự động hóa [47, tr. 26]. Cũng theo các tác giả trên thì phạm vi, tính chất của công nghiệp hóa nông thôn sâu rộng hơn nhiều, thể hiện qua ba điểm: Thứ nhất, nó là quá trình biến đổi không phải trong từng ngành sản xuất hay từng lĩnh vực xã hội đơn lẻ, mà là một quá trình biến đổi toàn diện trong một khu vực xã hội rộng lớn là nông thôn, bao quát mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị tại đó. Thứ hai, nó phải phát triển một nền nông nghiệp dồi dào làm nền tảng, một nền sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến, một hệ thống dịch vụ đầy đủ và hữu hiệu. Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cùng với các ngành kinh tế phát triển, một hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội dần dần được hoàn chỉnh theo hướng hiện đại hóa, các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế được nâng cấp, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, tạo ra một lối sống công nghiệp năng động, cởi mở, văn minh... [47, tr. 26-27]. Nhóm các nhà nghiên cứu khác, về cơ bản tán đồng với quan điểm trên và nhấn mạnh trong ba mặt biểu hiện (đặc trưng điển hình) của công nghiệp hóa nông thôn nêu dưới đây đã bao hàm cả yếu tố hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn:
- Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự biến đổi toàn diện trên tất cả các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị của một vùng xã hội nông thôn. Nó khác với công nghiệp hóa nông nghiệp ở chỗ công nghiệp hóa nông nghiệp phản ánh sự biến đổi chỉ đối với một ngành cụ thể - ngành nông nghiệp (bao gồm cả nông - lâm - thủy sản). Tất nhiên nói như vậy cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi lẻ khi nông nghiệp được công nghiệp hóa chắc chắn sẽ động tới các mặt khác của xã hội nông thôn. Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự thay đổi một cách căn bản kết cấu kinh tế - xã hội nông thôn. Kết cấu kinh tế của một vùng nông thôn được công nghiệp hóa phản ánh một cơ cấu ngành tích cực, trong đó có một nền nông nghiệp đa dạng đã được công nghiệp hóa ở trình độ cao là nền tảng, một nền sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến và một hệ thống dịch vụ hiệu quả. Về kết cấu xã hội, đặc biệt là kết cấu lao động cũng có sự thay đổi: Tỷ trọng lao động nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng lao động trong công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng. Công nghiệp hóa nông thôn còn được phản ánh qua sự phát triển bằng một hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng ngày càng hiện đại; đồng thời các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế có sự biến đổi rõ nét về chất, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, một lối sống công nghiệp văn minh được hình thành [44, tr. 14-16]. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa nông thôn ở nước ta, cần chú ý một số điểm sau: Một là, công nghiệp hóa nông thôn tất yếu phải kéo theo sự phát triển công nghiệp nông thôn và do đó phát triển công nghiệp nông thôn là một trong những nội dung quan trọng của công nghiệp hóa nông thôn, mặt khác công nghiệp hóa nông thôn bao hàm cả công nghiệp hóa nông nghiệp. Mặc dù vậy cũng không nên chỉ dùng thuật ngữ công nghiệp hóa nông thôn và mà không nói đến công nghiệp hóa nông nghiệp. Vì trong
- quá trình công nghiệp hóa nông thôn thì vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp vừa là quan trọng, vừa như là một thách thức. Hai là, công nghiệp hóa nông thôn đúng hướng tất yếu phải góp phần thúc đẩy các chỉ tiêu về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn vùng tăng với tốc độ ngày càng nhanh và cao hơn so với vùng nông thôn đó trong điều kiện không được công nghiệp hóa. Đồng thời làm thay đổi cơ cấu về tỷ lệ đóng góp của các ngành vào GDP và thu nhập. GDP của các vùng nông thôn được công nghiệp hóa phải có tỷ trọng cao của phần đóng góp từ công nghiệp và dịch vụ, do đó phần đóng góp của nông nghiệp ngày càng giảm đi về tỷ lệ, nhưng quy mô tuyệt đối ngày càng tăng về cơ cấu và thu nhập của dân cư cũng có kết quả tương tự. Hiện đại hóa nông nghiệp bao gồm tất cả những hoạt động có liên quan đến việc ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng, đồng thời thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu của xã hội, của thị trường về các sản phẩm nông nghiệp. Đặc trưng nổi bật của hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất. Hiện đại hóa nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh và tiến bộ. Hiện đại hóa nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác trong sản xuất vật chất ở nông thôn mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời sống văn hóa - tinh thần, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội: Hệ thống giáo dục đào tạo, y tế và các dịch vụ phục vụ đời sống nông thôn. Về bản chất, hiện đại hóa là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn không có nghĩa là xóa bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một
- lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện, từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ và tổ chức quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới. Từ những phân tích trên, ta thấy vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn liên quan đến 4 khía cạnh có nội dung khác nhau, có liên quan chặt chẽ với nhau, đó là: công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn. Bốn khái niệm trên có quan hệ mật thiết với nhau: ở công nghiệp hóa nông thôn bao hàm công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn bao hàm hiện đại hóa nông nghiệp và giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa cũng có quan hệ mật thiết với nhau. Công nghiệp hóa đã phần nào phản ánh trình độ nhất định của hiện đại hóa và ngược lại. Hiện đại hóa là yêu cầu đối với công nghiệp hóa nhất là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang phát triển nhanh như vũ bão; xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đòi hỏi công nghiệp hóa phải là quá trình hiện đại hóa. * Quan niệm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn Trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII Đảng ta đã xác định: Từ nay đến cuối thập kỷ, phải rất quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Có thể nói đây là lần đầu tiên trong các văn kiện của Đảng đã đưa ra phạm trù công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã bổ sung cụ thể hóa thêm những quan điểm chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Trong văn kiện lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu" [38, tr. 87].
- Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã cụ thể hóa, bổ sung và phát triển những quan điểm, đường lối về công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta và chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Để tiếp tục hoàn thiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành nghị quyết về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Nghị quyết đã nêu lên những nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Về quan điểm cần quán triệt để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 là: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đặc lực và phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. - Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững. - Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa, các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. - Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm,
- xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa và thuần phong mỹ tục. - Kết hợp chặt chẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia [40]. Những quan điểm trên không chỉ đảm bảo cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững mà còn góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hòa giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa kinh tế và xã hội, an ninh, quốc phòng, môi trường, tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đảm bảo cho nước ta phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1.2. Những nội dung cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Trong văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu: Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh. đảm bảo an toàn về lương thực quốc gia, tạo ra nông sản hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường. Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và làng nghề mới và thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, ứng dụng thành tựu sinh học, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại [38, tr. 87-88]. Tháng 11/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 06/NQ-TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn đã khẳng định:
- Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 5 năm thực hiện, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã được cụ thể hóa từng bước. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng nêu rõ: Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân cư ở nông thôn [39, tr. 92-93]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác định nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. - Về nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, Nghị quyết chỉ rõ: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp
- nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường [40, tr. 42]. - Nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là: Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [40, tr. 43]. Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương. Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích viện dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn
- định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến lâm sản có công nghệ hiện đại. Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bỏa vệ nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu. Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến. Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư, đô thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ như: Thủy lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội. Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn kể cả ở nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số [41, tr. 88-90]. Từ những trình bày trên, theo chúng tôi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một quá trình bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:
- * Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh doanh theo quan điểm của kinh tế thị trường, từ đó thúc đẩy quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động, quy mô và cơ cấu thu nhập. * Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống và dịch vụ theo phương châm "rời đồng, không rời làng" (ly nông, bất ly hương) và "tiểu công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo", từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của công nghiệp và đô thị. * Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý trong sản xuất kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa, tin học hóa và ứng dụng các thành tựu hiện đại của công nghệ sinh học, thay đổi căn bản phương thức quản lý sản xuất kinh doanh ở nông thôn theo hướng lấy cơ cấu, quy mô nhu cầu thị trường làm căn cứ quyết định cơ cấu quy mô sản xuất và đổi mới cơ cấu sản phẩm nhằm kết hợp tốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ trong từng phương án sản xuất kinh doanh. * Nâng cao chất lượng nhân lực, kể cả nhân lực quản lý và đặc biệt là người lao động sản xuất nông nghiệp có trình độ cao. * Từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông thôn, nâng cao trình độ văn minh của xã hội nông thôn, chuyển mạnh lối sống ở nông thôn sang lối sống công nghiệp. Đây là những điểm căn bản nhất phản ánh nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong đó có điểm phản ánh quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có điểm phản ánh quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (hiện đại hóa không chỉ về phương diện kỹ thuật và công nghệ, mà cả về phương
- diện quản lý kinh doanh) và có những điểm phản ánh các điều kiện kinh tế - xã hội để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. 1.2. Tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 1.2.1. Khái niệm về nguồn nhân lực Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực. Do cách tiếp cận khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực: Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội thì nghĩa rộng của nguồn nhân lực, có thể hiểu là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội. Theo nghĩa hẹp, là khả năng lao động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có tham gia vào nền sản xuất xã hội. Theo quan điểm của Tổ chức Lao động thế giới (IL0): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có việc làm và những và những người thất nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam tuổi lao động được quy định là từ 15 - 60 (đối với nam) và từ 15 - 55 (đối với nữ). Trên thực tế khi tính toán, thống kê lực lượng lao động, người ta thường quy định: Lực lượng lao động là những người trong độ tuổi lao động có việc làm và những người ngoài tuổi lao động vẫn tham gia làm việc (thường tính cho những người trên tuổi lao động). Như vậy, ở đây lực lượng lao động cũng đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế. Nguồn lao động được hiểu là toàn bộ những người có khả năng lao động dưới dạng tích cực và tiềm tàng, có thể biểu diễn nguồn lao động qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1.1: Nguồn lao động Nguồn lao động Ngoài độ tuổi Trong độ tuổi lao động có khả lao động có khả năng lao động năng lao động Tiềm Tích tàng cực Ph ụ Các Các c Đi Nội Thất ngành ngành
- Thứ hai, theo thuyết tăng trưởng kinh tế, thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển. Thứ ba, theo thuyết về vốn con người, thì nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực con người (Human Resonsrces), được huy động, quản lý cùng với các nguồn lực khác (tài chính, tài nguyên...) để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định. Thứ tư, theo định nghĩa của Liên hợp quốc, nguồn nhân lực là: "Trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng". Thứ năm, theo một số nhà khoa học Việt Nam, nguồn nhân lực được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khỏe, năng lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc... Từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội, đang và sẽ được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất để phục vụ cho nhu cầu xã hội. Nguồn nhân lực trước hết phản ánh qua số lượng lao động trong độ tuổi lao động và chất lượng của nó. Chất lượng nguồn nhân lực là trình độ, khả năng của năng lực thể chất và tinh thần cấu thành nguồn nhân lực của xã hội. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá chất lượng nguồn nhân lực. Đó là: (1) Trí lực của nguồn nhân lực; (2) Chỉ số phát triển con người (HDI); (3) Thể lực nguồn nhân lực; (4) Phẩm chất, đạo đức, nhân cách, truyền thống văn hóa nguồn nhân lực.
- Những nhân tố tác động đến chất lượng nguồn nhân lực: Một là, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở nền tảng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai trò quyết định đến trình độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó, vì tăng trưởng và phát triển kinh tế sẽ đưa đến kết quả là nâng cao mức sống, cải thiện tình hình sức khỏe của dân cư, sẽ tăng vốn đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo, do đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế sẽ quyết định mức độ hiện đại hóa nền kinh tế, mức độ áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại vào sản xuất và đời sống, do đó, thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Và khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao sẽ là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Hai là, giáo dục và đào tạo đóng vai trò trực tiếp quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Chúng ta đều biết: Trí tuệ và năng lực sáng tạo là nhân tố chủ yếu của chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động nâng cao trình độ văn hóa, sự hiểu biết nói chung, trình độ nghề nghiệp, tay nghề, năng lực tư duy sáng tạo, phát huy tài năng của họ để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh doanh... Do đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực còn có các yếu tố khác tác động, như: phát triển dân số, yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. 1.2.2. Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận cấu thành của nguồn nhân lực xã hội. Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn (theo nghĩa hẹp là nguồn lao động) là tổng thể sức lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động những vẫn tham gia lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp”
68 p | 6114 | 3260
-
Luận văn: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH CNH - HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
25 p | 370 | 112
-
Luận văn: Nguồn nhân lực Việt Nam: Lợi thế, thách thức và xu hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế
60 p | 198 | 74
-
Luận văn "Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh"
103 p | 166 | 65
-
Luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh doanh: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực tại Công ty Cổ phần Dệt may Huế
110 p | 398 | 59
-
Luận vănCác giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập và cạnh tranh trong khuôn khổ của WTO
37 p | 120 | 32
-
Luận văn: Nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
19 p | 94 | 29
-
Luận văn: Phát triển nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành máy ở tỉnh Hưng Yên đến năm 2020
0 p | 167 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Triết học: Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Bắc Giang hiện nay
94 p | 43 | 11
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Du lịch: Nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp lữ hành được cổ phần hóa trên địa bàn Hà Nội trong thời kỳ hội nhập WTO
19 p | 117 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Kinh tế: Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
106 p | 52 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến năm 2020
106 p | 46 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bình Phước
107 p | 35 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
112 p | 52 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 – 2020
106 p | 23 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Bình Dương từ 2011 đến năm 2020
100 p | 24 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế chính trị: Sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
110 p | 6 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn