intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép

Chia sẻ: Nguyen Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

144
lượt xem
35
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiết kiệm là một nhân tố quan trọng làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. Vì thế tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới. Tiết kiệm phải được thực hành ở mọi khâu của nền kinh tế quốc dân. Trong các khâu đó thì sản xuất là khâu quan trọng nhất vì sản xuất là nơi sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất như nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị và thời gian lao động của người lao động. Đối với...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép

  1. LUẬN VĂN: Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép
  2. Lời nói đầu Tiết kiệm là một nhân tố quan trọng làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. Vì thế tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới. Tiết kiệm phải được thực hành ở mọi khâu của nền kinh tế quốc dân. Trong các khâu đó thì sản xuất là khâu quan trọng nhất vì sản xuất là nơi sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất như nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị và thời gian lao động của người lao động. Đối với ngành thép, các doanh nghiệp đã đề ra các phương hướng và biện pháp tiết kiệm vật tư. Trong đề tài “ nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép ”, Chương I Những vấn đề cơ bản về nguồn và biện pháp tiết kiệm đầu tư . I. Ý nghĩa kinh tế của tiết kiệm đầu tư 1.Khái niệm vật tư, tiết kiệm vật tư 1.1 Khái niệm vật tư Vật tư là đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh và chiếm một tỉ trọng lớn trong cơ cấu chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp Vật tư là những vật có chức năng làm tư liệu sản xuất, đang trong quá trình từ vận động đến tiêu dùng sản xuất chưa bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp Vật tư là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất. Đó là nguyên, nhiên, vật liệu, điện lực, bán thành phẩm, thiết bị, máy móc, dụng cụ, phụ tùng. 1.2 Khái niệm tiết kiệm . Chế độ tiết kiệm là hệ thống những biện pháp kinh tế, tổ chức, kĩ thuật và giáo dục được thực hiện theo một chương trình nhất định nhằm sử dụng hợp lí và tiết kiệm các nguồn lực của mỗi doanh nghiệp, hộ tiêu dùng và nền kinh tế quốc dân để phát triển sản xuất kinh doanh . Tiết kiệm không chỉ là sử dụng dè sẻn tất cả các ngồn tài nguyên, là tránh sự mất mát mà còn là sử dụng hợp lí những nguồn tài nguyên đó, là tiêu dùng có căn cứ khoa học các phương tiện nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
  3. Nói cách khác, tiết kiệm theo nghĩa rộng chính là toàn bộ các giải pháp kinh tế, tổ chức, kĩ thuật ….nhằm giải quyết tốt các vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh ơ mọi cấp của nền kinh tế quốc dân . 2. Phân loại vật tư Vật tư gồm nhiều thứ, nhiều loại, từ những thứ có tính năng kĩ thuật cao, đến những thứ, những loại thông thường, từ những thứ có khối lượng và trọng lượng lớn đến những thứ nhỏ nhẹ kích thước nhỏ bé, từ những thứ đắt tiền đến những thứ rẻ tiền ….Tất cả chúng đều là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất .Toàn bộ vật tư được phân theo 3 tiêu thức cơ bản . 2.1 Theo công dụng trong quá trình sản xuất . Toàn bộ vật tư được phân làm 2 nhóm lớn : Nhóm 1: là những loại vật tư dùng làm đối tượng lao động và những vật tư dùng làm tư liệu lao động .Những vật tư thuộc nhóm thứ nhất có đặc điểm là trong quá trình sử dụng chúng hoàn toàn dùng trong một lần và giá trị chuyển hết sang giá trị thành phẩm . Nhóm 2 : sử dụng được nhiều lần và giá trị chuyển dần sang giá trị thành phẩm Sự phân chia vật tư theo tiêu thức trên có ý nghĩa rất lớn và mặt lí luận và thực tiễn. Thật vậy, đối với loại vật tư thuộc nhóm 1 vì tiêu dùng hoàn toàn 1 lần nên muốn lập lại giá trị sản xuất với quy mô nhỏ như trước với những điều kiện khác không đổi thì đòi hỏi doanh nghiệp phải bảo đảm thường xuyên liên tục và với một lượng vật tư như trước. Còn đối với những loại vật tư thuộc nhóm 2 thì không nhất thiết phải như vậy, thậm chí ngay cả trong trường hợp tăng quy mô sản xuất . 2.2 Theo tính chất sử dụng vật tư . Toàn bộ vật tư chia thành vật tư thông dụng và vật tư chuyên dùng: Vật tư thông dụng gồm những vật tư dùng phổ biến cho nhiều ngành. Vật tư chuyên dùng là những loại vật tư dùng cho một ngành nào đó, thậm chí một doanh nghiệp nào đó . 2.3 Theo tỉ lệ vật tư cấu thành trong sản phẩm . Vật liệu chính: là vật tư cầu thành nên thực thể chủ yếu của sản phẩm. Vật liệu phụ: là vật tư bổ trợ vào thực thể chủ yếu của sản phẩm. 3. Vai trò của vật tư trong sản xuất ở doanh nghiệp
  4. Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động đối tượng lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hóa của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu đa dạng của con người. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải có các yếu tố của sản xuất, trong đó có vật tư kỹ thuật. Thiếu vật tư thì không thể có hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Khi vật tư đóng vai trò là tư liệu lao động mà bộ phận chủ yếu là máy móc thiết bị, thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất, thì nó là nhân tố cực kỳ quan trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng quy mô sản xuất, tạo điều kiện sử dụng hợp lý sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu, tiết kiệm các yếu tố vật chất trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển một phần phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, sự nhanh chóng đổi mới công nghệ và do đó phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật với tư cách là tư liệu lao động. Khi vật tư đóng vai trò là đối tượng lao động chủ yếu là nguyên vật liệu, vật tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu và do đó đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, đúng chất lượng là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu là bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm 60%- 70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm do đó nguyên vật liệu có vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá cả sản phẩm. 4. Ý nghĩa của tiết kiệm vật tư. Tiết kiệm là một nhân tố làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh. Việc tiết kiệm cho phép với cùng một yếu tố đầu vào có thể sản xuất ra được nhiều sản phẩm dịch vụ hơn và đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Việc giảm lương tiêu hao vật chất trên một đơn vị sản phẩm dịch vị góp phần làm tăng năng suất lao động sản xuất ( bao gồm lao động sống và lao động vật hoá ). Tiết kiệm các yếu tố đầu vào làm tăng thiết bị máy móc và giảm tổng chi phí tính bằng tiền để sản xuất ra sản phẩm. Tiết kiệm các yếu tố vật chất làm tăng thêm khối lượng hàng hoá sẽ sản xuất ra và làm tăng thêm khả năng thoả mãn nhu cầu vật tư hàng hoá của xã hội.
  5. Tiết kiệm các yếu tố vật chất là một nhân tố quan trọng để giảm giá thành sản phẩm, dịch vụ. Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tiêu hao vật chất chiếm 51,69%; doanh nghiệp nhà nước 61,34%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 44,81%. Như vậy tiêu hao các yếu tố vật chất lớn, tỉ lệ chất thải cao, gây ô nhiễm môi trường không nhỏ.Tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh góp phần khắc phục những khuyết tật đó. Với ý nghĩa kinh tế quốc dân to lớn, tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới. II. Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư 1. Nguồn tiết kiệm vật tư . Nói đến nguồn tiết kiệm vật tư là nói đến những hướng có thể thực hành tiết kiệm hay nói một cách khác là chon ra những con đường nào, chỗ nào cần phải chú ý tiết kiệm. Để tiết kiệm vật tư, doanh nghiệp có nguồn tiết kiệm về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất, nguồn tiết kiệm về tổ chức quản lí, kinh doanh và nguồn tiết kiệm về người trực tiếp sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu. 1.1 Nguồn tiết kiệm về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất. Doanh nghiệp có thể thực hành tiết kiệm ở khâu kỹ thuật công nghệ của sản xuất. Quy trình công nghệ kỹ thuật sẽ ảnh hưởng tới tỷ lệ sản phẩm có đạt chất lượng sản phẩm chính không? Vì thế cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lý cũng góp phần giảm các tổn thất trong quá trình sản xuất. Khi sử dụng nguyên nhiên vật liệu thay thế các loại nguyên nhiên vật liệu rẻ tiền, doanh nghiệp chú ý các biện pháp kỹ thuật để tăng cường chất lượng nguyên vật liệu, vừa đảm bảo yêu cầu của sản phẩm, vừa đảm bảo chi phí trong giai đoạn dài hạn. Đồng thời, doanh nghiệp phải có kế hoạch phát triển kỹ thuật mới và các biện pháp cải tiến về trang thiết bị máy móc. Để tiết kiệm vật tư, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, chuẩn bị những thiết bị máy móc tốt nhất có thể có. Vì vậy doanh nghiệp phải chú ý tới khâu kỹ thuật công nghệ của sản xuất vì đó là một trong những hướng để thực hành tiết kiệm. 1.2 Nguồn tiết kiệm về tổ chức quản lý kinh doanh. Doanh nghiệp không những thực hành tiết kiệm ở khâu kỹ thuật, công nghệ sản xuất mà còn có thể thực hành tiết kiệm về tổ chức quản lý kinh doanh. Vì nếu như biện pháp về kỹ thuật công nghệ có tác dụng trực tiếp tiết kiệm nguyên vật liệu về số lượng, chất lượng thì biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lí kinh doanh chỉ góp phần tạo điều kiện tiền đề và điều kiện cần thiết để các biện pháp kỹ thuật được thực hành ở doanh
  6. nghiệp và tránh được những lãng phí xảy ra trong quá trình sản xuất. Vì thế khâu tổ chức sản xuất kinh doanh là một hướng để doanh nghiệp thực hành tiết kiệm vật tư. Như chúng ta đã biết, vật tư là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất ở doanh nghiệp. Nó là điều kiện cần để tổ chức hoạt động sản xuất ở doanh nghiệp nhằm giúp cho doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với công tác đảm bảo vật tư của phòng tổ chức quản lí kinh doanh là phải đầy đủ, chính xác, kịp thời và đồng bộ. Các yếu tố nhằm đảm bảo vật tư góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó doanh nghiệp tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hướng thực hành tiết kiệm ở khâu tổ chức quản lí kinh doanh còn góp phần tích cực ngăn ngừa và kiên quyết chống lại mọi hành vi làm thất thoát nguyên nhiên vật liệu và sản phẩm dưới mọi hình thức. Đồng thời nó góp phần bảo quản tốt nguyên nhiên vật liệu trong thời gian lưu kho, giảm hao hụt và biến chất của nguyên nhiên vật liệu. 1.3 Nguồn tiết kiệm về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên nhiên vật liệu. Người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất. Họ là người biết rõ nhất giá trị của các loại nguyên nhiên vật liệu và công dụng của chúng. Vì thế phòng tổ chức cần phải có những lớp giáo dục về ý thức tiết kiệm và lợi ích tiết kiệm đối với doanh nghiệp, đối với từng người như thế nào để người công nhân hiểu được ý nghĩa của việc tiết kiệm. Từ đó họ sẽ có ý thức hơn về việc thực hành tiết kiệm. Đồng thời doanh nghiệp có chế độ giao nhận, chế độ trách nhiệm vật tư, chế độ quán lí sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu rõ ràng trong doanh nghiệp, trách nhiệm đối với từng người công nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm tinh thần chấp hành kỉ luật lao động để sử dụng tốt các yếu tố vật chất. 2. Biện pháp tiết kiệm vật tư. 2.1 Về kĩ thuật công nghệ sản xuất . Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp sau : 2.1.1. Giảm trọng lượng tinh của sản phẩm . Trọng lượng tuyệt đối của sản phẩm là là phẩm đó cân nặng bao nhiêu kg, tạ, tấn, … Trọng lượng tương đối của sản phẩm là tỉ số trọng lượng tuyệt đối so với một đơn vị công suất (hoặc công dụng chủ yếu của sản phẩm). Trên cơ sở công dụng của sản
  7. phẩm, cần phải cải tiến thiết kế sản phẩm sử dụng các loại vật liệu thay thế có độ bền tốt hơn để giảm trọng lượng tương đối của sản phẩm. Như vậy, với khối lượng ( trọng lượng ) nguyên, nhiên vật liệu như cũ có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn . 2.1.2. Giảm phế liệu, phế phẩm và các tổn thất trong quá trình sản xuất . Phế liệu là những thứ phát sinh trong qúa trình sản xuất. Phế liệu có 2 loại: Loại sử dụng lại được trong quá trình sản xuất sản phẩm đó và loại phế liệu không sử dụng lại được. Để giảm bớt phế liệu cần phải cải tiến các công cụ lao động, đặc biệt chú ý các công cụ chuyên dùng, cải tiến quy trình công nghệ và sử dụng tối đa loại phế liệu có thể sử dụng lại được trong quá trình sản xuất . Phế phẩm là những sản phẩm không đạt chất lượng sản phẩm chính. Tỉ lệ phế phẩm cao hay thấp liên quan đến quy trình công nghệ, đến chất lượng nguyên nhiên vật liệu, đến công nghệ sản xuất, đến tay nghề của công nhân và cả những điều kiện khác như điều kiện làm việc, cung cấp các yếu tố của sản xuất, điều kiện thời tiết, khí hậu của nơi sản xuất . Cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lí cũng góp phần giảm các tổn thất trong quá trình sản xuất. Các tổn thất trong quá trình sản xuất bao gồm nhiều khâu, từ khâu thiết kế sản phẩm đến giai đoạn hoàn chỉnh sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm có những tổn thất khác nhau. Cần chú ý đến những khâu tổn hao nhiều để giảm bớt khối lượng nguyên nhiên vật liệu cho mỗi đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm. 2.1.3.Sử dụng tổng hợp các loại nguyên vật liệu . Trong một sản phẩm sản xuất ra, tuỳ theo cơ cấu của nó, các bộ phận kỹ thuật có những yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Vì thế, để có thể sử dụng tổng hợp các loại vật liệu khác nhau, với điều kiện vừa đảm bảo chất lượng, tính năng công dụng …của sản phẩm, vừa tiết kiệm các loại nguyên vật liệu quý hiếm, đắt tiền hoặc phải nhập khẩu. Sử dụng tổng hợp nguyên vật liệu đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm. Rất nhiều loại nguyên vật liệu, khi dùng để chế tạo loại sản phẩm chính này, loại phế liệu không dùng được lại có thể là nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm chính khác. Vì vậy tận dụng hết các loại phế liệu phế thải, các loại thu hồi được của sản xuất chính vào sản xuất các loại mặt hàng khác là biện pháp sử dụng tối đa nguyên vật liệu trong sản xuất . 2.1.4.Sử dụng các loại nguyên, vật liệu thứ cấp .
  8. Các loại nguyên, nhiên, vật liệu thay thế các loại nguyên vật liệu rẻ tiền. Sử dụng những loại nguyên, nhiên, vật liệu trên cần chú ý đến biện pháp kỹ thuật để tăng cường chất lượng nguyên nhiên vật liệu, vừa đảm bảo yêu cầu của sản phẩm, vừa đảm bảo giảm chi phí trong quá trình dài hạn đối với doanh nghiệp . 2.1.5.Sử dụng nhiều lần nguyên vật liệu . Có những loại nguyên nhiên vật liệu có thể được sử dụng nhiều lần. Ví dụ: đồng, nhôm, dầu nhớt ….Sau quá trình sủ dụng thải ra cần phải được thu hồi và sử dụng lại. Đây là biện pháp rất kinh tế, đặc biệt trong việc tiết kiệm nguồn tài nguyên tự nhiên mà sau nhiều năm khai thác sẽ cạn kiệt. 2.1.6. Nâng cao chất lượng nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm, công dụng của thành phẩm và các chất có ích trong nguyên nhiên vật liệu . Nguyên nhiên vật liệu chất lượng cao sẽ cho sản phẩm có chất lượng cao. Trước và trong khi sử dụng cần nâng cao chất lượng nguyên vật liệu vừa đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, dễ tiêu thụ, vừa tiết kiệm được các nguồn tiềm năng. Ở một số nguyên vật liệu người ta chỉ sử dụng chất có ích. Để sử dụng tốt hơn nguyên vật liệu người ta nâng cao tỉ lệ sử dụng chất có ích trong nguyên vật liệu để sử dụng tối đa nguyên vật liệu. 2.2 Về tổ chức quản lí kinh doanh . Những biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lí kinh doanh chỉ góp phần tạo điều kiện tiền đề và điều kiện cần thiết để các biện pháp kỹ thuật được thực hiện ở những doanh nghiệp cũng như tránh được những lãng phí xẩy ra trong quá trình sản xuất. Những biện pháp đó là: Thứ nhất, Đảm bảo cung ứng cho các nơi làm việc trong doanh nghiệp những nguyên nhiên vật liệu đầy đủ về chất lượng và chủng loại, kịp thời gian yêu cầu, đồng bộ để chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh. Nếu không đảm bảo những nội dung trên, sẽ gây ra nhiều lãng phí. Lãng phí cả nguyên nhiên vật liệu sử dụng, lãng phí thời gian sử dụng thiết bị máy móc và lãng phí sức lao động của công nhân lãng phí do ngừng sản xuất . Thứ hai, Thực hiện việc sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức: sử dụng theo định mức là cách sử dụng khấu hao. Vì vậy, các loại nguyên vật liệu chính sử dụng khối lượng lớn xây dựng các định mức và sử dụng theo định mức .
  9. Thứ ba, Thực hiện dự trữ các loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức. Dự trữ theo định mức bảo đảm việc sử dụng liên tục đều đặn trong doanh nghiệp. Những loại nguyên nhiên vật liệu có nguồn cung ứng khó khăn cần phải có dự trữ: dự trữ thường xuyên, dự trữ chuẩn bị, dự trữ bảo hiểm. Những loại sử dụng theo thời vụ phải có dự trữ thời vụ. Thứ tư, Tổ chức thu hồi tận dụng tất cả các biện pháp phế liệu, phế phẩm, phế thải trong quá trình sản xuất . Thứ năm, Tích cực ngăn ngừa và kiên quyết chống mọi hành vi tiêu cực làm thất thoát nguyên nhiên vật liệu, hoá chất, ….và sản phẩm trong thời gian lưu kho của doanh nghiệp. Giảm hao hụt, biến chất. Tích cực phòng chống cháy, mưa, bão, lũ lụt gây tổn thất nguyên vật liệu và sản phẩm . Thứ sáu, Sử dụng nguyên nhiên vật liệu đúng yêu cầu, đúng định mức, đúng quy trình công nghệ, đúng đối tượng. Thứ bảy, Tổ chức hoạch toán, kiểm tra phân tích đánh giá sử dụng nguyên nhiên vật liệu ….ở doanh nghiệp . 2.3 Về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên, nhiên vật liệu Người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất. Họ biết rõ giá trị của các loại nguyên nhiên vật liệu và công dụng của chúng. Vì vậy cần áp dụng các biện pháp sau: Tăng cường giáo dục về ý thức tiết kiệm ,lợi ích của tiết kiệm đối với doanh nghiệp, đối với từng người. Nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ tay nghề của mọi công dân. Có các biện pháp khuyến khích vật chất tinh thần thích đáng kịp thời đối với việc tiết kiệm. Có chế độ giao nhận, chế độ trách nhiệm vật chất, chế độ quản lí sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu rõ ràng trong doanh nghiệp, trách nhiệm đến từng người công nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần chấp hành kỷ luật lao động, để sử dụng tốt các yếu tố vật chất.
  10. Chương II. Thực trạng của nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở ngành thép I. Đặc điểm kinh tế kĩ thuật ảnh hưởng đến việc sử dụng tiết kiệm vật tư ở ngành thép 1. Đặc điểm cung ứng vật tư cho sản xuất Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất kĩ thuật– tài chính doanh nghiệp. Chúng có quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng, kế hoạch tài chính…Trong mối quan hệ này kế hoạch mua sắm vật tư bảo đảm yếu tố vật chất để thực hiện các kế hoạch khác, còn kế hoạch khác là căn cứ để xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư. Chẳng hạn như trong mối quan hệ với kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch vật tư không thể xa rời các chỉ tiêu trong các kế hoạch này để xác định nhu cầu vật tư. Nếu xa rời sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vật tư, ứ đọng vốn hoặc không bảo đảm vật tư cho sản xuất gây gián đoạn sản xuất Mặt khác, cũng phải thấy rõ những đặc điểm riêng biệt của kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp để có thể nâng cao chất lượng của kế hoạch xây dựng nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kế hoạch mua sắm vật t ư ở doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
  11. Thứ nhất, kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư sẽ dự kiến trực tiếp thời gian cuả một quá trình sản xuất, sự tiêu dùng trực tiếp các tư liệu sản xuất sẽ phát sinh trong doanh nghiệp. Thứ hai, kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp rất phức tạp. Tính chất phức tạp của nó thể hiện ở chỗ trong kế hoạch có rất nhiều loại vật tư với quy cách chủng loại rất khác nhau với khối lượng mua sắm rất khác nhau đơn vị khác nhau. Thứ ba, kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp có tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của sản xuất vì sản xuất bao giờ cũng mang tính cụ thể nên kế hoạch mua sắm vật tư phải rất chi tiết cụ thể, phải đặt mua những vật tư thích hợp nhất, phục vụ tốt cho sản xuất. Tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao của kế hoạch mua sắm vật tư ở doạnh nghiệp còn thể hiện ở chỗ số lượng mua sắm sẽ được phân chia ra cho từng phân xưởng nhất định và trong từng thời kì nhất định. 2. Đặc điểm công nghệ sản xuất Trong những năm gần đây, ngành thép đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao trình độ công nghệ chung của toàn ngành. Tuy vậy, theo nhận xét của các chuyên gia trình độ công nghệ của ngành vẫn ở mức trung bình thấp. Trình độ công nghệ của ngành được thực hiện theo phương pháp ATLAS công nghệ đối với bốn yếu tố: thành phần kỹ thuật (T), thành phần con người (H), thành phần thông tin (I), thành phần tổ chức(O). 2.1 Thành phần kỹ thuật (T) Nhìn một cách tổng thể, các ngành công nghiệp nặng đều có thành phần kỹ thuật tương đối khá bởi thời gian qua đã tập trung vào đầu tư đổi mới dây chuyền sản xuất, thay thế những công nghệ sản xuất cũ để theo kịp với trình độ công nghệ của thế giới. Ở ngành thép số các nhà máy cán thép hiện đại chỉ chiếm 38,7% tổng công suất thiết kế, các nhà máy có công nghệ ở mức trung bình chiếm cao nhất, tới 48,9% tổng công suất thiết kế, còn lại là các nhà máy có công nghệ lạc hậu chiếm 12,4% tổng công suất thiết kế. Chi phí sản xuất cho 1 tấn thép ở Việt Nam cao hơn so với thế giới, thêm nữa phần lớn các nhà máy cũng chỉ sản xuất đạt 60% công suất thiết kế nên hiệu quả kinh tế không cao. 2.2 Thành phần con người (H) Yếu tố con người của các ngành thép được đánh giá ở mức trung bình. Ngành chịu một thực tế là bậc thợ không đi dôi với tay nghề, lực lượng công nhân vận hành máy vạn
  12. năng có tay nghề cao chiếm hơn 50% nhưng thực tế đội ngũ này còn xa lạ với kỹ năng công nghệ. Kiến thức có được chủ yếu bằng kinh nghiệm, khả năng đào tạo nâng cao trình độ tiếp cận thiết bị hiện đại là rất hạn chế. Hiện rất thiếu lao động có tay nghề cao như thợ cả, kỹ sư trưởng… do cơ chế đãi ngộ chưa xứng đáng nên các doanh nghiệp trong nước ít thu hút và giữ được các lao động có tay nghề tốt. Khả năng tự đào tạo của các doanh nghiệp rất yếu nên không nâng cao được chất lượng lao động . Ngành thép có nhiều liên doanh liên kết với công ty nước ngoài nên học được ở các đối tác phương pháp quản lý hiện đại và cách vận hành các dây chuyền hiện đại. Nhưng đa phần trình độ chuyên môn của đội ngũ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, nhiều cán bộ không cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới trong ngành nên còn hạn chế trong việc cải tiến công nghệ cũng như trong nghiên cứu phát triển công nghệ mới. Trình độ tin học, ngoại ngữ còn yếu nên hạn chế việc tiếp thu các thông tin về đổi mới công nghệ trên thế giới. Độ tuổi cán bộ công nhân viên chức nhất là cán bộ kỹ thuật tương đối cao Trong cạnh tranh lao động hiện nay, lượng cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao và tuổi trẻ thường tập trung ở doanh nghiệp lớn, các công ty nước ngoài, nơi có thu nhập cao và có môi trường làm việc hiện đại, các doanh nghiệp nhỏ thu nhập thấp thường rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Trong những năm tới tình hình này cũng rất khó được cải thiện vì nguồn nhân lực được đào tạo trong các trường của nước ta còn hạn chế mà nhu cầu lại rất cao. Trình độ học vấn của đội ngũ công nhân, của các đơn vị đa phần ở mức rất thấp, chỉ ở trình độ sơ cấp, trình độ bậc thợ thuộc loại thấp và rất thấp còn khá cao. Điều này phản ánh tính không chuyên nghiệp của đội ngũ công nhân và có thể ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Tính kỷ luật và tính hợp tác trong đội ngũ công nhân lao động trong ngành còn kém, ý thức và tác phong lao động của người lao động không bài bản và chặt chẽ như công ty nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý hầu như chưa được đào tạo một cách có hệ thống về làm việc quản lý nên trong quản lý doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn . 2.3 Thành phần thông tin (I) Qua nghiên cứu, trình độ thông tin của các doanh nghiệp được đánh giá chỉ nằm ở giai đoạn làm quen, thu thập và phân lọai các giai đoạn cao hơn như kết nhập, phân tích, tổng hợp để đề xuất chiến lược chưa triển khai được, lượng thông nghèo khai thác trong
  13. nước là chủ yếu. Điểm nổi bật đối với phần thông tin có thể thấy là hầu hết các đơn vị đều có mức độ sở hữu và sử dụng các thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở mức kém, thậm chí rất kém còn lại ở mức trung bình. Việc thiếu thông tin tất yếu sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh. Về cơ sở vật chất cho phần thông tin, hầu hết các ngành, các đơn vị đều có mức độ sử dụng máy tính thuộc loại cao và khá cao, nhưng mới chỉ tập trung cho công việc văn phòng không sủ dụng máy tính trong thiết kế và nghiên cứu nên đã hạn chế rất nhiều khả năng phát minh, sáng chế các sản phẩm mới. Còn việc sử dụng máy tính để điều khiển các quá trình công nghệ chỉ áp dụng ở một số đơn vị liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài hoặc các doanh nghiệp mới đầu tư. Các nguồn thông tin về công nghệ, kế hoạch trong ngành còn rất hạn chế. Đây là tình trạng chung của nhiều ngành kỹ thuật ở nước ta. 2.4. Thành phần tổ chức(O) Vấn đề tổ chức sản xuất, bố trí nguồn nhân lực hợp lý đã được các doanh nghiệp chú trọng. Các công ty liên doanh và khối doanh nghiệp mới đầu tư công nghệ hiện đại đã áp dụng mô hình tiên tiến, phù hợp với công nghệ sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Qua điều tra cho thấy, nhiều đơn vị chưa áp dụng một hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng thực tế, một số doanh nghiệp thực hiện quá trình quản lý theo ISO còn thấp. Một số doanh nghiệp chỉ làm ISO ở một số khâu, một số dây chuyền để lấy danh đã làm ISO, phần còn lại vẫn thể hiện công tác quản lý tùy tiện và chưa hiệu quả, thiếu tính chuyên nghiệp. Qua phân tích những vấn đề trên có thể thấy, việc đầu tư nâng cấp các tổ chức khoa học công nghệ chuyên ngành với các phòng thí nghiệm chuyên biệt cho từng ngành, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu của các viện với sự phát triển của các ngành là cần thiết. Đầu tư vào khoa học công nghệ được xem là biện pháp và phương thức hữu hiệu nhất vì lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia trong bối cảnh gia nhập tổ chức thương mại quốc tế. Bên cạnh đó gắn kết công tác đào tạo nhân lực với các dự án đầu tư ngay từ khi khởi động dự án. Khi dự án đi vào hoạt động, các cán bộ kĩ thuật nhanh chóng nhập cuộc, nắm bắt và vận hành có hiệu quả các dây chuyền đầu tư, điều mà hiện nay chúng ta vẫn còn rất yếu . 3. Đặc điểm quản lý vật tư ở doanh nghiệp 3.1. Tổ chức chuyển vật tư hàng hóa về doanh nghiệp
  14. Trong công tác nghiệp vụ của phòng kinh doanh việc tổ chức vận chuyển vật tư hàng hóa về doanh nghiệp đóng một vai trò quan trọng. Đây là một trong những giai đoạn kết thúc công tác nghiệp vụ thực hiện kế hoạch mua sắm các yếu tố vật chất cho sản xuất. Quản lý và tổ chức việc vận chuyển tiếp nhận hàng hóa sẽ tạo điều cung ứng vật tư kịp thời và đồng bộ cho sản xuất của doanh nghiệp, giữ gìn tốt số lượng và chất lượng vật tư hàng hóa đồng thời bảo đảm sử dụng có hiệu quả vốn lưu động và giảm được chi phí kinh doanh. Chuyển vật tư hàng hóa được thực hiện theo hai phương thức: Theo mức độ yêu cầu của sản xuất: áp dụng với doanh nghiệp sản xuất nhỏ, kế hoạch kinh doanh thường thay đổi, không xác định cụ thể được từng loại vật tư vào thời gian doanh nghiệp cần. Phương pháp vận chuyển tập trung: áp dụng với doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, khối lượng vật tư tiêu dùng ít thay đổi. 3.2. Tiếp nhận hàng về số lượng và chất lượng Khi hàng về đến doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác tiếp nhận và bảo quản hàng hóa. Mục đích của khâu công tác này là kiểm tra việc thực hiện các hợp đồng mua bán vật tư, hàng hóa phải nguyên vẹn đảm bảo số lượng và chất lượng hay không? Sau khi tiếp nhận hàng hóa phòng kinh doanh của doanh nghiệp phải tổ chức quản lý và bảo quản hàng ở kho. Vật tư được bảo quản cũng tùy thuộc vào tính chất lí hóa mà bố trí sắp xếp theo từng loai kho. Trang bị kho và tổ chức bảo quản kho phải bảo đảm giữ gìn tốt số lượng, chất lượng hàng đồng thời phải tuân thủ yêu cầu dễ thấy dễ lấy, dễ kiểm tra và mỹ thuật kho hàng 3.3 Cấp phát vật tư cho phân xưởng Đây là khâu công tác hết sức quan trọng của phòng kinh doanh. Tổ chức tốt công tác này sẽ bảo đảm cho sản xuất của doanh nghiệp đuợc tiến hành nhịp nhàng góp phần tăng năng suất lao động của công nhân, tăng nhanh vòng quay vốn lao động doanh nghiệp, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm . Việc cấp phát được tiến hành theo hạn mức. Hạn mức là lượng vật tư quy định của phân xưởng trong kỳ kế hoạch để phân xưởng thực hiện nhiệm vụ sản xuất được giao. Hạn mức cấp phát nhằm nâng cao trách nhiệm của phân xưởng (tổ, đội sản xuất ) trong việc sử dụngsố lượng vật tư lĩnh được một cách hợp lý, tiết kiệm: nâng cao trách nhiệm
  15. của phòng vật tư trong việc bảo đảm cấp phát cho phân xưởng số lượng vật tư quy định trong hạn mức được đầy đủ, kịp thời và đúng quy cách phẩm chất; góp phần chấn chỉnh và củng cố kho tàng góp phần làm giảm số lương chứng từ và đơn giản hóa công tác ghi chép ban đầu về cấp phát vật tư. Hạn mức cấp phát vật tư cho đơn vị tiêu dùng phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau: Thứ nhất, hạn mức cấp phát phải chính xác, nghĩa là số lượng vật tư quy định trong hạn mức phải hoàn toàn phù hợp với nhu cầu thực tế của đơn vị tiêu dùng, được tính toán có căn cứ khoa học Thứ hai, Hạn mức cấp phát phải được quy định cho một thời hạn nhất định (thường là một tháng, quý ) hoặc cho việc hoàn thành một công việc nhất định, hết thời hạn đó không còn giá trị nữa Thứ ba, hạn mức cấp phát phải quy định rõ mục đích sử dụng vật tư, nghĩa là dùng số lượng vật tư quy định trong hạn mức để sản xuất sản phẩm gì hay để thực hiện công việc gì? 3.4 Quyết toán và kiểm tra sử dụng Theo dõi sử dụng: trong quá trình sử dụng vật tư ở các đơn vị sản xuất để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác đảm bảo vật tư theo định kỳ hoặc đột xuất người ta tiến hành kiểm tra tình hình thực tế trong công tác quản lý và sử dụng vật t ư ở các đơn vị sản xuất. Một trong những nội dung quan trọng của hoạt động kiểm tra đó là kiểm tra sự phù hợp của vật tư với yêu cầu sản xuất. Thanh lý vật tư: sau quá trình sử dụng vật tư ở các đơn vị sản xuất thường có một số lượng vật tư dôi dư hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của sản xuất ở doanh nghiệp. Khi đó doanh nghiệp tiến hành hoạt động thanh lý số lượng vật tư này nhằm mục đích giải phóng diện tích kho và thu hồi vốn cho doanh nghiệp. Quyết toán vật tư: đây là hoạt động cuối cùng kết thúc toàn bộ quá trình đảm bảo vật tư cho sản xuất ở doanh nghiệp. Hoạt động này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả của công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất ở doanh nghiệp. Từ đó giúp cho doanh nghiệp có định hướng và biện pháp để điều chỉnh hoạt động đảm bảo vật tư ở kỳ sản xuất tiếp theo 4. Đặc điểm tay nghề và ý thức của người lao động trong ngành thép
  16. Yêu cầu về lao động của ngành thép hiện nay không chỉ có kinh nghiệm mà cần phải có kiến thức. Xét về mặt kiến thức chuyên môn, lực lượng lao động trong ngành thép còn khá thấp. Đây là một trong nhữngcản trở quan trọng đối với quá trình đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tỷ trọng cán bộ chuyên môn có trình độ cao còn thấp. Phần lớn các cán bộ chuyên môn ở các công ty thép Việt Nam ch ưa được tiếp xúc với công nghệ tiên tiến, mà đang làm việc ở các nhà máy có công nghệ lạc hậu. Hiện nay, ngành thép có khoảng 27500 lao động, trong đó tổng công ty thép Việt Nam có khoảng 18775 lao động. Riêng công ty thép Thái Nguyên là: 11411 người. Công ty thép Miền Nam 3867 lao động. Rõ ràng cùng với công nghệ lạc hậu cộng thêm lực lượng lao động lớn do lịch sử để lại trình độ chuyên môn thấp đang là bài toán khó với tổng công ty thép Việt Nam trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh. Vấn đề đầu tư công nghệ thiết bị hiện đại chắc chắn sẽ làm dôi dư một lực lượng lao động khá lớn. Nhà nước cần hỗ trợ cho tổng công ty thép Việt Nam giải quyết vấn đề lao động của ngành. Lực lượng cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực thép tại Việt Nam còn khá mỏng. Xét về mức độ lành nghề, lực lượng thợ lành nghề ở Việt Nam không nhiều. Theo các nhà quản lý tại công ty liên doanh, lực lượng lao động Việt Nam được đào tạo cơ bản khá tốt so với các nước khác trong khu vực, có khả năng sáng tạo và thích nghi cao với công việc mới. Khả năng đó nếu được bồi dưỡng thêm một số kỹ năng thực hành thì họ sẽ trở nên rất giỏi. Cụ thể là: Công ty thép Việt – Hàn cũng tự hào có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm đã qua tuyển chọn và đào tạo kĩ càng trong đó nhiều cán bộ kĩ sư của VPS đã từng làm việc hoặc được đào tạo ở công ty nước ngoài. Hàng năm VPS đã cử các đoàn cán bộ công nhân viên đi tham quan khảo sát và học tập tại các nhà máy sản xuất thép của tập đoàn POSCO (Hàn Quốc), để người lao động được học tập, nâng cao tay nghề. Nhờ vậy cán bộ công nhân viên của VPS không những đã hoàn toàn làm chủ dây chuyền công nghệ chế tạo được các sản phẩm chất lượng cao, mà còn tích cực cải tiến kĩ thuật nhăm nâng cao năng suât, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Nhà máy luyện thép Lưu Xá có đội ngũ gồm 800 cán bộ công nhân viên giàu kinh nghiệm và chuyên môn cao, trong đó 110 người có trình độ đại học và cao đẳng, có trên
  17. 100 người có trình độ trung cấp được đào tạo ở trong và ngoài nước. Nhà máy luyện thép Lưu Xá trở thành một đơn vị sản xuất phôi thỏi lớn nhất ngành thép Việt Nam. Công ty gang thép Thái Nguyên đội ngũ lao động vẫn bộc lộ những mặt hạn chế . Một bộ phận người lao động chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa tầm quan trọng của công tác đào tạo và phát triển. Vẫn còn tư tưởng bao cấp, chưa thực sự chủ động tìm lớp tìm thầy để học tập, bồi dưỡng chuyên môn chưa coi việc tự đào tạo là nhu cầu thương xuyên của mỗi cán bộ, công nhân Các chế độ động viên, khuyến khích đối với người học và người dạy về vật chất, tinh thần cũng như đãi ngộ, ưu tiên trong việc tiến cử, đề bạt … thực sự chưa tạo được động lực thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đào tạo Công tác đào tạo chủ yếu được tiến hành khép kín trong nội bộ công ty, chưa khai thác lợi thế và năng lực của đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất của các trường, trung tâm, viện nghiên cứu của tỉnh Thái Nguyên, Hà Nội. II. Thực trạng của việc tiết kiệm vật tư ở ngành thép 1.Thực trạng của việc tạo nguồn vật tư ở ngành thép Ngành thép tiếp tục triển khai đầu tư chiều sâu các cơ sở luyện kim và cán thép hiện có. Đầu tư xây dựng mới 1-2 cơ sở sản xuất phôi thép, năng lực sản xuất phôi thép từ 40 vạn tấn năm 2000 lên 1 - 1.4 triệu tấn năm 2005. Xây dựng nhà máy cán thép nguội và nhà máy cán thép nóng để sản xuất thép tấm, thép lá. Nghiên cứu và chuẩn bị xây dựng cơ sở luyện thép liên hợp từ quặng trong nước và nhập khẩu. Do yêu cầu đổi mới đến năm 1992, nhà máy luyện thép Lưu Xá đã đầu tư lắp đặt 1 lò điện hồ quang luyện thép 30T/mẻ với công suất 92000T/năm (thiết bị Trung Quốc) thay thế cho công nghệ luyện thép Martin. Sau đó nhà máy tiếp tục lắp đặt thêm một máy đúc liên tục 4 dòng của Ấn Độ có bán kính cong 4m, công suất 1200000T/năm đưa vào sử dụng từ tháng 6/1996 thay thế cho công nghệ đúc phôi xi phông. Trong dự án đầu tư cải tạo mở rộng sản xuất công ty gang thép Thái Nguyên, nhà máy luyện thép Lưu Xá được đầu tư lắp đặt mới một lò điện siêu cao, công suất mở đáy 30T/mẻ, lò thùng tinh luyện 40T/mẻ Công ty thép Việt Hàn đã đề ra và thực hiện phương châm “mọi hoạt động đều hướng tới chất lượng và khách hàng” với mong muốn cung cấp cho khách hàng các sản phẩm tốt nhất, đáp ứng mọi yêu cầu của thị trường VSP đã không ngừng chú trọng đầu tư
  18. nâng cấp dây chuyền, thiết bị sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tối ưu hóa phương thức phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Các sản phẩm của VPS đều được sản xuất theo các tiêu chuẩn của Nhật Bản (JIC) Anh (BS), Hoa Kỳ (ASTM) và Việt Nam (TCVN). Quá trình sản xuất từ khâu mua nguyên liệu đầu vào đến xuất hàng đều được kiểm sóat nghiêm ngặt để loại bỏ các sản phẩm không phù hợp đảm bảo chất lượng sản phẩm luôn ổn định. Công ty thép tấm lá Phú Mỹ với mong muốn mang tới kế hoạch sản phẩm hoàn hảo và chất lượng, PFS đã đầu tư xây dựng những khu nhà xưởng với hệ thống các dây chuyền sản xuất khá hiện đại theo công nghệ cán 4 trục của các nước có nền công nghiệp phát triển như: Ý, Mỹ, Áo. Công suất sản xuất của công ty khoảng 400000 tấn / năm gồm các sản phẩm như thép lá nguội mềm cứng và cuộn thép P.O theo tiêu chuẩn JIS của Nhật Bản, DIN của Châu Âu và ASTM của Mỹ. Năm 2006 công ty thép Miền Nam đầu tư xây dựng một nhà máy mới theo công nghệ hiện đại có công suất hàng năm 500000 tấn phôi và 400000 tấn thép cán cùng một cảng chuyên dùng 1000000 tấn /năm nhằm nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Tổng công ty thép đã mở rộng cơ sở vật chất nhà máy sản xuất, trong 3 năm 2001- 2003 TCT đã triển khai được 140 dự án lớn nhỏ, trong đó có 3 dự án nhóm A(cải tạo mở rộng công ty gang thép Thái Nguyên giai đoạn 1, thép cán nguội Phú Mỹ với tổng mức đầu tư 4.600 tỷ đồng) và 5 dự án nhóm B và hơn 100 dự án nhóm C. Riêng năm 2003 TCT đã phê duyệt 38 dự án mới (cả B và C) với tổng mức đầu tư là 339,6 tỷ đồng, tổ chưc phê duyệt được 53 gói thầu với giá trị trúng thầu giảm thấp là 1.759 tỷ đồng và 4,1 triệu USD … Trong giai đoạn 2006-2010 TCT thép có một số dự án đầu tư quan trọng: Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 Công ty Gang thép Thái nguyên: sản xuất phôi thép từ quặng sắt, công suất 500.000 tấn /năm, vốn đầu tư trên 3.800 tỷ đồng; Dự án liên doanh khai thác mỏ sắt Quý Sa và xây dựng Nhà máy Thép Lào Cai: 1,5 triệu tấn quặng sắt và 500.000 tấn phôi thép /năm; Vốn đầu tư khoảng 900 tỷ đồng; Dự án nhà máy thép cuộn nóng: Công suất 1,5-2 triệu tấn mỗi năm, vốn đầu tư khoảng 525 triệu USD; Dự án khai thác mỏ sắt Thạch Khê: 5-10 triệu tấn/năm,vốn đầu tư khoảng trên 300 triệu USD; Dự án
  19. xây dựng nhà máy thép liên hợp Hà Tĩnh, công suất 4,5 triệu tấn/ năm, vốn đầu tư 3,5 tỷ USD 2. Thực trạng của việc cung ứng vật tư cho sản xuẩt của ngành thép Việc đầu tiên mà công ty thép Miền Nam cần giải quyết là tìm được nguồn vật tư nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Công ty đã chủ động tìm kiếm, khai thác thu mua nguồn sắt thép vụn nên trong năm đã thu mua được 300 nghìn tấn sắt thép phế thải, gần 70 nghìn tấn gang các lọai đồng thời chú trọng đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Nhờ thực hiện tốt việc cung ứng vật tư nên trong công ty đã nâng cao được sản lượng nấu luyện tự cung cấp 50% lượng phôi cho sản xuất cán. Theo tổng công ty thép Việt Nam, toàn ngành đến nay đã sản xuất được khoảng 400000 tấn phôi / năm. So với nhu cầu của nền kinh tế đang cần khoảng 2,4 triệu tấn thép /năm, thì lượng phôi sản xuất được còn quá nhỏ. Ngành thép vẫn đang phải nhập khẩu phôi thép để cán ra thép thương phẩm phục vụ nhu cầu thị trường. Điểm yếu của ngành luyện thép Việt Nam là nguồn nguyên liệu. Do điều kiện khai thác quặng sắt ở nước ta còn nhiều khó khăn ngành thép lại phát triển chủ yếu công nghệ lò điện và sử dụng nguyên liệu là sắt thép phế liệu để sản xuất thép phôi, nên phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu thép phế. Ở nước ta 75% thép phôi có nguồn gốc từ thép phế liệu. Công nghiệp của Việt Nam mới phát triển nên chỉ tạo ra lượng thép phế liệu khoảng 300.000 tấn /năm, không đủ cho nhu cầu. Thống kê của Tổng cục hải quan cho biết, năm 1998 Việt Nam, mới nhập khẩu hơn 50.000 tấn thép phế liệu; năm 2000 đã nhập khẩu trên 170.000 tấn; và năm 2002là 261.389 tấn nhưng thép vụn cho lò điện không đáng kể . Từ năm 2005 khi hàng loạt lò luyện kim cuả các nhà máy: Phú Mỹ, Cái Lân, Cửu Long, Hưng Yên…đồng loạt hoạt động ngành thép khi đó đạt công suất trên 2 triệu tấn phôi thép /năm, thì nhu cầu thép phế liệu cho ngành luyện kim sẽ rất lớn. Sắt thép phế liệu là một loại nguyên liệu vô cùng quan trọng trong ngành công nghiệp thép, chiếm tỷ trọng 37-38% trong toàn bộ nguyên liệu để sản xuất thép. Chúng ta cần nhớ rằng, để sản xuất được trên 500 triệu tấn gang một năm nhân loại phải bỏ ra rât nhiều tiền của, công sức trí tuệ và phải chịu những hậu quả to lớn về môi trường trong việc thăm dò, khai thác và chế biến quặng sắt than mỡ, luyện cốc và luyện gang. Nguồn thép phế liệu được tạo ra chủ yếu từ các nước có nền công nghiệp phát triển. Những nước
  20. nay là những nước đang phát triện ngành công nghiệp thép từ lâu nên sử dụng công nghệ chủ yếu là Lò cao-Luyện chuyển –tinh luyện – Đúc liên tục –Cán. Vì vậy những nước này là những nước xuất khẩu rất nhiều thép phế liệu. Thép phế liệu không phải là sản phẩm do con người sản xuất ra mà nó được tạo ra trong quá trình sản xuất và sử dụng thép vật liệu. Đây là lọai nguyên liệu vô cùng quan trọng của ngành công nghiệp thép, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Việc sử dụng thép phế liệu để sản xuất thép mang lại những hiệu quả kinh tế và xã hội rất lớn. Viên nghiên cứu công nghiệp tái chế phế liệu đã tổng kết các lợi ích của việc sử dụng thép phế liệu sản xuất thép so với công nghệ khai thác quặng sắt – lò cao- lò thép như sau: Tiết kiệm năng lượng: 74% Tiết kiệm khoáng sản: 90% Giảm ô nhiễm không khí: 86% Giảm sử dụng nước: 40% Giảm ô nhiễm nước: 76% Giảm tiêu thụ nước trong khai mỏ: 97% Giảm phế thải phát sinh: 105% Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp thép Việt Nam đã sản xuất khoảng 400.000 tấn phôi, trong đó khoảng 75% là từ thép phế liệu. Do công nghiệp của nước ta mới phát triển và còn nhỏ bé nên lượng thép phế liệu tạo ra hàng năm cũng chỉ khoảng 300.000 tấn. Vì vậy chúng ta đã phải nhập khẩu thép phế liệu từ nước ngoài, tuy còn rất ít. Năm 2002 chúng ta nhập khẩu 261.389 tấn thép phế liệu Công ty gang thép Thái Nguyên hiện là doanh nghiệp sở hữu duy nhất ở nước ta sản xuất thép chủ yếu đi từ nguyên liệu trong nước như quặng sắt, thép phế, than mỡ và một số vật tư khác. Năm nay công ty phấn đấu sản xuất gần 30 vạn tấn phôi thép, tăng hơn năm 2003 gần 4 vạn tấn, với giá thấp hơn hẳn phôi thép nhập của nước ngoài, hạ giá thành thép thành phẩm, góp phần bình ổn giá thép xây dựng ở trong n ước, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo đà tăng nhanh hơn nữa mức sản xuất phôi thép trong các năm tới. Để đảm bảo sản xuât phôi thép với giá thành hạ lãnh đạo công ty đã tập trung chỉ đạo đồng bộ các khâu từ khai thác mỏ, mua gom và nhập khẩu thép phế liệu đến than
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2