LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
lượt xem 124
download
Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội (KT-XH) phổ biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích về KT-XH trong phát triển. Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi diện mạo và từng bước khẳng định tầm...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
- LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, trên thế giới du lịch trở thành hiện tượng kinh tế - xã hội (KT-XH) phổ biến, là cầu nối tình hữu nghị, là phương tiện gìn giữ hòa bình và hợp tác giữa các quốc gia, dân tộc. Ở nhiều quốc gia, du lịch là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, đem lại những lợi ích về KT-XH trong phát triển. Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới ngành du lịch đã có nhiều khởi sắc, thay đổi diện mạo và từng bước khẳng định tầm vóc của ngành trong nền kinh tế quốc dân, góp phần phát triển KT-XH, thúc đẩy giao lưu văn hóa làm cho nhân dân thế giới hiểu biết thêm về đất nước con người Việt Nam, tranh thủ được sự thiện cảm và sự đồng tình ủng hộ quốc tế trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc; đóng góp tích cực hơn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước. Hoạt động du lịch (HĐDL)tăng cả bề rộng lẫn chiều sâu. Có thể nói rằng không có ngành kinh tế nào đi tắt đón đầu đuổi kịp trình độ phát triển của các nước trong khu vực, rút ngắn khoảng cách và chống tụt hậu về kinh tế nhanh bằng ngành du lịch. Chính vì vậy, những năm qua Đảng và Nhà nước ta có sự quan tâm đặc biệt đến ngành "công nghiệp không khói" này. Công tác quản lý nhà nước (QLNN) đối với ngành du lịch luôn được tăng cường, đổi mới, từng bước hoàn thiện để phù hợp với điều kiện phát triển du lịch trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế sâu hơn, đầy đủ hơn với khu vực và thế giới. Kiên Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), có tiềm năng phát triển du lịch rất phong phú và đa dạng. Điều kiện tự nhiên đã tạo cho Kiên Giang những cảnh quan thiên nhiên độc đáo, nhiều danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp về hang động, sông, suối, bãi biển, rừng nguyên sinh,... Bên cạnh đó, Kiên Giang còn có các di tích văn hóa, lịch sử mang đậm nét đặc trưng của đất và người Kiên Giang tập trung ở các địa bàn như: TP Rạch Giá, thị xã Hà Tiên, huyện Phú Quốc, Kiên Lương, Hòn Đất và U Minh Thượng. Đặc biệt, Phú Quốc là một huyện đảo có nhiều tiềm năng nhất để phát triển du lịch. Chính vì vậy, ngày 05-10-2004 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 178/2004/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án phát triển tổng thể đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”. Tại Điều 2 ghi rõ:
- “...Từng bước xây dựng đảo Phú Quốc thành Trung tâm du lịch (du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng và du lịch biển) tầm cỡ khu vực và quốc tế với các hình thức dịch vụ chất l ượng cao, thu hút nhiều khách quốc tế và đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước” [50]. Mặt khác, các địa bàn bao gồm: huyện Phú Quốc, Kiên Hải, Hòn Đất, Kiên Lương, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, thị xã Hà Tiên và TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang còn được tổ chức UNESCO Liên Hợp Quốc công nhận là Khu bảo tồn sinh quyển thế giới vào ngày 27-10-2006, với tổng diện tích hơn 1,1 triệu ha, đây là điều kiện thuận lợi to lớn cho việc phát triển du lịch sinh thái của tỉnh. Có thể nói, Kiên Giang là một tỉnh có tiềm năng và lợi thế để phát triển du lịch hơn nhiều so với các địa phương khác ở vùng ĐBSCL. Công tác QLNN đối với HĐDL được Đảng bộ và chính quyền tỉnh quan tâm củng cố thường xuyên, từng bước hoàn thiện. Do đó, du lịch thời gian qua đã có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển KT-XH của tỉnh. Tuy nhiên, QLNN đối với hoạt động này ở tỉnh Kiên Giang còn những hạn chế nhất định. Đó là, mặc dù tầm quan trọng của du lịch trong kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh đã được nâng lên một bước, nhưng trên thực tế, các ban, ngành và các cấp trong tỉnh chưa quan tâm đúng mức tới việc tạo môi trường thuận lợi cho du lịch phát triển, chưa khơi dậy được tiềm năng và chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch; chưa quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ và tôn tạo tài nguyên du lịch. Việc giáo dục du lịch cho cán bộ và nhân dân trong tỉnh chưa tốt nên không phải ai cũng hiểu được vị trí, vai trò của du lịch trong đời sống cộng đồng để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch trên quan điểm phát triển du lịch bền vững. Cơ chế, chính sách về du lịch có mặt chưa đồng bộ và nhất quán. Quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch và đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng (KCHT), cơ sở vật chất - kỹ thuật (CSVC-KT) du lịch còn nhiều bất cập, dẫn đến tình trạng thừa, thiếu cục bộ ở nhiều khu, điểm du lịch. Những hạn chế nêu trên là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc chưa tận dụng được lợi thế, tiềm năng sẵn có của tỉnh để phát triển du lịch cũng như những bất cập trong HĐDL ở tỉnh Kiên Giang thời gian qua. Mặt khác, trước những yêu cầu mới trong giai đoạn hiện nay, nhất là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
- công tác QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang cần được đổi mới một cách toàn diện, để vừa đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh, vừa góp phần tạo ra sự phát triển nhanh và bền vững của ngành du lịch tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới. Với lý do đó, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay” làm luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý nhằm góp phần giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề QLNN đối với HĐDL ở phạm vi cả nước nói chung và của từng địa phương nói riêng là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, các nhà lãnh đạo và quản lý kinh tế. Một số công trình khoa học tiêu biểu như sau: - Nguyễn Minh Đức (2007), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại, du lịch tỉnh Sơn La trong quá trình CNH, HĐH”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Đây là một công trình nghiên cứu QLNN đối với hoạt động thương mại, du lịch ở một địa phương cụ thể. Luận án đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm làm rõ chức năng, nhiệm vụ; đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm góp phần đổi mới và nâng cao trình độ QLNN về thương mại, du lịch ở tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, tác giả chỉ nghiên cứu QLNN đối với hoạt động thương mại, du lịch thuộc khu vực Tây Bắc Bộ, bao gồm các tỉnh miền núi, trong đó có tỉnh Sơn La, có điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, văn hóa, tiềm năng phát triển du lịch khác nhiều so với khu vực Tây Nam Bộ, trong đó có tỉnh Kiên Giang. - Nguyễn Thị Thanh Hiền (1995) “Quản lý nhà nước về du lịch trong giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn đã phân tích đặc điểm, vai trò của ngành du lịch trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam, đánh giá thực trạng QLNN về du lịch nói chung và đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu lực QLNN về du lịch. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu vấn đề QLNN về du lịch ở một địa phương cụ thể. - Huỳnh Vĩnh Lạc (2005), “Khai thác tiềm năng du lịch đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang”, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận văn chủ yếu phân tích, đánh giá thực trạng tiềm năng phát triển du lịch và đề xuất những giải pháp đẩy mạnh khai thác tiềm năng phát triển du lịch trong phạm vi của một huyện, thuộc tỉnh Kiên Giang. Tác giả chưa nghiên cứu sâu vấn đề QLNN đối với HĐDL nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng. - Trịnh Đăng Thanh (2004) “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động du lịch ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận án đã đưa ra cơ sở lý luận về sự cần thiết phải QLNN bằng pháp luật đối với HĐDL; phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện QLNN bằng pháp luật đối với HĐDL trước yêu cầu mới. Tuy nhiên, tác giả chưa nghiên cứu toàn diện vấn đề QLNN đối với HĐDL nói chung và ở từng địa phương nói riêng. Ngoài ra, còn một số bài viết liên quan đến vấn đề phát triển du lịch và QLNN về du lịch, cụ thể như: - Trần Xuân Ảnh (2007), "Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về thị trường du lịch", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 132. - Nguyễn Văn Mạnh (2007), “Để du lịch Việt Nam phát triển nhanh và bền vững sau khi gia nhập WTO”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 115. - Vũ Khoan (2005), “Đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn vào năm 2010”, Tạp chí Du lịch, số 11. - Trịnh Đăng Thanh (2004), “Một số suy nghĩ về công tác quản lý nhà nước đối với ngành du lịch”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 98. - Võ Thị Thắng (2001), "Tăng cường quản lý nhà nước để du lịch Việt Nam phát huy vai trò ngành kinh tế mũi nhọn", Tạp chí Quản lý nhà nước, số 7(66). - Hoàng Anh Tuấn (2007), “Du lịch Việt Nam - Thành tựu và phát triển”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 133. - Trần Nguyễn Tuyên (2005), “Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 114. Như vậy, cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu sâu và toàn diện về quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang hiện nay.
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang nhằm thúc đẩy hoạt động này phát triển nhanh và bền vững, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển KT-XH chung của tỉnh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài tập trung giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Phân tích về mặt lý luận đặc điểm, vai trò, ý nghĩa KT-XH của HĐDL và vai trò, chức năng, nhiệm vụ QLNN đối với HĐDL nói chung và ở cấp tỉnh nói riêng. - Nghiên cứu kinh nghiệm QLNN về du lịch của một số tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL trong thời gian gần đây. - Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian qua. Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất phương hướng, các giải pháp phù hợp, khả thi nhằm hoàn thiện QLN N đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang trong thời gian từ nay đến năm 2010 và 2020. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý nhà nước đối với hoạt động du lịch ở tỉnh Kiên Giang. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở việc nghiên cứu công tác quản lý nhà nước của chính quyền cấp tỉnh đối với hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang. Thời gian khảo sát thực trạng từ năm 2001 đến năm 2007; các giải pháp dự kiến đề xuất cho giai đoạn từ nay đến năm 2010 và 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về kinh tế và quản lý kinh tế, nhất là những quan điểm được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX và X. * Phương pháp nghiên cứu:
- - Phương pháp chung: Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Phương pháp cụ thể: Phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, so sánh, dự báo, phương pháp chuyên gia. Ngoài ra, luận văn cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố. 6. Những đóng góp mới về khoa học và thực tiễn của luận văn - Hệ thống hóa và làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN đối với HĐDL trên địa bàn cấp tỉnh trong giai đoạn hiện nay. - Phân tích, đánh giá đúng thực trạng QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang những năm qua; chỉ ra được những mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân. - Đề xuất được phương hướng và các giải pháp thiết thực, khả thi nhằm hoàn thiện QLNN đối với HĐDL ở tỉnh Kiên Giang thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết.
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động du lịch và các loại hình hoạt động kinh doanh du lịch 1.1.1.1. Khái niệm du lịch và hoạt động du lịch - Khái niệm du lịch: Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Pháp: “Tour” nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “touriste” là người đi dạo chơi. Trong tiếng Anh “to tour” có nghĩa là đi dã ngoại đến một nơi nào đó. Mặt khác, “du lịch” là từ Hán-Việt, có thể coi là từ ghép giữa “du” là đi chơi với “lịch” là sự lịch lãm, hiểu biết. Vậy du lịch là gì? Có nhiều quan niệm khác nhau về du lịch, đầu tiên du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày nay, khi du lịch phát triển mạnh trở thành lĩnh vực không thể thiếu trong đời sống con người (từ giữa thế kỷ XX đến nay), người ta đưa ra những khái niệm cụ thể hơn về du lịch. Có quan niệm cho rằng: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa [67, tr.15]. Tại Hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa - Canada (6/1991) đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên của mình trong một khoảng thời gian nhất định, mục đích của chuyến
- đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm” [21]. Theo định nghĩa của Tổ chức Du lịch thế giới của Liên Hợp Quốc (UNWTO): Du lịch bao gồm tất cả các hoạt động của những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục không quá một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong môi trường sống khác hẳn nơi định cư [31]. Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [36, tr.9]. Trên cơ sở các yếu tố hợp lý của các định nghĩa về du lịch nêu trên, khái niệm du lịch sử dụng trong luận văn được hiểu là: Du lịch là bao gồm tất cả các mối quan hệ, các hoạt động liên quan đến chuyến đi và lưu trú của con người ở ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu, khám phá, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, giải trí, phát triển thể chất và tinh thần kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, một mặt, du lịch mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí... Mặt khác, du lịch được nhìn nhận dưới góc độ một hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) do chính nó tạo ra. Ở khía cạnh thứ nhất, trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể thiếu được trong cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Ở các chuyến du lịch trong và ngoài nước, con người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi, giải trí,... mà còn thỏa mãn cả những nhu cầu to lớn về mặt tinh thần.
- Ở khía cạnh thứ hai, du lịch là một hiện tượng KT-XH thu hút hàng tỷ người trên thế giới. Bản chất kinh tế của nó là ở chỗ sản xuất và cung cấp hàng hóa p hục vụ việc thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của khách du lịch. - Khái niệm hoạt động du lịch: Cũng như khái niệm du lịch, cũng có rất nhiều quan niệm khác nhau về hoạt động du lịch. Trước đây, người ta chỉ quan niệm hoạt động du lịch là một hoạt động mang tính chất văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí và những nhu cầu hiểu biết của con người, hoạt động du lịch không được coi là hoạt động kinh tế, không mang tính chất kinh doanh và ít được đầu tư phát triển. Ngày nay, khi du lịch được nhiều quốc gia trên thế giới xem là một ngành kinh tế quan trọng thì quan niệm về hoạt động du lịch được hiểu một cách đầy đủ hơn. Trên cơ sở tổng hợp lý luận và thực tiễn hoạt động du lịch ở Việt Nam thời gian một vài thập kỷ gần đây, Luật Du lịch do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp lần thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005 đưa ra khái niệm hoạt động du lịch như sau: "Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch" [36, tr.9]. Với cách tiếp cận này, hoạt động du lịch được nhìn nhận ở ba khía cạnh: Thứ nhất, “hoạt động của khách du lịch” nghĩa là việc di chuyển và lưu trú tạm thời của người đi du lịch đến một nơi ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ để tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tìm hiểu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật... Thứ hai, “tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch”, tức là những người hoạt động tổ chức lưu trú, phục vụ ăn uống, hướng dẫn tham quan, vận chuyển đưa đón du khách, kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ khác... nhằm mục tiêu lợi nhuận. Thứ ba, “cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan”, tức là cơ quan nhà nước và các tổ chức có liên quan tại địa phương du lịch tổ chức quản lý, điều phối, phục vụ hoạt động của “khách du lịch” và “tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh du lịch” nhằm đảm bảo cho các đối tượng này thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia HĐDL theo đúng luật định.
- 1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động du lịch Xuất phát từ các khái niệm về du lịch và HĐDL, có thể rút ra một số đặc điểm chủ yếu của HĐDL như sau: Một là, HĐDL mang tính chất của một ngành kinh tế dịch vụ. Ngày nay, nền sản xuất xã hội cùng với khoa học - kỹ thuật và công nghệ phát triển với tốc độ cao đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động xã hội, làm gia tăng nhu cầu phục vụ sản xuất cũng như cuộc sống văn minh của con người. Từ đó, hoạt động du lịch trở thành một ngành kinh tế độc lập. Ở các nước phát triển và đang phát triển, tỷ trọng du lịch trong thu nhập quốc dân ngày càng tăng lên. Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ, bởi vậy sản phẩm của nó vừa mang những đặc điểm chung của dịch vụ vừa mang những đặc điểm riêng mà các ngành dịch vụ khác không có. Hai là, HĐDL là loại hình dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho khách du lịch trong thời gian đi du lịch. Dịch vụ du lịch khác với các ngành dịch vụ khác ở chỗ: dịch vụ du lịch chỉ thỏa mãn nhu cầu cho khách du lịch chứ không thỏa mãn nhu cầu cho tất cả mọi người dân. Dịch vụ du lịch là nhằm thỏa mãn những nhu cầu hàng hóa đặc thù của du khách trong thời gian lưu trú bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ về ăn, ở, nghỉ ngơi, đi lại, tham quan, vui chơi giải trí, thông tin về văn hóa, lịch sử, tập quán và các nhu cầu khác. Như vậy, dịch vụ du lịch là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thỏa mãn nhu cầu con người, làm cho con người sống ngày càng văn minh, hiện đại. Thực tế hiện nay cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, khi thu nhập của người dân tăng lên, đủ ăn, đủ mặc thì du lịch trở thành không thể thiếu, bởi vì ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm và lý trí, du lịch còn là một hình thức nghỉ dưỡng tích cực, nhằm tái tạo lại sức lao động của con người. Ba là, việc tiêu dùng và cung ứng dịch vụ du lịch xảy ra trong cùng một thời gian và không gian. Việc tiêu dùng các dịch vụ và một số hàng hóa (thức ăn, đồ uống chế biến tại chỗ...) xảy ra cùng một thời gian và cùng một địa điểm với việc sản xuất ra chúng.
- Trong du lịch, người cung ứng không phải vận chuyển dịch vụ và hàng hóa đến cho khách hàng, mà ngược lại, tự khách du lịch phải đi đến nơi có dịch vụ, hàng hóa. Chính vì vậy, vai trò của việc thông tin, xúc tiến quảng bá du lịch là hết sức quan trọng, đồng thời việc quản lý thị trường du lịch cũng cần có những đặc thù riêng. Bốn là, HĐDL mang lại lợi ích thiết thực về chính trị, kinh tế, xã hội cho nước làm du lịch và người làm du lịch. Hiện nay, ở nhiều nước trên thế giới du lịch không những đem lại lợi ích thiết thực về kinh tế mà còn mang lại cả lợi ích về chính trị, văn hóa, xã hội... Tuy nhiên, sự chi phối mạnh nhất đối với ngành du lịch vẫn là lợi ích kinh tế. Vì vậy, ở nhiều nước đã đưa ngành du lịch phát triển với tốc độ cao và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân, mang lại nguồn thu nhập lớn trong tổng sản phẩm xã hội. Do đó, dịch vụ du lịch ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu ngày càng cao của khách du lịch còn phải đảm bảo mang lại lợi ích kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội cho quốc gia làm du lịch và cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động du lịch. Năm là, HĐDL chỉ phát triển trong môi trường hòa bình và ổn định. Du lịch là lĩnh vực rất nhạy cảm với những vấn đề chính trị và xã hội. Du lịch chỉ có thể xuất hiện và phát triển trong điều kiện hòa bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Ngược lại, chiến tranh ngăn cản các hoạt động du lịch, tạo nên tình trạng mất an ninh, đi lại khó khăn, phá hoại các công trình du lịch, làm tổn hại đến cả môi trường tự nhiên. Hòa bình là đòn bẩy đẩy mạnh hoạt động du lịch. Ngược lại, du lịch có tác dụng trở lại đến việc cùng tồn tại hòa bình. Thông qua du lịch quốc tế con người thể hiện nguyện vọng nóng bỏng của mình là được sống, lao động trong hòa bình và hữu nghị. Và hơn thế nữa, không cần phải có chiến tranh mà chỉ cần có những biến động chính trị, xã hội ở một khu vực, một vùng, một quốc gia, một địa phương với mức độ nhất định cũng làm cho du lịch bị giảm sút một cách đột ngột và muốn khôi phục phải có thời gian. Ví dụ, vụ khủng bố 11/9 tại Mỹ, khủng bố tại đảo Bali - Indonêxia, sự kiện ‘‘đảo chính’’ ở Thái Lan... đã làm cho ngành du lịch các nước này lao đao có thể nhiều năm mới phục hồi. Mặt khác, tình
- trạng dịch bệnh, ô nhiễm môi trường... cũng là những nhân tố rất quan trọng tác động đến khách du lịch. 1.1.1.3. Các loại hình hoạt động kinh doanh du lịch Kinh doanh du lịch là quá trình tổ chức sản xuất, lưu thông, mua, bán hàng hóa du lịch trên thị trường, là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Kinh doanh du lịch bao gồm các loại hình: - Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế. - Kinh doanh lưu trú du lịch. - Kinh doanh vận chuyển khách du lịch. - Kinh doanh các khu du lịch, điểm du lịch. - Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác. 1.1.2. Ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường của hoạt động du lịch Du lịch từ lâu đã được coi là là một ngành KT-XH tổng hợp, đóng góp tích cực vào sự phát triển KT-XH của nhiều quốc gia trên thế giới. Ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường của HĐDL thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất, về kinh tế: HĐDL có tác động tích cực đến nền kinh tế của một đất nước, một vùng, một địa phương thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Thông qua tiêu dùng, du lịch tác động mạnh lên lĩnh vực lưu thông và do đó gây ảnh hưởng lớn lên những lĩnh vực khác của quá trình tái sản xuất xã hội. Đồng thời, thông qua lĩnh vực lưu thông mà du lịch có ảnh hưởng tích cực lên sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp và nông nghiệp (như công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp gỗ, công nghiệp dệt, ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi...). Du lịch luôn đòi hỏi hàng hóa có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, mỹ thuật và hình thức. Do đó, du lịch góp phần định hướng cho sự phát triển của các ngành
- ấy trên các mặt: số lượng, chất lượng, chủng loại sản phẩm và việc chuyên môn hóa của các xí nghiệp trong sản xuất, kinh doanh. Mặt khác, thị trường du lịch rất rộng lớn với nhu cầu hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng và khả năng thanh toán của khách hàng khá cao. Thị trường du lịch hoạt động trong không gian lãnh thổ như thị trường nội địa, nhưng ở thị trường này lại có khả năng “xuất khẩu tại chỗ” thu vào ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện việc tái phân chia nguồn thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng, miền, địa phương trong nước, tạo ra nhiều việc làm cho người dân, góp phần thúc đẩy nền kinh tế của một quốc gia, một vùng, một địa phương phát triển nhanh. Thứ hai, về chính trị: Du lịch góp phần củng cố và mở rộng các quan hệ đối ngoại, tăng cường sự hiểu biết về đất nước, con người, lịch sử truyền thống dân tộc, về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội của các nước mà du khách đến thăm. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau. Năm 1979, Đại hội của UNWTO đã thông qua Hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm, như “Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiệm của mỗi người”,“Du lịch là giấy thông hành của hòa bình”..., kêu gọi hàng triệu triệu người quý trọng lịch sử, văn hóa và truyền thống của các quốc gia, giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Thứ ba, về văn hóa, xã hội: Du lịch là hiện tượng khách quan trong đời sống xã hội của con người, có vai trò to lớn trong việc giữ gìn, hồi phục sức khỏe và tăng cường sức sống cho nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người. Đồng thời, thông qua du lịch, con người được thay đổi môi trường, có ấn tượng và cảm xúc mới, thỏa mãn được trí tò mò, đồng thời mở mang kiến thức, đáp ứng lòng ham hiểu biết, do đó tạo cho du khách nguồn cảm xúc mới, góp phần hình thành phương hướng đúng đắn trong ước mơ sáng tạo, trong kế hoạch cho tương lai của con người.
- Mặt khác, mỗi đất nước, mỗi dân tộc có những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hóa, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái riêng của mình và có địa bàn cư trú nhất định. Những đặc thù của từng dân tộc có sức hấp dẫn riêng đối với khách du lịch. Và du lịch là một hình thức quan trọng để các dân tộc giao lưu văn hóa với nhau. Thông qua HĐDL, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hóa phong phú và lâu đời của các dân tộc, từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế, hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lòng yêu lao động, tình bạn... Điều đó quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong toàn xã hội. Ngoài ra, sự phát triển du lịch có ý nghĩa lớn đối với việc góp phần khai thác bảo tồn các di sản văn hóa và dân tộc. Thứ tư, về môi trường sinh thái: Vai trò sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hóa môi trường thiên nhiên bao quanh, bởi vì chính môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động của con người. Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi phải tối ưu hóa quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Đến lượt mình, quá trình này kích thích việc tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên, đảm bảo điều kiện sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý. Việc làm quen với các danh thắng và môi trường thiên nhiên bao quanh có ý nghĩa không nhỏ đối với khách du lịch. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc các tri thức về tự nhiên, hình thành quan niệm và thói quen bảo vệ tự nhiên, góp phần giáo dục cho khách du lịch về mặt sinh thái học. Giữa xã hội và môi tr ường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt, xã hội cần đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của dòng khách du lịch và của việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Du lịch - bảo vệ môi trường là những hoạt động gần gũi và liên quan với nhau.
- 1.1.3. Các yếu tố tác động tới hoạt động du lịch 1.1.3.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một địa phương Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một địa phương như địa hình, rừng, biển, khí hậu, nguồn nước, tài nguyên thực vật, động vật... có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành các trung tâm, khu, điểm đến du lịch và tính bền vững của các sản phẩm du lịch. Thực tiễn cho thấy, một quốc gia, một vùng, một địa phương nếu có nhiều cảnh đẹp tự nhiên, có khí hậu ấm áp, có rừng, biển, động vật, thực vật phong phú… cộng với nằm ở vị trí có hệ thống giao thông thuận lợi thì ở nơi đó chắc chắn sẽ có sức hấp dẫn lớn thu hút khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu. Đồng thời, nơi đó cũng sẽ có khả năng đáp ứng các yêu cầu của nhiều loại hình du lịch với các đối tượng khác nhau góp phần thúc đẩy mạnh HĐDL phát triển. 1.1.3.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của một quốc gia, một vùng, một địa phương - Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế: Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiện nhu cầu du lịch và biến nhu cầu của con người thành hiện thực. Không thể nói tới nhu cầu hoặc HĐDL của xã hội nếu như lực lượng sản xuất xã hội còn ở trong tình trạng thấp kém. Thực tế cho thấy ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển, nhìn chung nhu cầu nghỉ ngơi du lịch còn rất hạn chế. Ngược lại, nhu cầu nghỉ ngơi du lịch ở các nước kinh tế phát triển rất đa dạng. Sự phát triển của du lịch bị chi phối bởi nền sản xuất xã hội. Để giải quyết nhu cầu ăn, ở, đi lại nghỉ ngơi du lịch của con người, những cái thiết yếu nhất đối với khách du lịch như mạng lưới đường giao thông, phương tiện giao thông, khách sạn, nhà hàng... khó có thể trông cậy vào một nền kinh tế yếu kém. Trong nền sản xuất xã hội nói chung, hoạt động của một số ngành như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và cả giao thông có ý nghĩa quan trọng để phát triển du lịch. Trước tiên, công nghiệp cùng với cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và
- công nghệ tạo nên những tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động, đồng thời tăng thêm khả năng đi du lịch. Công nghiệp phát triển cao, sản xuất ra những vật liệu đa dạng để xây dựng các công trình du lịch và hàng tiêu dùng cho khách du lịch. Sự tập trung dân cư trong các trung tâm công nghiệp lớn, bầu không khí bị các xí nghiệp công nghiệp làm ô nhiễm, tình trạng căng thẳng và tiếng ồn làm ảnh hưởng không tốt tới sức khỏe khiến cho con người phải tìm chỗ nghỉ và hồi phục sức khỏe ngoài nơi sinh sống. Công nghiệp phát triển là sức hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước. Hai là, nông nghiệp có ý nghĩa rất lớn, vì du lịch không thể phát triển được nếu như không đảm bảo việc ăn uống cho du khách. Nhiều du khách đi tham quan các vùng khác nhau trong và ngoài nước vì nguồn hoa quả và rau xanh có thể tìm được ở đó. Ba là, mạng lưới giao thông cũng là một trong những tiền đề kinh tế quan trọng nhất để phát triển du lịch. Nhờ mạng lưới giao thông hoàn thiện mà du lịch phát triển với tốc độ nhanh. Ngày nay con người có thể di chuyển một cách nhanh chóng, thuận tiện bằng phương tiện giao thông hiện đại: tàu hỏa, tàu biển, tàu sông cao tốc, tàu chạy trên đệm từ, máy bay phản lực,... Điều đó làm giảm thời gian đi lại, tăng thời gian nghỉ ngơi và du lịch. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế, cuộc các mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ là nhân tố trực tiếp làm nảy sinh nhu cầu và hoạt động du lịch. Cuộc cách mạng này đã khuấy động mọi ngành sản xuất, đem lại năng suất lao động và hiệu quả cao. Đó là tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động, tăng thêm khả năng thực tế tham gia hoạt động nghỉ ngơi du lịch, hoàn thiện KCHT và tạo cho du lịch có bước phát triển nhanh và bền vững. - Dân cư và lao động: Dân cư là lực lượng sản xuất quan trọng của xã hội. Cùng với hoạt động lao động, dân cư còn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Số lượng lao động và học sinh tăng lên sẽ làm gia tăng nhu cầu tham gia vào các loại hình du lịch khác nhau. Số lượng lao động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế du lịch. Số dân, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, cấu trúc, sự phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển du lịch. Nhu
- cầu du lịch của con người tùy thuộc vào đặc điểm xã hội, nhân khẩu của dân cư. Việc nghiên cứu, phân tích kết cấu dân cư theo nghề nghiệp, lứa tuổi để xác định nhu cầu nghỉ ngơi du lịch có ý nghĩa quan trọng để phát triển du lịch. - Điều kiện sống của dân cư: Điều kiện sống của dân cư là nhân tố quan trọng để phát triển du lịch. Nó được hình thành nhờ việc tăng thu nhập thực tế và cải thiện điều kiện sinh hoạt, nâng cao khẩu phần ăn uống, phát triển đầy đủ mạng lưới y tế, văn hóa, giáo dục... Đồng thời, du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống (vật chất, tinh thần) của con người đạt tới trình độ nhất định. Một trong những nhân tố then chốt là mức thu nhập thực tế của mỗi người trong xã hội. Không có mức thu nhập (cả cá nhân và xã hội) cao thì khó có thể nghĩ đến việc nghỉ ngơi du lịch. Cùng với việc tăng mức thu nhập thực tế, các điều kiện sống khác cũng phải liên tục được cải thiện. Các phương tiện đi lại của cá nhân tăng lên góp phần phát triển rộng rãi HĐDL. Nhìn chung, ở những nước kinh tế phát triển, có mức thu nhập cao tính bình quân theo đầu người, nhu cầu và hoạt động du lịch trên thực tế phát triển mạnh mẽ nhất. - Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch: Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh h ưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch có tính chất KT-XH và là sản phẩm của sự phát triển xã hội. Nó được hình thành trong quá trình phát triển KT-XH dưới tác động của các yếu tố khách quan thuộc môi trường bên ngoài, giữa điều kiện sống hiện có với điều kiện sống cần có thông qua các dạng nghỉ ngơi khác nhau. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch đặc trưng cho một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Nó chỉ ra đời ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, là kết quả tác động tổng hợp của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, tăng mật độ và sự tập trung dân cư vào các thành phố, kéo dài tuổi thọ... Song chỉ trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật, nhu cầu mới trở thành hiện thực trên quy mô xã hội. Điều đó giải thích ở chỗ, giống như bất kỳ hiện tượng xã hội nào, nhu cầu là sự phản ánh chủ quan của các điều kiện khách quan tồn tại con người.
- - Thời gian rỗi: Du lịch trong nước và quốc tế không thể phát triển được nếu con người thiếu thời gian rỗi. Nó thật sự trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy HĐDL. Thời gian rỗi (tự do) là thời gian cần thiết cho con người để nâng cao học vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức năng xã hội, tiếp xúc với bạn bè, vui chơi giải trí… Thời gian rỗi là phần thời gian ngoài giờ làm việc, trong đó diễn ra các hoạt động nhằm hồi phục và phát triển thể lực, trí tuệ, tinh thần của con người. Một cách đầy đủ nhất, có thể hiểu thời gian rỗi là thời gian cần thiết cho việc hồi phục sức lực của con người đã bỏ ra để tạo nên sản phẩm nào đấy trong điều kiện bình thường của sản xuất… và cả thời gian cần thiết cho việc phục hồi mở rộng để đảm bảo tiếp tục nâng cao năng suất lao động. Nguồn quan trọng nhất làm tăng thời gian rỗi là giảm độ dài của tuần làm việc và giảm thời gian của công việc nội trợ. Nhiều nước đã thực hiện chế độ tuần làm việc 5 ngày (trong đó có Việt Nam). 1.1.3.3. Tài nguyên du lịch Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hóa, lịch sử cùng các thành phần của chúng được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch nhằm góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí lực của con người, khả năng lao động và sức khỏe của họ. Du lịch là một trong những ngành có sự định hướng tài nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức lãnh thổ của ngành du lịch, đến việc hình thành, chuyên môn hóa các vùng du lịch và hiệu quả kinh tế của HĐDL. Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh quan tự nhiên cùng cảnh quan nhân văn (văn hóa) có thể sử dụng cho dịch vụ du lịch và thỏa mãn nhu cầu về chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham quan hay du lịch. Về thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các đối tượng văn hóa – lịch
- sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch. Xét về cơ cấu, tài nguyên du lịch có thể chia làm 2 nhóm: Tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên nhân văn. Các tài nguyên thiên nhiên gồm: địa hình, khí hậu, suối nước khoáng, biển, sông, hồ, thực vật, động vật, rừng, núi,... Tài nguyên nhân văn: các tượng đài kiến trúc, công trình văn hóa (viện bảo tàng, triển lãm trưng bày nghệ thuật, nhà hát, thư viện...), các di tích văn hóa, lịch sử, các loại hình văn hóa phi vật thể (lễ hội, âm nhạc cổ truyền, nghệ thuật,...). Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hóa - thể thao và hoạt động nhận thức khác... thường có sức hút lớn đối với khách du lịch và chúng có ý nghĩa quan trọng đến chiến lược phát triển du lịch của một quốc gia, một vùng, một địa phương. Mặt khác, tài nguyên du lịch đa dạng, giàu bản sắc cả về thiên nhiên (bãi biển, hang động, suối nước nóng, nước khoáng, đảo, lớp phủ thực vật và thế giới động vật quý hiếm, nhiều cảnh quan tự nhiên độc đáo điển hình...) lẫn nhân văn (các di tích lịch sử, nghệ thuật kiến trúc, những phong tục tập quán, các làng nghề và truyền thống văn hóa đặc sắc của các dân tộc...) tạo điều kiện cho chúng ta phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú hấp dẫn như: nghỉ dưỡng, thể thao, nghiên cứu khoa học, hội chợ, hội nghị, festival... dài ngày và ngắn ngày. 1.1.3.4. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch KCHT nói chung có vai trò đặc biệt đối với việc đẩy mạnh HĐDL. Về phương diện này, mạng lưới và phương tiện giao thông là những nhân tố quan trọng hàng đầu. Du lịch gắn với sự di chuyển của con người trên một khoảng cách nhất định. Nó phụ thuộc vào giao thông (mạng lưới đường sá và phương tiện giao thông). Chỉ có thông qua mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng thì HĐDL mới được đẩy mạnh và trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội. Mặt khác, các hệ thống thông tin liên lạc, điện, nước... cũng là một phần quan trọng không thể thiếu trong KCHT phục vụ du lịch.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn "Quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay - vấn đề và giải pháp"
105 p | 612 | 152
-
LUẬN VĂN: Quản lý Nhà nước vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp
10 p | 365 | 84
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Thanh Hoá
130 p | 160 | 42
-
LUẬN VĂN: quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế
20 p | 162 | 32
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
124 p | 113 | 31
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai
123 p | 121 | 28
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý Nhà nước về công tác cấp giấy phép xây dựng nhà ở riêng lẻ đô thị trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng – Thành phố Hà Nội
124 p | 199 | 27
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trên địa bàn tỉnh Bình Dương
137 p | 126 | 21
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về môi trường trên địa bàn thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang
121 p | 152 | 19
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về Hộ tịch ở cấp xã trên địa bàn huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang
109 p | 140 | 18
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
130 p | 89 | 17
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về hải quan tại Chi cục Hải quan cửa khẩu sân bay Nội Bài
125 p | 136 | 12
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về các di tích lịch sử-văn hóa trên địa bàn huyện Tĩnh Gia
98 p | 78 | 10
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp bằng vốn ngân sách ở tỉnh Quảng Bình
117 p | 78 | 10
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về dịch vụ khám chữa bệnh ở bệnh viện tuyến huyện tỉnh Đắk Lắk
108 p | 82 | 9
-
Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước đối với các trường cao đẳng trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
117 p | 52 | 7
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng tại huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
26 p | 60 | 6
-
Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Quản lý công: Quản lý nhà nước về cây xanh đô thị trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
28 p | 70 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn