intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và quy luật phát triển của lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế

Chia sẻ: Nuyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

97
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII, tiếp tục thực hiện đường lối được đề ra từ Đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ "đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu " xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất, đời sống vật chất...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và quy luật phát triển của lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế

  1. LUẬN VĂN: quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và quy luật phát triển của lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế
  2. Lời mở đầu Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII, tiếp tục thực hiện đường lối được đề ra từ Đại hội VI của Đảng, giờ đây chúng ta bước vào thời kỳ phát triển mới - thời kỳ "đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu " xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Không phải ngẫu nhiên việc nghiên cứu qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới CNXH mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Việc thực hiện mô hình này trong thực tế không những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế nữa nó là công cụ, phương tiện để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng CNXH. Thắng lợi của CNXH ở nước ta một phần phụ thuộc vào việc vận dụng tối đa không. Một xã hội phát triển được đáng giá từ trình độ của lực lượng sản xuất và sự kết hợp hài hoà giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất tời đại ngày nay. Trình độ khoa học kỹ thuật đã phát triển mạnh mẽ song quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của lực lượng sản xuất vẫn là cơ sở chính cho sự phát triển của nó. Do vậy, vấn đề về qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất vẫn là một trong những vấn đề nan giải mà chúng ta cần phải quan tâm và giải quyết. Đề tài “quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và quy luật phát triển của lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế”
  3. phần nội dung I. quan điểm toàn diện của triết học mác-xít về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một phương thức sản xuất riêng, đó là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở một giai đoạn lịch sử nhất định. Phương thức sản xuất vật chất là sự thống nhất biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. 1. Lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trình độ Lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục thiên nhiên của con người trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, trước hết là công cụ lao động. Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Trong tư liệu lao động có công cụ lao động và những tư liệu lao động khác cần thiết cho việc chuyển giao, bảo quản sản phẩm... Ngoài công cụ lao động, trong tư liệu lao động còn có đối tượng lao động, phương tiện sản xuất như đường sá, cầu cống, xe cộ, bến cảng ... là yếu tố quan trọng của Lực lượng sản xuất. 2. Quan hệ sản xuất. Mỗi quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất, cũng như lực lượng sản xuất. Tính chất của Quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội. Tính chất của Quan hệ sản xuất được thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế- xã hội. Mỗi kiểu Quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
  4. Quan hệ sản xuất gồm những mặt cơ bản sau:  Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất  Quan hệ tổ chức quản lý  Quan hệ phân phối sản phẩm lao động Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra. Song nó được hình thành một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất mang tính chất ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú đa dạng của các hình thức thể hiện. 3. Quy luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất là hai mặt của Phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành qui luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: Qui luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Đến lượt mình Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất. a) Tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất. Tính chất của Lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao động. Nó thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng công cụ thủ công và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ sản xuất như búa, rìu, cày ... do một người sử dụng để sản xuất ra vật dùng không cần tới lao động tập thể. Lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi máy móc ra đời đòi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để làm một sản phẩm cần có sự hợp tác của nhiều người , mỗi người sử dụng một bộ phận công việc mới hoàn thành được sản phẩm ấy thì Lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá. Trình độ của Lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội. Trình độ Lực lượng sản xuất càng cao thì sự phân
  5. công lao động càng tỉ mỉ. Trình độ phát triển của phân công lao động thể hiện rõ ràng trình độ của các Lực lượng sản xuất. b) Lực lượng sản xuất quyết đinh Quan hệ sản xuất. Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của Lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, lỹ năng sanả xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Còn Quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung là phương thức còn Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức: hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó hình thức thay đổi theo, tất nhiên trong quan hệ với nội dung và hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung. c) Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất. Sự hình thành, biến đổi phát triển của Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất, nhưng Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà Lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Sở dĩ Quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với Lực lượng sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất, qui định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, qui định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ của quảng đại quần chúng lao động- Lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội: nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động. d) Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
  6. Khi trình độ Lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ có một người có thể sử dụng được nhiều công cụ khác nhau trong qúa trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu về tư nhân về tư liệu sản xuất. Quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được biểu hiện ở chỗ: - Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của Lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ. Công cụ phát triển đến mâu thuẫn gay gắt với Quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ Quan hệ xã hội cũ thay bằng Quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của Lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Khi phù hợp cũng như không phù hợp với Lực lượng sản xuất.Quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với Lực lượng sản xuất, thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại đối với Lực lượng sản xuất, qui định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của Lực lượng sản xuất. II. qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với công cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam 1) Nhìn lại những sai lầm về qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất trước đại hội VI Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất thì Lực lượng sản xuất phát triển thuận lợi, đồng thời kéo theo Quan hệ sản xuất cũng phát triển. Con người có vai trò trong việc tác động đối với Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất, nhưng con người không thể tự do sáng tạo, định hướng bất kỳ hình thức nào của Quan hệ sản xuất mà mình muốn vì rằng cái tất yếu phát triển của Quan hệ sản xuất luôn luôn qui định bởi trạng thái của Lực lượng sản xuất. Do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất trong công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã tạo ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp
  7. tác xã, mở rộng qui mô nông trường quốc doanh, các nhà máy xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của Lực lượng sản xuất đang còn thời kỳ thấp kém chúng ta đã tạo ra những qui mô lớn và ngộ nhận rằng đã có "Quan hệ sản xuất XHCN" và còn nói rằng: mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thức đẩy sự ra đời và lớn mạnh của Lực lượng sản xuất mới. Quan hệ sản xuất XHCN có khả năng "vượt trước ", " mở đường" cho sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Thực tiễn nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm. Bởi vậy nhận định trong địa hộ lần thứ 6 là có căn cứ đã làm phong phú thêm lý luận biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất" Lực lượng sản xuất không chỉ bị kìm hãm tròn trường hợp Quan hệ sản xuất lạn hậu, mà cả khi Quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất". Để chứng minh cho "quan niệm sản xuất đi trước " hoặc nói theo thời bấy giờ thì để giải quyết mâu thuẫn giữa Quan hệ sản xuất tiên tiến với Lực lượng sản xuất lạc hậu chúng ta đã ra sức xây dựng Lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa nhiều máy móc vào các cơ sở sản xuất nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, què quặt nhằm xây dựng mô hình lâu dài công - nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đến khả năng quản lý trình độ, tổ chức sử dụng của nông dân. Quan điểm về quan hệ sản xuất đi trước là không đúng và nói đến Quan hệ sản xuất XHCN là nhấn mạnh việc xây dựng chế độ công hữu vè tư liệu sản xuất và cơ chế thực hiện chế độ đó là phiến diện. Phải thấy rằng quan hệ sở hữu được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực sản xuất trao đổi phân phối và tiêu dùng của người lao động. Ngay cả việc xoá bỏ chế độ tư hữu thiết lập công hữu về tư liệu sản xuất không phải chỉ thời gian ngắn là xong. Nhưng dẫu thế nào thì cũng không phải mục tiêu trước mắt của nước ta khi mà chế độ công hữu này chưa thể phù hợp với Lực lượng sản xuất hiện có. Hơn nữa những thành phần kinh tế khác có khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển. Một trong những sai lầm cơ bản mà chúng ta vấp phải là xoá bỏ quá sớm Quan hệ sản xuất TBCN, khi nền kinh tế XHCN của chúng ta chưa có đủ sức thay thế. 2) Đường lối phát triển Quan hệ sản xuất và Lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN. Qua quá trình lãnh đạo xây dựng đất nước đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng : một trong những nguyên nhân làm cho sản xuất
  8. phát triển chậm, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là do không nắm vững Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của Lực lượng sản xuất. Từ đó Đảng đã rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng qui luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học - kỹ thuật. Đảng nhận thức rằng : sự phù hợp giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyết đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi . Sự phù hợp của Quan hệ sản xuất vơi Lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp chung mà bao giờ cũng là tồn tại dưới nhiều hình thức cụ thể , thích ứng với nhứng đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của Lực lượng sản xuất. Trong cải tạo Quan hệ sản xuất cũ và xây dựng Quan hệ sản xuất mới, Đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng thời ba mặt , xây dựng chế độ sở hữu , chế độ quản lý và chế độ phân phối , không chỉ nhấn mạnh việc xây dựng chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ kia. Trong công cuộc đổi mới đất nước phải tuân theo qui luật về sự phù hợp giữa Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất hiện có để xác định bước đi và những hình thức thích hợp. Qui luật đó luôn được coi là tư tưởng chỉ đạo công cuộc cải tạo Quan hệ sản xuất cũ, xây dựng Quan hệ sản xuất mới trên những điều kiện phát triển của Lực lượng sản xuất. Tóm lại: việc xây dựng và hoàn thiện Quan hệ sản xuất XHCN nhất thiết phải đảm bảo sự thích ứng đồng bộ giữa ba yếu tố của Quan hệ sản xuất cũng như mối liên hệ biện chứng giữa Lực lượng sản xuất và Quan hệ sản xuất. 3) Phát triển Lực lượng sản xuất và xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển đúng hướng của Lực lượng sản xuất quyết định. Do vậy trong quá trình xây dựng CNXH việc phát triển Lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới là nhiệm cụ cần thiết khách quan.  Thực trạng nguồn lực của Lực lượng sản xuất nước ta hiện nay. Chúng ta tiến hành công nghiệp hó hiện đại hóa đất nước trong điều kiện nền kinh tế còn mang nặng tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn chiếm tỉ trọng nhỏ, tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người thua xa so với các nước trong khu vực.
  9. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hôi j đến năm 2000 đã đưa ra các thông tin dự báo và nguồn lực lao động :" bước vào thập kỷ 90 nước ta có 66 triệu người với 33 triệu người trong độ tuổi lao động . Đến năm 2000 có khoảng 80 triệu người với hơn 40 triệu lao động , tình hình giáo dục cũng có những biểu hiện đáng lo ngại , học sinh bỏ học hàng năm có xu hướng tăng lên , chất lượng giáo dục không đảm bảo.  Một số giải pháp phát triển lực lượng sản xuất. Nước ta một nươc nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện tiền vốn ít, khả năng khoa học còn hạn chế và còn nhiều yếu tố khác qui định thì chưa thể đổi mới ngay Lực lượng sản xuất cũ thành Lực lượng sản xuất mới tiên tiến , do đó những yếu tố Lực lượng sản xuất truyền thống vẫn cần phải được duy trì và khai thác. Trong hoàn cảnh hiện nay Lực lượng sản xuất bổ sung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của Lực lượng sản xuất. Những tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay cho phép nước ta có thể tranh thủ vận dụng trực tiếp những thành tựu khoa học- kỹ thuật , nhập khẩu tư liệu sản xuất hiện đại , chuyển giao công nghệ qua liên kết kinh tế và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự kết hợp những tiến bộ về Lực lượng sản xuất do đó tiếp thu có chọn lọc từ bên ngoài vào với những cớ sở vật chất và Lực lượng sản xuất vốn có trong nước để đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn phát triển lịch sử tự nhiên của Lực lượng sản xuất , vươn lên kịp trình độ của thế giới. 4. Xây dựng Quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN Xây dựng Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuât luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đối với nước ta đồng chí Tổng bis thư Đỗ Mười đã khẳng định " nếu công nghiệp hiện đại hoá tạo nên Lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống Quan hệ sản xuất phù hợp". Đại hội VI của Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng . Bởi vì nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thức , bước đi, giải pháp thích hợp với trạng thái kinh tế hiện nay. Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của Lực lượng sản xuất nước ta hiện nay vừa không đồng đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng Quan hệ sản xuất
  10. một thành phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất như trước đại hội VI . Làm như vậy là đẩy Quan hệ sản xuất đi quá xã so với trình độ Lực lượng sản xuất . Mở ra nền kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng của sản xuất , xây dựng năng lực sáng tạo chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển.
  11. kết luận Qui luật Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất . Đây là qui luật phổ biến của mọi hình thái kinh tế xã hội , vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của Quan hệ sản xuất vào sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi , sự biến đổi phát triển bao giời cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của Lực lượng sản xuất. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử thay đổi các phương thức sản xuất , sự thay đổi đó bắt đầu từ sự thay đổi Lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất là nội dung là quá trình sản xuất . Quan hệ sản xuất là hình thức của quá trình sản xuất . Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất , nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh , ngược lại nó kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Quan hệ sản xuất qui định mục đích , khuynh hướng phát triển của sản xuất , qui định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội , qui định phương thức phân phối ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Vận dụng quy luật trên vào Việt nam sản xuất nhỏ không qua giai đoạn phát triển TBCN lên XHCN thưà nhận sự tồn tại và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là tất yếu lịch sử. Tiến hành phát triển quan hệ sản xuất lẫn lự c lượng sản xuất để tạo ra phương thức sản xuất mới hơn hẳn phương thức sản xuất đã bỏ qua. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, khơi dậy tiềm năng sản xuất, xây dựng năng lực sáng tạo, chủ động các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển.
  12. mục lục nội dung trang mở đầu 1 nội dung 2 i quan điểm toàn diện của triết học mác-xít về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 3 ii qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất với cuộc đổi mới kinh tế ở việt nam 6 kết luận
  13. tài liệu tham khảo  Mác - tư bản tập 1NXB sự thật hà nội 1973  Mác- Ănghen tuyển tập II NXB sự thật hà nội 1984  Tạp chí triết học số 1 - 1993  Tạp chí triết học số 3 - 1997  Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VI Đảng NXB sự thật hà nội - 1982  Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội VII của Đảng NXB chính trị quốc gia - 1995  Triết học Mác - Lênin tập II NXB giáo dục năm 1995  Thực trạng quan hệ sản xuất ở Việt Nam
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0