LUẬN VĂN: Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh
lượt xem 23
download
Trung Quốc là nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông" với Việt Nam, có nền kinh tế quy mô, tăng trưởng mạnh, đang thực thi chiến lược nhất thể hóa kinh tế khu vực mà Việt Nam được coi là "cầu nối" giữa các nước phương Nam với Trung Quốc, là "cầu nối" Đông Nam á với Đông Bắc á. Do vậy, củng cố, phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc, phát huy vai trò "cầu nối" trước hết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc, tích cực...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh
- LUẬN VĂN: Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh
- mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Trung Quốc là nước láng giềng "núi liền núi, sông liền sông" với Việt Nam, có nền kinh tế quy mô, tăng trưởng mạnh, đang thực thi chiến lược nhất thể hóa kinh tế khu vực mà Việt Nam được coi là "cầu nối" giữa các nước phương Nam với Trung Quốc, là "cầu nối" Đông Nam á với Đông Bắc á. Do vậy, củng cố, phát triển quan hệ hợp tác toàn diện với Trung Quốc, phát huy vai trò "cầu nối" trước hết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung Quốc, tích cực khai thác thị trường Trung Quốc, đặc biệt là thị trường Tây Nam Trung Quốc, sẽ là hướng chiến lược kinh tế đối ngoại quan trọng, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế nhanh, ổn định lâu dài của Việt Nam. Trong đó đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam với Vân Nam cũng như với Quảng Tây có vai trò then chốt. Từ thời Hán Tần, miền Tây Nam Trung Quốc đã có con đường giao thông quốc tế qua Côn Minh để đi đến các nước phía Nam được gọi là "Trục thân độc đạo"- con đường tơ lụa ngày xưa. Còn ngày nay, khi hai nước Việt - Trung bước vào thế kỷ XXI cùng nỗ lực cải cách mở cửa nền kinh tế, chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu thì cơ hội phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc vô cùng rộng lớn nhờ những nhân tố khách quan và chủ quan sau đây: Bước vào thế kỷ XXI mặc dù vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, khó lường, song hòa bình và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trong sự phát triển thế giới và khu vực; hơn nữa đây còn là thời kỳ mở đầu thời đại tri thức hóa kinh tế toàn cầu; toàn cầu hóa, khu vực hóa kinh tế phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Đây là xu thế phát triển khách quan đang cuốn hút mọi quốc gia vào quĩ đạo kinh tế toàn cầu, mở ra cơ hội lớn cùng những thách thức lớn đối với các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam và Trung Quốc. Là cơ hội lớn nếu quốc gia đang phát triển đó có năng lực cải cách, mở cửa, tận dụng mọi lợi thế của nước đi sau, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực hiệu quả, sẽ có nhiều khả năng tiến nhanh, đuổi kịp các nước tiên tiến. Là thách thức lớn nếu quốc gia đang phát triển đó không có năng lực cải cách, mở cửa, không tận dụng mọi lợi thế của nước đi sau trong hội
- nhập kinh tế quốc tế và khu vực, sẽ bị tụt hậu, thậm chí bị đào thải khỏi quĩ đạo phát triển của thế giới. Xu thế phát triển khách quan trên đã được chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc đón bắt kịp thời, thông minh và sáng tạo. Cả hai nước đều nỗ lực cải cách mở cửa với cách đi thích hợp, từng bước hoàn thiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (XHCN) phù hợp với thông lệ quốc tế, nên đã tạo nên sự phát triển ngoạn mục: dẫn đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm, đạt được những thành tựu tuyệt vời trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Cuối năm 2001 Trung Quốc trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu sự hội nhập kinh tế toàn cầu của Trung Quốc, tạo ra thế và lực của Trung Quốc trên tr ường quốc tế. Rất có thể cuối năm 2005 Việt Nam cũng sẽ gia nhập WTO, thể hiện tinh thần chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu, tạo c ơ sở thuận lợi hơn cho sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc. Sự kiện ảnh hưởng mạnh và trực tiếp hơn đến quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc là tháng 11/2002 Hiệp định thương mại hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc đã được ký kết, mở đường cho việc xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) mà Việt Nam - Vân Nam Trung Quốc có vị trí vai trò "cửa ngõ" của ACFTA. Lào Cai là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam Trung Quốc, có nhiều tiềm năng về kinh tế, với nhiều tuyến đường sắt, đường bộ, đường thủy và khả năng phát triển đường hàng không, có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai được nối thông với Côn Minh - Trung Quốc. Lào Cai còn có ưu thề về tiềm năng khoáng sản (35 loại khoáng sản), 150 điểm mỏ và nổi tiếng là nơi nhiều tiềm năng phát triển du lịch với những danh lam thắng cảnh như Sa Pa, Bắc Hà. Tuy nhiên, Lào Cai vẫn là một tỉnh nghèo, cơ cấu kinh tế là nông, lâm - công nghiệp, xây dựng - thương mại, du lịch. Đến nay sau gần 10 năm thực hiện Quyết định 100/1998/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm một số cơ chế, chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu (KTCK) đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ qua hệ kinh tế - thương mại của Lào Cai với Vân Nam Trung Quốc, cơ sở hạ tầng của khu KTCK đã được nâng cấp với nhiều dự án. Việc hình thành và phát triển khu KTCK Lào Cai đã đẩy mạnh
- hơn nữa giao lưu kinh tế qua cửa khẩu giữa hai nước, qua đó đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa trong nước. Chúng ta cần nhìn nhận những tác động này không chỉ trong thời gian trước mắt mà về lâu dài, khu KTCK Lào Cai sẽ có mức phát triển nhanh hơn, trở thành vùng động lực kinh tế để kéo các vùng nghèo hơn cùng đi lên, cùng phát triển. Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò quan trọng của việc phát triển khu KTCK Lào Cai trong công cuộc đổi mới, cần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn của việc phát triển kinh tế của cửa khẩu Lào Cai, qua đó chỉ rõ sự tác động của khu KTCK Lào Cai đối với đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh, đồng thời đề ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy sự phát triển khu KTCK ở Lào Cai là vấn đề cấp thiết hiện nay. Do vậy, tác giả luận văn chọn vấn đề " Tác động của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai đến đời sống kinh tế - xó hội của tỉnh " làm đề tài luận văn thạc sĩ, với hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ của mình cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của địa phương. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Sau 14 năm mở cửa chính thức (1991) và 17 năm kể từ khi nhân dân hai bên biên giới tự phát mở đường thăm nhau (1988), mỗi nước đều thấy được tác động kinh tế - xã hội to lớn của sự kiện này. Hệ quả trực tiếp mà mở cửa đem lại là sự phát triển thương mại qua biên giới hai nước với tốc độ cao, đã thu hút sự chú ý của báo giới, các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, thậm chí có lúc người ta gọi là "vùng biên nóng bỏng". Những năm gần đây, có nhiều tác giả nghiên cứu và viết bài xung quanh vấn đ ề này, tiêu biểu như: "Tác động kinh tế - xã hội của mở cửa biên giới" của TS. Trịnh Tất Đạt, TS Vũ Tuấn Anh, TS Hoàng Công Hoàn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; "Phát triển thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh, Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng" của TS. Nguyễn Văn Lịch, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005; "Các khu kinh tế cửa khẩu biên giới Việt - Trung và tác động của nó tới sự phát triển kinh tế hàng hóa ở Việt Nam" của TS. Phạm Văn Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001; "Quá trình mở cửa đối ngoại của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa" của Nguyễn Thế Tăng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; "Chính sách ngoại giao hòa bình độc lập tự chủ coi trọng phát triển mối quan
- hệ láng giềng hữu nghị với các n ước Đông Nam á" của GS. Cổ Tiểu Tùng, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 2(48), 2003; "Buôn bán qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc và một số nhận xét về những điều kiện để phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai nước" của ThS. Lê Tuấn Thanh, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 (56), 2004… Song chưa có một đề tài nghiên cứu nào trình bày một cách có hệ thống về sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai dưới dạng một luận văn thạc sĩ khoa học để đánh giá thực trạng, đề ra những giải pháp phát triển khu KTCK ở Lào Cai. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu - Mục đích của đề tài Phân tích thực trạng sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK ở Lào Cai, từ đó đề xuất và kiến nghị những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển KTCK ở tỉnh Lào Cai. - Nhiệm vụ của đề tài + Hệ thống lại những vấn đề lý luận cơ bản về KTCK: khái niệm và các mô hình khu KTCK, sự cần thiết, vai trò của khu KTCK, các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển khu KTCK… + Phân tích, đánh giá thực trạng sự phát triển, tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. + Phân tích rõ triển vọng, phương hướng và giải pháp nhằm phát triển khu KTCK ở Lào Cai. - Phạm vi nghiên cứu Thực trạng phát triển khu KTCK Lào Cai từ 2001 - 2005; tác động của khu KTCK Lào Cai đến kinh tế - xã hội của tỉnh. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quan hệ kinh tế đối ngoại, những chủ trương, chính sách, pháp luật về khu KTCK. Luận văn còn kế thừa có
- chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học, các bài viết đã được công bố có liên quan đến đề tài. - Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; phương pháp logic kết hợp với lịch sử để phân tích, đánh giá sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như thống kê, khảo sát, tổng hợp, so sánh. 5. Những đóng góp mới về khoa học của đề tài - Trình bày có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về khu KTCK. - Đưa ra những đặc thù của khu KTCK Lào Cai. - Đánh giá đúng thực trạng sự phát triển khu KTCK Lào Cai, sự tác động kinh tế - xã hội của khu KTCK Lào Cai. - Luận văn góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành của tỉnh tham khảo trong việc hoạch định các chính sách phát triển khu KTCK của tỉnh. Đồng thời, luận văn còn là tư liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Mác - Lênin. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
- Chương 1 Cơ sở khoa học hình thành và phát triển khu kinh tế cửa khẩu Lào Cai 1.1. Những nhận thức chung về khu kinh tế cửa khẩu 1.1.1. Khái niệm khu kinh tế cửa khẩu và các phạm trù liên quan Thuật ngữ khu kinh tế cửa khẩu mới được dùng ở Việt Nam trong một số năm gần đây, khi quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Trung Quốc đã có bước phát triển mới đòi hỏi phải có mô hình kinh tế phù hợp nhằm khai thác các tiềm năng, thế mạnh kinh tế của hai nước thông qua cửa khẩu biên giới. Trong lịch sử, việc trao đổi hoạt động kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các quốc gia có chung đường biên giới đã diễn ra từ rất lâu, song chủ yếu là các dạng thông thường như: xuất nhập khẩu (XNK) chính ngạch, tiểu ngạch, trao đổi, mua bán thông qua các chợ biên giới. Nhưng, mô hình kinh tế trong đó chúng ta chủ động áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù nhằm nâng cao hiệu quả trao đổi kinh tế - thương mại giữa hai quốc gia thông qua cửa khẩu biên giới còn rất hạn chế. Nước ta là một quốc gia có đường biên giới trên bộ tiếp giáp với ba nước: Trung Quốc, Lào, Campuchia. Trong ba nước này thì Trung Quốc là đất nước rộng lớn, có nét tương đồng với nước ta về quá trình phát triển kinh tế- xã hội. Trung Quốc lại là một thị trường với hơn 1,3 tỉ dân, tốc độ phát triển cao từ nhiều năm nay. Lào và Campuchia tuy là các quốc gia nhỏ có nhiều khó khăn về kinh tế nhưng cũng có vị trí hết sức quan trọng, nằm trong tiểu vùng Mê Kông (gồm Việt Nam, Lào, Campuchia và Thai Lan - cửa ngõ thông ra các nước trong khối ASEAN). Hiện nay, giữa các quốc gia tiểu vùng sông Mê Kông đang có nhiều dự án xây dựng cầu, đường thúc đẩy phát triển kinh tế theo tuyến hành lang Đông - Tây trên cơ sở dòng chảy tự nhiên của sông Mê Kông. Tất cả các điều kiện thuận lợi trên chỉ có thể phát huy tốt khi có mô hình kinh tế thích hợp, đặc biệt phải kể đến khu KTCK. Khái niệm khu KTCK được hình thành trên cơ sở hàng loạt các khái niệm có liên quan. Trước hết là khái niệm: "Giao lưu kinh tế qua biên giới". Theo nghĩa hẹp, khái niệm
- này bao gồm các hoạt động trao đổi thương mại, trao dổi hàng hóa giữa các cư dân, các doanh nghiệp nhỏ đóng tại địa bàn biên giới xác định, thường là những nơi có các cửa khẩu biên giới. Trên thực tế, những hình thức này có thể được thực hiện ở các dạng chợ biên giới, thậm chí ở các đường mòn biên giới với một khối lượng hàng hóa và giá trị theo quy định của Nhà nước hoặc chính quyền địa phương. Với nhiều mức độ khác nhau, giao lưu kinh tế biên giới theo nghĩa hẹp là hình thức diễn ra phổ biến ở tất cả các quốc gia có đường biên giới chung trong điều kiện hòa bình. Tuy nhiên, có một điều dễ thấy là quy mô, mức độ hoạt động kinh tế - thương mại diễn ra khác nhau giữa các vùng, miền, khu vực biên giới cả nước vì nó phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau: trình độ phát triển kinh tế; điều kiện tự nhiên; vị trí địa lý; chính sách biên mậu; các tiềm năng, thế mạnh tại chỗ; sự ổn định về an ninh chính trị... Vì vậy, xuất hiện một nội dung rộng hơn, bao quát hơn trước tức giao lưu kinh tế qua biên giới là tất cả các hoạt động kinh tế - thương mại, đầu tư khoa học và công nghệ qua các cửa khẩu biên giới, giữa các quốc gia có đường biên giới chung. Nội dung của giao lưu kinh tế qua biên giới theo nghĩa rộng không chỉ đơn thuần là buôn bán, trao đổi hàng hóa thông thường, mà còn bao hàm cả các hoạt động về hợp tác khoa học - công nghệ, đầu tư lẫn nhau, hoạt động XNK, liên doanh phát triển kết cấu hạ tầng, du lịch qua biên giới... Chúng ta thấy rõ rằng, giao l ưu kinh tế qua biên giới được phát triển từ hình thức trao đổi hàng hóa đơn giản trở thành các hoạt động sản xuất kinh doanh đa dạng. Kinh nghiệm của các nước Trung Quốc, Thái Lan cho thấy, đây chính là một hướng phát triển quan trọng để thành lập các khu mậu dịch tự do biên giới, khu hợp tác kinh tế tiểu vùng, khu KTCK. Đây là những điều kiện chuẩn bị cho sự hội nhập, mở cửa với kinh tế khu vực và thế giới. Trong lịch sử, các hình thức kinh tế song phương hoặc đa phương giữa các quốc gia có đường biên giới chung, hoặc giữa các quốc gia trong khu vực đã có nhiều hình thức liên kết thông thường, với những cấp độ khác nhau như: Khu vực thương mại tự do; liên minh thuế quan; thị trường chung; liên minh kinh tế; liên minh tiền tệ. Bên cạnh đó, ở những vùng, địa phương có những điều kiện khác nhau đã xuất hiện nhiều hình thức, mô hình kinh tế cụ thể, bao gồm: + Các vùng tăng trưởng kinh tế, là hình thức hợp tác kinh tế giữa các vùng nằm kề nhau về địa lý của các nước láng giềng. thậm chí ở một số địa phương trong cùng một quốc gia, cho phép khai thác những thế mạnh và hỗ trợ lẫn nhau nhằm đạt mục tiêu tăng
- trưởng nhanh hơn về thời gian, thấp hơn về chi phí. Hơn nữa, chúng còn cho phép tận dụng những ưu điểm, bổ sung lẫn nhau trong mỗi thành viên để đạt hiệu quả kinh tế với quy mô lớn. + Các thỏa thuận về thương mại miễn thuế giữa các quốc gia, thực hiện các quy định miễn trừ thuế quan cho một số loại hàng hóa được trao đổi giữa các nước thành viên, là cơ sở để phát triển tới hình thức liên kết kinh tế cao hơn, đó là liên minh thuế quan. Hình thức này đã được phát triển ở một số nước như Trung Quốc, ấn Độ, Nê Pan... + Các đặc khu kinh tế như khu công nghiệp, khu chế xuất... được áp dụng ở một số nước: Trung Quốc, các nước ASEAN trong vài thập kỷ gần đây. Tính đa dạng trong các loại hình và yếu tố quyết định cho sự lựa chọn một mô hình cụ thể phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, những điều kiện cần và đủ để quyết định những loại hình phù hợp, có hiệu quả. Thông qua các hình thức, các cấp độ phát triển khác nhau của liên kết kinh tế, căn cứ theo đặc điểm của một loại hình KTCK cho phép áp dụng những chính sách riêng trong một phạm vi không gian, thời gian xác định mà ở đó đã có giao lưu kinh tế biên giới phát triển sẽ hình thành khu KTCK. Qua những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: Khu kinh tế cửa khẩu là một không gian kinh tế xác định gắn với cửa khẩu, có dân cư hoặc không có dân cư sinh sống và được thực hiện những cơ chế, chính sách phát triển riêng phù hợp với đặc điểm ở đó nhằm đưa lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Khái niệm về khu KTCK cho thấy có những điểm giống và khác so với các mô hình kinh tế: Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao... Để rõ hơn về khu KTCK, chúng ta xem xét nó trong sự so sánh với các mô hình kinh tế khác: - Khu công nghiệp, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên của Chính phủ hay địa phương, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu chế xuất, là khu tập trung các doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu với hoạt động xuất khẩu, có ranh giới
- xác định, không có dân cư sinh sống, được hưởng một số chế độ ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, do Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. - Khu công nghệ cao, là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp kỹ thuật cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao, gồm nghiên cứu, triển khai khoa học - công nghệ, đào tạo các dịch vụ có liên quan, có ranh giới địa lý xác định, được hưởng chế độ ưu tiên nhất định, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Như vậy, khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao là ba loại hình của đặc khu kinh tế, chúng có những đặc điểm khác nhau xuất phát từ mục đích, đối tượng tham gia, mối liên kết của chúng đối với nền kinh tế. Khu công nghiệp thường được thành lập ở những vùng đình trệ về kinh tế, nơi có nhiều người thất nghiệp, nhưng lại có sẵn ưu thế phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi. Được nhận sự ưu tiên nhất định từ phía chính quyền địa phương và Chính phủ, có vai trò thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương. Khu công nghiệp bao gồm những doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp nước ngoài. So với khu công nghiệp, khu chế xuất cũng được xác định là khu công nghiệp nhưng tập trung những doanh nghiệp chuyên sản xuất, chế biến các hàng xuất khẩu, được sự ưu tiên đặc biệt của Chính phủ, có vai trò then chốt trong việc chuyển từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở. Còn khu công nghệ cao, điểm khác biệt chính là ở mục đích phát triển công nghệ kỹ thuật cao, thu hút công nghệ nước ngoài, tiếp thu và chuyển giao công nghệ cao, nâng cao năng lực công nghệ trong nước [34, tr. 15]. Những đặc điểm cơ bản của các loại hình kinh tế trên cho thấy, khu KTCK có điểm giống và khác cơ bản như sau: Những điểm giống nhau: Về tư cách pháp nhân, các mô hình kinh tế này đều được thành lập do quyết định của Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ; được hưởng một số chế độ ưu đãi của Chính phủ và chính quyền địa phương; có một không gian kinh tế xác định. Các hình thức kinh tế này đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, thông qua việc phát huy đặc điểm hoạt động của từng loại hình này đối với vùng hay kinh tế cả nước.
- Những điểm khác nhau: Điểm khác nhau dễ thấy giữa khu KTCK với các hình thức kinh tế nói trên là ở vị trí và điều kiện hình thành. Để thành lập được khu KTCK, điều kiện tiên quyết là phải gắn với vị trí cửa khẩu, là khu vực có hoặc không có dân cư sinh sống, có các doanh nghiệp trong nước, nước ngoài. Mục đích thành lập khu KTCK nhằm ưu tiên phát triển thương mại, XNK, dịch vụ, du lịch và công nghiệp. Trong đó, quan trọng nhất là hoạt động thương mại, dịch vụ gồm có: Hoạt động XNK, tạm nhập, tái xuất, vận chuyển hàng hóa quá cảnh, kho ngoại quan, cửa hàng miễn thuế, hội chợ triển lãm, cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các cơ sở sản xuất, gia công hàng xuất khẩu và các chi nhánh đại diện các công ty trong nước, nước ngoài, chợ cửa khẩu. Khác với khu chế xuất và khu công nghiệp, nguồn hàng hóa để trao đổi ở khu KTCK có thể là tại chỗ, có thể là từ nơi khác đưa đến. Các chính sách ưu tiên cũng khác nhau phù hợp với đặc thù của từng loại hình và địa phương nơi chúng được thành lập. Một vấn đề cần lưu ý là do đặc điểm riêng có, khu KTCK đặt lên hàng đầu là các hoạt động về thương mại, dịch vụ, gắn với cửa khẩu chịu tác động mạnh mẽ của khu vực kinh tế, chính sách biên mậu của các nước láng giềng có đường biên giới chung. Do vậy, nguồn hàng hóa tại chỗ và từ nơi khác (các vùng kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất) là rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả hoạt động của nó. Mặt khác, hoạt động của khu KTCK còn liên quan nhiều đến thông lệ quốc tế, vấn đề chủ quyền, an ninh biên giới, các chính sách chung của hai nước thông qua cặp cửa khẩu và hệ thống các đường giao thông. Từ đó, một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã đưa ra những mô hình cụ thể về khu KTCK, trên cơ sở đó tùy điều kiện từng vùng (địa phương) có thể áp dụng cho phù hợp. * Mô hình không gian: Là mô hình đòi hỏi được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản như tôn trọng chủ quyền, lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, thềm lục địa, các hiệp định và hiệp ước quốc tế; đảm bảo sự phối hợp tốt tất cả các yếu tố để các quốc gia có đường biên giới chung đều có lợi, đảm bảo về môi trường, sự phối hợp các nguồn lực khi triển khai; tìm kiếm các yếu tố tương đồng, các vị trí tạo ra khả năng phát triển đối xứng, Mặt khác, có mối liên hệ tốt trong nội địa dể bù đắp sự thiếu hụt về nguồn lực và trao đổi hàng hóa, cũng như tránh các vị trí bất lợi xảy ra tranh chấp, lấn chiếm, nơi chứa chấp các hoạt động tội phạm. Trong mô hình không gian có một số loại hình cụ thể sau:
- - Mô hình đường thẳng: Đây là mô hình có ưu điểm là một mặt giảm sự tập trung cao về biên giới, một mặt có thể sử dụng kênh hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu trên cơ sở đường giao thông. Vì thế nó phải có các tuyến đường sắt, đường bộ hoặc đường sông, kèm theo đó là các khu công nghiệp, đô thị, cảng biển ở mỗi bên với một cự ly hợp lý. Thông thường, mô hình này được lựa chọn ở những nơi có lối mòn dân cư hai bên qua lại, do nhu cầu trao đổi tăng, giao thông phát triển trở thành cửa khẩu. Đây là mô hình cơ sở cho các mô hình khác (hình 1.1.a). - Mô hình có quạt giao nhau ở cán: Là mô hình dựa trên cơ sở hai bên đã có hàng loạt các đô thị, khu công nghiệp, các vùng sản xuất nông nghiệp có khoảng cách thích hợp với đường biên giới, khoảng cách này được hình thành tự nhiên hoặc do quy ước giữa hai bên, việc trao đổi hàng hóa tập trung về khu kinh tế theo đường giao thông gần nhất. Mô hình này có tính tập trung cao về thương mại, còn gọi là khu thương mại tự do (hình 1.1.b). - Mô hình quạt giao nhau ở cánh: Là mô hình được xây dựng dựa trên việc các khu đô thị, khu công nghiệp tập trung, hàng hóa ở hai bên trao đổi phân tán ở nhiều cặp chợ biên giới, thích hợp cho những nơi có địa hình bằng phẳng, đông dân cư (hình 1.1.c). - Mô hình lan tỏa: Mô hình lan tỏa được sử dụng thích hợp dựa trên cơ sở tập quán sinh hoạt của dân cư, phù hợp với các cặp chợ, thị trấn ven đường biên giới. Sử dụng mô hình này sẽ tận dụng được các yếu tố tự nhiên, các công trình kết cấu hạ tầng sẵn có hoặc do hai bên cùng hợp tác xây dựng (hình 1.1.d).
- Hình 1.1.a: Mô hình Hình 1.1.c: Mô hình quạt đường thẳng giao ở cánh Hình 1.1.b: Mô hình quạt Hình 1.1.d: Mô hình giao nhau ở cán lan tỏa Chú thích: Khu kinh tế cửa khẩu: Đường biên giới: Đường giao thông đô thị Khu công nghiệp: Hình 1.1: Một số mô hình khu kinh tế cửa khẩu * Mô hình một khu kinh tế cửa khẩu: Mô hình này phải đảm bảo một số nguyên tắc cơ bản như thuận lợi cho việc kiểm soát các phương tiện, người, hàng hóa qua lại, được thiết kế chi tiết cho hai khu đô thị giáp nhau, đồng thời được phối hợp, hỗ trợ các công trình công cộng gồm điện, nước, chiếu sáng, cây xanh, môi trường đảm bảo dịch vụ tốt cho người lưu trú, hàng hóa, phương tiện quá cảnh. Có hai mô hình cụ thể: - Mô hình đối xứng, được xây dựng trên sự thỏa thuận của địa phương hai nước có đường biên giới chung và cặp cửa khẩu đối diện nhau. Mỗi bên xây dựng khu KTCK độc lập, cạnh tranh cùng phát triển. Do đó chúng có những điểm bố trí tương đồng nhau về kết
- cấu, bao gồm: Khu dân cư; khu thương mại và dịch vụ; khu vui chơi giải trí; khu sản xuất và khu hành chính. Khu thương mại Khu sản xuất Các cửa kiểm soát Khu hành chính và dịch vụ Dải phân cách Khu thương mại Khu sản xuất Các cửa kiểm soát Khu hành chính và dịch vụ Sơ đồ 1.1: Mô hình khu KTCK đối xứng - Mô hình đặc biệt, là mô hình liên kết giữa hai quốc gia, tạo ra vùng lãnh thổ đặc biệt. Sự liên kết này dựa trên hiệp ước, theo đó chỉ ra vùng lãnh thổ hợp lý, có hàng rào, không có dân cư sinh sống. Mô hình này có nhiều điểm tích cực khi hai bên cùng phối hợp tốt, có khả năng thu hút đầu tư quốc tế, tuy nhiên cơ chế quy định trách nhiệm và lợi ích mỗi bên cần rõ ràng để tránh mâu thuẫn. Khu sản xuất (công ty liên doanh đầu tư Các cửa kiểm Khu thương mại Khu hành chính phát triển và kinh soát và dịch vụ doanh hạ tầng thuê đất) Đường phân cách Khu sản xuất (công ty liên Các cửa kiểm Khu thương mại Khu hành chính doanh đầu tư soát và dịch vụ phát triển và kinh doanh hạ tầng
- thuê đất) Sơ đồ 1.2: Sơ đồ khu KTCK đặc biệt * Mô hình thể chế: Đây là phương thức để Nhà nước soạn thảo chính sách phù hợp với thực tế hoạt động của khu KTCK ở các quốc gia có đường biên giới chung. Việc xây dựng thể chế, chính sách phải đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế, các hiệp định, thỏa thuận song phương hoặc đa phương, truyền thống và tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia. Đảm bảo giữ gìn hòa bình, cùng có lợi, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Chủ động cùng trao đổi với nhau những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp, cư dân mỗi nước tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Những thông tin về tình hình xây dựng cơ chế, chính sách phát triển khu KTCK mỗi nước cần được trao đổi thường xuyên, cùng phối hợp điều chỉnh, thực hiện cho phù hợp. Các nhóm thông tin cần thường xuyên trao đổi bao gồm: - Khảo sát thực tế nguồn lực trong khu vực hai bên cùng quy ước: Điều kiện tự nhiên; kinh tế, xã hội, văn hóa; dân tộc, tập quán, các thế mạnh và những hạn chế được bổ sung. - Những vấn đề về cơ chế, chính sách chung như đường lối, chủ trương, chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương, những văn bản pháp lý gắn với việc xây dựng, phát triển khu KTCK, cũng như những hiệp định, thỏa ước có liên quan. - Các thông tin về chính sách thực hiện cụ thể trong hoạt động XNK, các biểu thuế và thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập cảnh đối với người, phương tiện; những văn bản quy định về đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu vực KTCK, cũng như tất cả các biện pháp bảo vệ an ninh, môi trường cho sự phát triển khu KTCK. - Những văn kiện dự kiến đưa ra trao đổi, thỏa thuận và phân cấp hợp tác giữa hai bên, các dự án phối hợp tiến hành cùng với những đối tác trực tiếp tham gia. Do đặc điểm của khu KTCK, Nhà nước khoanh vùng một số khu dân dư, cho phép thí điểm cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện để có một khu vực phát triển hơn, được Trung ương phân cấp quản lý, trực tiếp chịu tác động của cơ chế, chính sách kinh tế biên mậu quốc gia có đường biên giới chung. Do vậy, ở đây có sự giao thoa về cơ chế, chính
- sách giữa Trung ương, địa phương và nước bạn. cũng vì lẽ đó, các cơ chế, chính sách cần được xác định rõ ràng, công khai, tránh mâu thuẫn và triệt tiêu lợi ích của nhau. Trong điều kiện kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, đầu tư của Nhà nước còn ít mà yêu cầu về sự phát triển kinh tế ở đây đòi hỏi phải được đẩy mạnh hơn, vì vậy, trong một số năm đầu, những nguồn thu từ lệ phí, thuế và các nguồn thu khác cần được dành lại một phần thích đáng để đầu tư phát triển tại chỗ. Sau này khi điều kiện, khả năng cho phép sẽ tăng dần sự đóng góp của khu KTCK cho ngân sách nhà nước [34, tr. 18-26]. Sự giao thoa thể chế, chính sách tại khu KTCK được biểu diễn dưới dạng mô hình như sau: Trong đó: 1 - Chính sách quốc gia. 2 - Quy định của địa phương. 3 - Chính sách của nước láng giềng có đường biên giới chung. 4 - Thể chế kinh tế cửa Sơ đồ 1.3: Mô hình thể chế 1.1.2. Vai trò của khu kinh tế cửa khẩu đến sự phát triển kinh tế - xã hội 1.1.2.1. Cơ sở lý luận về sự tác động của khu KTCK đến sự phát triển kinh tế - xã hội Xét về mặt lý thuyết, các khu KTCK được hình thành nhằm mục đích phát huy lợi thế về quan hệ kinh tế - thương mại cửa khẩu biên giới, thu hút các kênh hàng hóa, đầu tư, dịch vụ và du lịch từ các nơi trong cả nước, từ nước ngoài vào nội địa thông qua các cơ chế, chính sách ưu đãi tại khu KTCK. Chính sự thu hút này đã làm cho các ngành, các địa phương trong cả nước, tùy theo quy mô, sự hấp dẫn của cơ chế, chính sách ưu đãi mà thực hiện sự chuyển dịch sản xuất, lưu thông hàng hóa cho phù hợp. Trong điều kiện của Việt Nam, nông nghiệp hàng hóa đang cần mở rộng thị trường đầu ra, cần sự đầu tư và trình độ khoa học - công nghệ tiên tiến. Những nhu cầu này sẽ được đáp ứng tốt nếu chúng ta biết sử dụng, khai thác có hiệu quả mô hình KTCK. Đối với các ngành thuộc lĩnh vực công
- nghiệp, dịch vụ và du lịch cũng có yêu cầu như vậy, thậm chí còn cao hơn, vì thế phải mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để nhanh chóng hội nhập với các nước trong khu vực, trên thế giới. Điều này càng có ý nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa chậm phát triển, thị trường nhỏ hẹp, sức mua thấp, khả năng cạnh tranh còn yếu như nước ta. Khu KTCK là nơi tiếp giáp, cửa ngõ của mỗi quốc gia với bên ngoài. Trong điều kiện hòa bình, hữu nghị đây thường là nơi qua lại thăm thân nhân và diễn ra trao đổi, buôn bán giữa dân cư biên giới hai nước, bên cạnh đó khi môi trường kinh tế phát triển thuận lợi, khu KTCK cũng là nơi thể hiện sự giao thoa về các chính sách kinh tế đối ngoại của các quốc gia có đường biên giới chung. Cho nên, những nhu cầu về kinh tế cả cho sản xuất, tiêu dùng ở phạm vi hẹp, trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tại chỗ của địa phương, vùng lân cận. ở phạm vi rộng, nó sẽ trực tiếp đáp ứng nhu cầu của địa phương các vùng trong cả nước thông qua sự luân chuyển các kênh hàng hóa từ khu KTCK đến các nơi và ngược lại theo sự vận động của quan hệ cung cầu, sự mách bảo của giá cả trên thị trường đối với các chủng loại hàng hóa trao đổi ở đây. Do đó, nếu phạm vi ảnh hưởng lớn khu KTCK càng phát triển sẽ trực tiếp tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy phân công lao động, làm cho thị trường được thông suốt trong cả nước, khai thác tối đa những tiềm năng, thế mạnh của từng vùng thông qua lợi thế về vị trí, cơ chế, chính sách ưu đãi nhờ đó thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển. Trong những giai đoạn đầu, đối với một số tỉnh miền núi biên giới phía Bắc - nơi có khu KTCK, còn góp phần đẩy nhanh xu hướng đô thị hóa, hình thành những thị trấn, thị tứ, các khu thương mại dịch vụ... Các ưu thế đảm bảo cho khả năng tác động của khu KTCK đối với kinh tế - xã hội của một địa phương nói riêng, đất nước nói chung trước hết là ở chức năng riêng có của nó. Khu KTCK bao giờ cũng được hình thành gắn với cửa khẩu. Tuy nhiên, không phải cửa khẩu nào cũng có thể thành lập được khu KTCK, mà đó phải là những cửa khẩu thuận tiện về đường giao thông, nằm ở nơi kinh tế phát triển, có kết cấu hạ tầng tốt hơn các nơi khác. Ngoài ra, đây cũng là khu vực mà phía bạn cũng có những điều kiện thuận lợi, môi trường thích hợp để phát triển giao lưu kinh tế, xã hội, văn hóa. Bởi vậy, các cơ chế, chính sách ưu tiên ở khu KTCK phải hướng vào thúc đẩy trao đổi thương mại, dịch vụ, du lịch. Nhiều nơi còn có những ưu đãi để phát triển thêm cả công nghiệp và nông nghiệp. Thực tế cho thấy đây là mô hình kinh tế mới được hình thành ở Việt Nam, cho nên để nâng cao khả
- năng tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải phát triển bản thân mô hình này, làm cho nó phát huy đầy đủ chức năng, hiệu quả của các cơ chế, chính sách ưu đãi. Mà yêu cầu phải là định hình rõ mô hình kinh tế mới với các chức năng nhiệm vụ cụ thể. Đầu tiên là xác định các cơ chế chính sách thí điểm, tiếp đó là khẳng định trên thực tế hiệu quả và tính đúng đắn của nó để thực hiện lâu dài, trên cơ sở đó thúc đẩy mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội với khu KTCK. Khu KTCK phát triển sẽ trực tiếp tạo ra nhu cầu, khơi thông và đưa ra các tín hiệu để thông tin giúp cho các kênh hàng hóa, dịch vụ, du lịch trong cả nước phát triển, nhờ đó kinh tế - xã hội của vùng (địa phương) cũng ngày càng phát triển. Ngược lại, kinh tế - xã hội càng tiến bộ sẽ có điều kiện tạo ra nhiều loại hàng hóa phong phú, giá thành rẻ, khả năng cạnh tranh cao đáp ứng nhu cầu giao lưu kinh tế - thương mại cửa khẩu, từ đó quy mô, vị trí và tỷ trọng thương mại KTCK cũng tăng lên là nền tảng thúc đẩy khu KTCK phát triển. Mối quan hệ này gắn bó chặt chẽ hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển nếu trong quá trình thực hiện biết xác định đúng mục tiêu, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế và đảm bảo sự hỗ trợ kịp thời về mặt pháp lý của Nhà nước các cấp từ Trung ương đến địa phương 1.1.2.2. Vai trò của sự phát triển khu kinh tế cửa khẩu * Thúc đẩy mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa Khu KTCK phát triển tạo điều kiện để tỉnh Lào Cai và các địa phương khác trong nước mở rộng thị trường XNK, giảm chi phí trung gian do đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ trao đổi. Khu KTCK Lào Cai thúc đẩy quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hóa, tạo ra sự phát triển ở các vùng để hình thành nên một khu vực thị trường rộng lớn có khả năng thu hút và thâm nhập với các khu vực thị trường khác. Sự phát triển của thị trường do khu KTCK tạo ra còn có tác động thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, tạo thêm những ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn người lao động không chỉ ở khu vực cửa khẩu mà ở nhiều vùng lân cận. Trao đổi thương mại thông qua khu KTCK đã góp phần tạo ra sự biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của khu, vùng và cả nước, đặc biệt là các tỉnh thuộc hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng từ tình trạng sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa.
- * Thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội vùng cửa khẩu - Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn: Khu KTCK nói chung, Lào Cai nói riêng góp phần hiện đại hóa nông thôn và thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Thông qua hoạt động của khu KTCK, các sản phẩm nông nghiệp có được thị trường tiêu thụ, hạ giá thành, nâng cao chất lượng. Mặt khác, chúng ta sẽ có điều kiện nhập từ nước khác nhiều thiết bị, vật tư, giống cây trồng, vật nuôi cần thiết, học hỏi được nhiều kinh nghiệm của họ để phát triển nông nghiệp. Sự phát triển khu KTCK nói chung, Lào Cai nói riêng còn tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đô thị hóa nông thôn, tạo thêm nhiều ngành công nghiệp, dịch vụ thu hút lao động nông nghiệp, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của tỉnh, của vùng và cả n ước. - Thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp: Khu KTCK sẽ tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp địa phương cũng như khả năng hợp tác để phát triển các ngành công nghiệp mới như bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, các ngành chế tạo, công nghiệp chế biến. - Quá trình phát triển khu KTCK sẽ tạo điều kiện cải thiện đáng kể hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông, thông tin liên lạc... sẽ từng bước được hiện đại hóa. Điều kiện kết cấu hạ tầng được cải thiện sẽ góp phần làm cho thương mại phát triển, tăng sức đầu tư, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. - Mở rộng hoạt động du lịch: Phát triển khu KTCK sẽ tạo điều kiện để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch. Khách du lịch nước ngoài sẽ có điều kiện tiếp cận với các trung tâm du lịch của nhau, thông qua đó đến các khu du lịch khác trong tỉnh và cả nước. - Góp phần tăng trưởng kinh tế: Trao đổi kinh tế thương mại ở khu KTCK góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, vùng theo hướng phát triển công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, khơi dậy tiềm năng thế mạnh của tỉnh, vùng, từ đó giảm bớt những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, giúp địa phương và vùng phụ cận cải thiện cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự ra đời trong tương lai một số trung tâm thương mại quan trọng. Hoạt động của khu KTCK còn tạo điều kiện để địa
- phương thu hút đầu tư phát triển các ngành kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, phát triển các ngành dịch vụ. Kết quả những thay đổi nói trên bắt nguồn từ việc khai thác có hiệu quả khu KTCK. - Góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống vật chất, tinh thần, tạo thêm công ăn, việc làm cho nhân dân địa phương. Việc hình thành và phát triển khu KTCK thúc đẩy trao đổi thương mại, phát triển ngành nghề sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế do đó kích thích tăng trưởng kinh tế và thu nhập dân cư. Buôn bán tại khu KTCK cũng làm giảm bớt tỉ lệ đói nghèo, đời sống nhân dân được nâng cao từng bước. Sự phát triển khu KTCK còn tạo điều kiện hình thành các khu dân cư tập trung dọc biên giới, phát triển kết cấu hạ tầng, các tuyến đường giao thông, hệ thống bưu chính viễn thông, hệ thống chợ, mạng lưới cung cấp điện... góp phần cải thiện đời sống văn hóa tinh thần của dân cư, đẩy mạnh giao lưu kinh tế văn hóa, đẩy lùi các tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng khu vực biên giới, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. - Thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo và các lĩnh vực khác: Phát triển khu KTCK sẽ là cơ sở để thúc đẩy quan hệ hợp tác về khoa học, đào tạo. Cùng với việc thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế hai bên sẽ có điều kiện trao đổi nghiên cứu khoa học, phối hợp đào tạo. Trong quá trình phát triển khu KTCK Lào Cai một vài năm gần đây, việc hợp tác khoa học giữa Vân Nam và Việt Nam đã được đẩy mạnh một bước trong các lĩnh vực kỹ thuật nông nghiệp, kỹ thuật chế biến sản phẩm, công nghiệp khai thác tài nguyên và hương liệu thiên nhiên. Hợp tác kinh tế tại khu KTCK Lào Cai cũng tạo điều kiện để hai nước Việt Nam - Trung Quốc tăng cường hợp tác văn hóa như tôn tạo, bảo tồn các khu di tích, thắng cảnh, phát triển kết cấu hạ tầng du lịch như đường sá, khách sạn, dịch vụ y tế, khu vui chơi giải trí. Ngoài ra, hai nước còn hợp tác trong việc bảo vệ môi tr ường, xã hội: sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng, nước; ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường qua biên giới; hợp tác chống ma túy, buôn lậu, gian lận thương mại; bảo vệ sức khỏe cộng đồng, ngăn ngừa các dịch bệnh lây lan qua biên giới. Tuy nhiên, đi kèm với những vai trò tích cực do khu KTCK đem lại là nhiều vấn đề xã hội nhức nhối như buôn lậu, ma túy, mại dâm, khoảng cách giàu nghèo... ngày càng gia tăng
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn: Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tới phát triển kinh tế - xó hội ở tỉnh Bình Dương
107 p | 250 | 61
-
LUẬN VĂN: Tác động của tâm lý xã hội đối với việc thực hiện chính sách dân số ở nước ta hiện nay " (qua thực tế tỉnh Hải Dương)
77 p | 230 | 59
-
LUẬN VĂN: Tác động của việc gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam
91 p | 228 | 54
-
Luận văn: Tác động của chương trình 135 đối với đời sống người dân xã Vĩnh Thuận - huyện Vĩnh Thạnh - tỉnh Bình Định (giai đoạn 2006-2010)
95 p | 236 | 39
-
Luận văn: Tác động của các yếu tố đặc điểm cá nhân của người học đến việc đánh giá các hoạt động giảng dạy của giảng viên
91 p | 115 | 31
-
luận văn: Tác động của M&A xuyên quốc gia&Bài học cho VIỆT NAM
64 p | 134 | 29
-
Tiểu luận: Những tác động của chiến tranh Triều Tiên đến quan hệ quốc tế trong thời kỳ chiến tranh Lạnh
13 p | 270 | 24
-
LUẬN VĂN: Tác động của việc Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại thế giới đối với xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
105 p | 151 | 20
-
Luận văn : Tác động của dịch cúm gia cầm đến tình hình chăn nuôi ở An Giang part 2
10 p | 111 | 14
-
Luận văn : Tác động của dịch cúm gia cầm đến tình hình chăn nuôi ở An Giang part 4
10 p | 90 | 11
-
Luận văn : Tác động của dịch cúm gia cầm đến tình hình chăn nuôi ở An Giang part 3
10 p | 123 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Tác động của lãnh đạo nữ đối với hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thương mại Việt Nam
134 p | 12 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Tác động của chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đế thu hút đầu tư của địa phương tại Việt Nam
151 p | 29 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính Ngân hàng: Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
93 p | 16 | 6
-
LUẬN VĂN: Tác động của công nghệ mới tới hoạt động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp công nghiệp
23 p | 99 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Tác động của công tác thi đua - Khen thưởng đến động lực làm việc của người lao động tại chi cục Thuế khu vực nam Khánh Hòa
107 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Tài chính ngân hàng: Tác động của các chính sách tín dụng cho người nghèo đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên
73 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Tác động của văn hóa tổ chức đến sự gắn bó của nhân viên tại Công ty cổ phần Dược - Trang thiết bị y tế Bình Định (Bidiphar)
174 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn