intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:136

76
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn mong muốn đem đến một cái nhìn toàn diện về sự ảnh hưởng và sáng tạo của Phật giáo Trung Quốc trong lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc Phật giáo. Luận văn cũng đi sâu tìm hiểu, phân tích đặc điểm, mối quan hệ về sự ảnh hưởng của kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Ấn Độ vào Trung Quốc, làm nổi bật những nét sáng tạo của Phật giáo Trung Quốc thông qua một số ngôi chùa tiêu biểu của Trung Quốc thời cổ trung đại và một số các bích hoạ, kiến trúc chùa hang, tháp Phật, hang động của Phật giáo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRỊNH THỊ THÚY ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HÓA ẤN ĐỘ ĐỐI VỚI KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành:CHÂU Á HỌC Hà Nội-2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- TRỊNH THỊ THÚY ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HÓA ẤN ĐỘ ĐỐI VỚI KIẾN TRÚC VÀ ĐIÊU KHẮC PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành:CHÂU Á HỌC Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS. Đỗ Thu Hà Hà Nội-2012 2
  3. MỤC LỤC Lời cam đoan Danh mục chữ viết tắt trong luận văn MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 4 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 5 4. Phạm vi nghiên cứu 6 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 6 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 7 7. Đóng góp của luận văn 8 8. Nguồn tƣ liệu 8 9. Cấu trúc luận văn 8 CHƢƠNG I: PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC 11 1.1. Ấn Độ một trong những trung tâm văn minh lớn của nhân loại 11 1.1.1. Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ 11 1.1.2. Các giai đoạn lịch sử chính 11 1.1.3. Thành tựu chính của Văn minh Ấn Độ 13 1.1.4. Tư tưởng, tôn giáo 15 1.2. Thời điểu, điều kiện và các bƣớc du nhập của Phật giáo Ấn Độ vào Trung Quốc 16 1.2.1. Thời điểm Phật giáo Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc 16 1.2.2. Điều kiện Phật giáo du nhập vào Trung Quốc 19 1.2.3. Các bước du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc 21 1.3. Phật giáo Ấn Độ và sự hội nhập với văn hóa Trung Quốc 27 1.31. Ảnh hưởng của Phật giáo đối với lịch sử văn hoá Trung Quốc 31 4
  4. 1.3.2. Phật giáo với lịch sử triết học Trung Quốc 33 1.3.3. Phật giáo với văn học Trung Quốc 34 1.3.4. Phật giáo với kiến trúc, hội họa và điêu khắc Trung Quốc 35 1.3.5. Phật giáo với ngôn ngữ Trung Quốc 40 1.4. tiểu kết 41 CHƢƠNG 2: DẤU ẤN CỦA VĂN HOÁ ẤN ĐỘ TRONG 43 KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TRUNG QUỐC. 2.1. Những công trình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu của Trung Quốc 43 2.1.1. Bốn ngọn núi Phật giáo nổi tiếng 43 2.1.2. Bốn chùa Phật lớn 45 2.1.3. Ba nghệ thuật hang đá lớn 45 2.2. Một số nét bảo tồn theo nguyên gốc 45 2.2.1. Hệ thống biểu tượng của Phật giáo 46 2.2.2. Kết cấu không gian tổng thể của chùa Phật giáo Trung Quốc 49 2.2.3. Kiến trúc chùa Trung Quốc 54 2.3. Một số nét sáng tạo và biến thể 61 2.3.1. Bích hoạ 61 2.3.2. Một số nét sáng tạo và biến thể trong kiến trú mái chùa 67 Trung Quốc 2.4. Tiểu kết 72 CHƢƠNG 3: DẤU ẤN CỦA VĂN HOÁ ẤN ĐỘ TRONG 74 ĐIÊU KHẮC TRANG TRÍ PHẬT GIÁO 3.1. Những công trình điêu khắc trang trí tiêu biểu của Trung Quốc 74 3.1.1. Mười pho tượng ngồi lớn 74 3.1.2. Bốn pho tượng Phật nằm lớn 74 3.1.3. Hai pho tượng gỗ lớn 75 5
  5. 3.1.4. Hai pho tượng đồng lớn 75 3.2. Dấu ấn của văn hoá Ấn Độ trong điêu khắc 75 Trang trí tƣợng Phật chùa Trung Quốc 3.3. Một số nét sáng tạo trong điêu khắc trang trí tƣợng Phật chùa 82 3.4. Một số nét sáng tạo trong hình ảnh Quán Thế Âm của 92 Phật giáo Trung Quốc. 3.4.1. Những giả thiết về sự xuất hiện của Quán Thế Âm 92 3.4.2. Sự sáng tạo về hình tượng Quán Thế Âm của Phật giáo Trung Quốc 93 3.5. Tiểu Kết 105 KẾT LUẬN 106 TÀI LIỆU THAM KHẢO 108 6
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN A. Ảnh BĐ. Bản Đồ NXB. Nhà xuất bản PG. Phật giáo SCN. Sau Công Nguyên T/c. Tạp chí TCN. Trước Công Nguyên 7
  7. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Với một trong những giai đoạn văn minh liên tục dài nhất của thế giới và hệ thống chữ viết tiếp tục được dùng cho đến ngày nay, lịch sử Trung Quốc đặc trưng bởi những chia tách và thống nhất lặp đi lặp lại qua các thời kỳ hòa bình xen kẽ chiến tranh, trên một lãnh thổ đầy biến động. Lãnh thổ Trung Quốc bành trướng ra xung quanh từ một vùng đất chính tại Bình nguyên Hoa Bắc và lan ra tận các vùng phía Đông, Đông Bắc, và Trung Á, trong hàng thế kỷ. Ngày nay Trung Quốc là một trong những quốc gia lớn nhất ở Châu Á và trên thế giới. Trung Quốc với diện tích khoảng 9.600.000km2, phía đông giáp biển, bờ biển dài hơn 14.000km, đường biên giới trên đất liền dài hơn 20.000km từ Đông Bắc đến phía Nam lần lượt tiếp giáp với các nước Korea, Nga, Mông Cổ, Nêpan, Ấn Độ, Lào, Việt Nam, Apganixtan, Pakixtan, Mianma, Butan…Trung Quốc có nhiều đảo, trong đó Đài Loan và đảo Đải Nam là hai đảo lớn nhất [27,7]. Trung Quốc có hai dòng sông lớn bắt nguồn từ phía Tây chảy ra biển Đông là Hoàng Hà ở phía Bắc dài 5.464 km và Trường Giang (còn gọi là sông Dương Tử) ở phía Nam dài 6.300 km. Tại chỗ tiếp giáp giữa biên giới Tây Nam Trung Quốc và Nêpan có ngọn núi Chômôlungma (người phương Tây gọi là Everset) cao 8.848m. Đó là ngọn núi cao nhất thế giới, thuộc dãy núi Himalaya. Ở Tây Bắc có lòng chảo Thổ Lỗ Phiên thấp hơn mặt nước biển 154m [27,7]. Trung Quốc cũng là một trong những nền văn minh với hệ thống chính trị và pháp luật sớm nhất, kỹ thuật và khoa học tiên tiến nhất với bốn phát minh tiêu biểu: Giấy được phát minh dưới triều Hán (206 trước Công Nguyên-220 trước Công Nguyên), in ấn thời nhà Tống (960-1279), thuốc súng được phát hiện vào thời Chiến Quốc (475-221 trước Công Nguyên), la bàn hơn 2000 năm trước đây, người Trung Quốc phát hiện ra rằng, một mẫu 8
  8. nam châm tự nhiên luôn tự động quay hướng về phía Bắc và thế là người ta đã chế tạo ra la bàn. Với nền văn minh rực rỡ của mình, Trung Quốc không chỉ có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến các nước như Việt Nam, Korea, Nhật Bản trong nhiều thời kỳ mà còn ảnh hưởng lớn đến khoa học kỹ thuật của thế giới. Nhưng có điều đặc biệt là Phật giáo lại không sản sinh ra ở Trung Quốc mà được sinh ra ở Ấn Độ vào giữa thiên kỉ I TCN. Nhưng ngay từ những năm đầu Công Nguyên, Phật giáo đã bắt đầu truyền vào nội địa Trung Quốc, lưu truyền và phát triển cho đến nay đã được hơn 2000 năm. Là một tôn giáo phát xuất tại Ấn Ðộ được thỉnh mời đến đất nước Trung Quốc1, Phật giáo đã trải qua các thời kỳ sơ truyền, cách nghĩa tỷ phụ 2, xung đột, thay đổi, thích ứng, dung hợp, với khả năng thích nghi và chuyển hoá bên trong các nền văn hoá khác nhau, trong niềm tin hiện có của cộng đồng dân tộc này. Điều này được thể hiện qua sự giao thoa hài hoà với các tập tục có trước với yêu cầu có một nguồn gốc với các thần linh bản xứ và sự nhấn mạnh những khía cạnh sâu sát của Phật giáo tồn tại song hành với các phong tục hiện có của Trung Quốc. Dần dần, Phật giáo đã thẩm thấu sâu sắc vào văn hóa Trung Quốc, ảnh hưởng tới sự phát triển văn hóa lịch sử Trung Quốc như: Ảnh hưởng tới sự phát triển của lịch sử xã hội Trung Quốc, sự phát triển của nền văn hóa truyền thống Trung Quốc, ảnh hưởng tới triết học của Trung Quốc, văn học, ngôn ngữ học, dân tục. Đặc biệt, Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng tới các phương tiện nghệ thuật của Trung Quốc như: Kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc... đều tăng thêm hình thức và nội dung mới. Nhờ Phật giáo, trong kho tàng nghệ thuật dân tộc Trung Quốc tăng thêm rất nhiều trân bảo quý hiếm vô giá. 1 Niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 10 (năm 67 CN) vua Minh Ðế đời Hậu Hán sai sứ qua Tây Vực cầu pháp thỉnh tượng Phật. Giữa đường sứ giả gặp 2 bậc cao tăng là Ngài Ca Diếp Ma Ðằng và Trúc Pháp Lan, bèn mời 2 Ngài đến Trung Quốc. Vua Minh đế rất mừng rỡ liền sắc dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và làm chỗ dịch kinh cho 2 Ngài. 2 Cách nghĩa, tỷ phụ là dùng nghĩa lý của Ðạo gia và Nho gia để giải thích đạo lý Phật giáo. Phật giáo mới truyền vào Trung Quốc, do vì tư tưởng uyên thâm người thường khó có thể hiểu thấu, nên các nhà học giả Phật giáo thường dùng nghĩa lý của Ðạo gia và Nho gia để giải thích đạo lý Phật giáo. 9
  9. Mặt khác, việc nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc trang trí Phật giáo Trung Quốc còn cho chúng ta hiểu sâu hơn về lý do tại sao Phật giáo là một tôn giáo ngoại lai từ Ấn Ðộ. Truyền sang mà Phật Giáo lại có chỗ đứng vững chắc như vậy trong một dân tộc vốn có truyền thống “bài ngoại” như Trung Quốc [39,25]. Trong khi Phật Giáo ở Ấn Ðộ mỗi ngày mỗi suy bại, thì Phật Giáo ở Trung Hoa mỗi ngày mỗi thêm thanh thế và cuối cùng chinh phục được hầu hết cả một khối người đông đảo nhất trên thế giới. Vì sao? Có lẽ vì ở Ấn Ðộ, các nhà lãnh đạo truyền giáo đã không biết thích nghi với hoàn cảnh, với sự tiến triển của thời thế, cứ giữ chặt nếp sống cũ, trong khi ấy thì ở Trung Hoa, các nhà truyền giáo đã hiểu rõ căn cơ của quần chúng, biết thích nghi với hoàn cảnh và thời thế, luôn luôn phát huy những tôn phái mới để đáp ứng cho những nhu cầu tinh thần của mọi lớp người. Do đó mà đạo Phật ở Trung Hoa không bị một tôn giáo nào lấn lướt được chăng? Cũng như ở Việt Nam, các triều đại ở Trung Hoa khi mới lên ngôi thì các ông vua khai quốc bao giờ cũng sùng mộ đạo Phật và khuyến khích sự truyền giáo, còn các ông vua cuối cùng, trái lại, thường hay hủy phá đạo Phật, trước khi mất ngôi. Những sự kiện ấy cho phép ta tạm kết luận rằng: Các ông vua khai quốc phần nhiều những vị có đức hạnh và sáng suốt nhận thấy cần phải chấn hưng Phật Giáo thì dân chúng mới được thuần lương và nước nhà mới thịnh trị. Trái lại, các ông vua cuối cùng phần nhiều là những hôn quân vô đạo, nên đã hủy phá Phật pháp. Vì thế, nước đã loạn lại càng loạn thêm và các ngai vàng của các ông cũng sụp đổ theo với đà sụp đổ của phép nước. Đạo Phật ở Trung Hoa có lúc thịnh và lúc suy. Trong sự thịnh suy ấy, công và tội của các ông vua rất lớn, nhưng không phải là tất cả. Các ông vua chỉ tăng cường thượng duyên, còn nguyên nhân chính, động cơ chính 10
  10. vẫn là giới tín đồ và nhất là giới lãnh đạo Phật giáo. Khi tín đồ có đạo hạnh và lòng tin tưởng mạnh mẽ, các nhà truyền giáo có nhãn quan sáng suốt, thì dù các ông vua có muốn phá đạo cũng chỉ phá được một phần nào thôi. Cũng như khi tín đồ thiếu đạo hạnh và lòng tin, các vị lãnh đạo thiếu tinh thần tiến thủ và sáng suốt, thì ông vua dù có muốn nâng đỡ đạo Phật, cũng chỉ nâng đỡ một phần nào thôi. Với những lý do trên chúng tôi chọn: “Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc” làm đề tài luận văn thạc sỹ Châu Á học. Đề tài này có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu về chính văn hoá Trung Quốc cũng như sự ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ ra bên ngoài trong lúc sự giao lưu văn hoá, kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Phật giáo đã trở thành một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới, những giáo lý và những điều răn dạy của Phật giáo ngày càng được nhiều người quan tâm và tìm hiểu. Những công trình đầu tiên có ghi chép về Phật giáo được truyền vào Trung Quốc được biên soạn như “Mâu Tử lý hoặc luận” và “Tứ Thập Nhị chương kinh” vào những năm cuối triều Đông Hán, sau đó lại được đăng trong sách sử “Hậu Hán thư”…Tuy nhiên, những ghi chép này rất sơ lược, chủ yếu ghi chép về thời điểm Phật giáo được truyền vào Trung Quốc. Nhưng các học giả người Trung Quốc ở nước ngoài vẫn hoài nghi về cách ghi chép này. Vào những năm cuối triều Tây Hán hoặc vào khoảng giữa thời Lưỡng Hán có một số cuốn sách có ghi chép về quá trình Phật giáo truyền vào Trung Quốc, và cách nói này khá được tin cậy trong Cuốn “Trung Quốc Phật giáo sử” do Nhiệm Kế Dũ chủ biên và cuốn “Giản minh Trung Quốc phật giáo sử” của học giả Nhật Bản Liêm Điền Mậu Hùng đều có quan điểm này. Căn cứ 11
  11. chủ yếu của họ là cuốn “Tam Quốc chí chú”, trong tác phẩm này, Bùi Tùng Chi đã dẫn một đoạn văn trong “Ngụy lược Tây Nhung truyện” của Ngư Hoạn thời Tam Quốc như sau: Vào năm Ai Đế Nguyên Thọ (năm thứ 2 trước Công Nguyên), sư thần nước Đại Nguyệt Thị đã truyền kinh Phật cho tiến sĩ Cảnh Lư. “Hậu Hán thư” cũng nói rằng, người em trai cùng cha khác mẹ của Minh Đế là Sở Vương Lưu Anh có chờ Hoàng Đế, Lão Tử và tượng Phật ở nhà mình, ông còn bỏ tiền ra phụng dưỡng hòa thượng, điều này chứng tỏ Phật giáo đã được lưu truyền trong tập đoàn thống trị thượng tầng vào những năm đầu của triều Đông Hán. Suy đoán theo những tư liệu lịch sử trên thì Phật giáo đã được truyền vào Trung Quốc vào khoảng thời gian giữa thời kỳ Lưỡng Hán. Ngoài những công trình nghiên cứu, sưu tầm có nói ở trên thì “ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc” còn là chủ đề được quan tâm với nhiều bài viết, chuyên khảo đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành lịch sử và chuyên ngành kiến trúc, tạp chí nghiên cứu Phật học như: Đỗ Công Định“Phật giáo Trung Quốc và sự ảnh hưởng đối với văn hóa truyền thống”. TC Nghiên cứu Phật học, ( số 6/1999), “Vị trí nghệ thuật kiến trúc Phật giáo Trung Quốc phần 1, 2, 3”của tác giả Thích Mãn Tâm có viết về những nét sáng tạo của kiến trúc Phật giáo Trung Quốc… Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, có thể thấy sự ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc điêu khắc Phật giáo Trung Quốc được các học giả nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên do hạn chế về tư liệu, nhiều vấn đề còn chưa có điều kiện làm sáng tỏ tính hệ thống cũng như giá trị của Phật giáo Trung Quốc. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 12
  12. Đề tài tiến hành nghiên cứu về thời điểm mà văn hóa Ấn Độ du nhập vào Trung Quốc và những ảnh hưởng chủ yếu của Phật giáo trong đời sống văn hoá, xã hội của Trung Quốc cổ trung đại. Luận văn mong muốn đem đến một cái nhìn toàn diện về sự ảnh hưởng và sáng tạo của Phật giáo Trung Quốc trong lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc Phật giáo. Luận văn cũng đi sâu tìm hiểu, phân tích đặcđiểm, mối quan hệ về sự ảnh hưởng của kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Ấn Độ vào Trung Quốc, làm nổi bật những nét sáng tạo của Phật giáo Trung Quốc thông qua một số ngôi chùa tiêu biểu của Trung Quốc thời cổ trung đại và một số các bích hoạ, kiến trúc chùa hang, tháp Phật, hang động của Phật giáo. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu cụ thể về Bích hoạ và Kiến trúc hang động Phật giáo tại Tân Cương và Đôn Hoàng, nghiên cứu điêu khắc trang trí tượng Phật tại một số ngôi chùa tiêu biểu Trung Quốc thời cổ trung đại. Luận văn cũng nghiên cứu sự tương đồng và khác biệt của kiến trúc không gian tổng thể chùa, tháp Phật, mái chùa và điêu khắc trang trí chùa tại một số ngôi chùa tiêu biểu của Trung Quốc. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Qua nghiên cứu“Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc”, luận văn góp phần phác dựng lại một phần quá trình hình thành, phát triển của Phật giáo Trung Quốc, đồng thời làm sáng tỏ những ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ đối với Phật giáo Trung Quốc và sáng tạo của Phật giáo Trung Quốc trong dòng chảy lịch sử Phật giáo Trung Quốc nói riêng và Phật giáo thế giới nói chung qua nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. 13
  13. Luận văn tiến hành nghiên cứu “Ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc” trong mối quan hệ tổng thể với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, không tách rời khỏi những đặc trưng văn hoá truyền thống của Trung Quốc. Từ đó, chúng tôi hy vọng đưa ra những giả thiết tổng hợp dựa trên những luận cứ khoa học về các giai đoạn hình thành, ảnh hưởng và phát triển sáng tạo của Phật giáo Trung Quốc trên phương diện kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc, đồng thời phát huy những giá trị tích của Phật giáo trong bối cảnh Trung Quốc đang chuyển mình một cách mạnh mẽ. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù tư tưởng tâm linh tôn giáo của ngành lịch sử, văn hoá: Phương pháp lịch sử, phương pháp logích, phương pháp so sánh, phân tích, đối chiếu, thống kê tổng hợp… Ngoài những phương pháp truyền thống cơ bản trên, cần thiết sử dụng phương pháp liên ngành, đa ngành trong nghiên cứu đề tài này bởi: Các ngôi chùa và những bích hoạ không tồn tại một cách tự thân, tự phát mà ra đời, phát triển và được bảo tồn trên cơ sở tổng hoà các điều kiện tự nhiên, lịch sử, tín ngưỡng, văn hoá trong một thời kỳ nhất định hoặc trong cả một chuỗi các giai đoạn phát triển của lịch sử đất nước nói chung và địa phương nói riêng. Nghiên cứu về một số địa danh, ta càng cần thiết phải tiếp cận theo hướng tổng thể bởi đây là phương thức tốt nhất và hiệu quả nhất giúp nhà nghiên cứu có được cái nhìn toàn cảnh, hệ thống để trên cơ sở đó, phân loại và đánh giá được chính xác sự ảnh hưởng và sáng tạo trong từ địa danh. Do vậy trong quá trình làm luận văn, chúng tôi đã hệ thống hoá tư liệu theo 14
  14. phương thức tổng hợp liên ngành để phân tích các vấn đề được đặt ra trong luận văn. 7. Đóng góp của luận văn Luận văn đã cố gắng thực hiện những đóng góp sau: Tập hợp và hệ thống hoá những ngôi chùa cổ trung đại của Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ và làm nổi bật giao thoa văn hóa Ấn Trung những sáng tạo riêng của Trung Quốc. Bổ sung, làm đầy đặn hơn hệ thống tư liệu về sự ảnh hưởng của kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Ấn Độ vào Trung Quốc. Làm rõ sự ảnh hưởng và sáng tạo của kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc. Tiếp cận nghiên cứu về Phật giáo phần nào khôi phục lại quá trình hình thành và phát triển của Phật giáo Trung Quốc qua các thời kỳ. Luận văn góp phần tăng thêm cứ liệu cho việc nghiên cứu về Phật giáo Trung Quốc sau này. 8. Nguồn tƣ liệu Để giải quyết các yêu cầu đặt ra trong luận văn, chúng tôi cố gắng khai thác tối đa các nguồn sử liệu gốc như thư tịch cổ, kết quả các công trình nghiên cứu, ghi chép của các tác giả trong và ngoài nước, đồng thời sử dụng những tư liệu thống kê, bản ảnh đã được các cơ quan văn hoá tiến hành tập hợp trong nhiều năm. 9. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương như sau: - Chƣơng 1: Phật giáo Ấn Độ với Trung Quốc (35 trang) 15
  15. Luận văn khái quát chung về Ấn Độ, một trong những trung tâm lớn của nhân loại và là quê hương của Phật giáo. Đặc biệt, luận văn tập trung phân tích, tổng hợp những nguồn tư liệu khai thác được về thời điểm, điều kiện và các bước du nhập của Phật giáo Ấn Độ vào Trung Quốc. Trên tổng quan của những yếu tố đó có thể nhận định về sự hội nhập của Phật giáo Ấn Độ với văn hoá Trung Quốc trên các phương diện như: Tư tưởng, văn hoá nghệ thuật, kiến trúc và điêu khắc và một số lĩnh vực khác. - Chƣơng 2: Dấu ấn của giao thoa văn hoá Ấn Độ với Trung Quốc trong kiến trúc Phật giáo Trung Quốc (32 trang) Trong chương 2, luận văn tập trung vào phân tích dấu ấn của văn hoá Ấn Độ vào kiến trúc Phật giáo Trung Quốc qua những công trình kiến trúc Phật giáo tiêu biểu của Trung Quốc thời cổ trung đại. Từ đó chỉ ra được những nét bảo tồn theo nguyên gốc trên các mặt như: Hệ thống biểu tượng, kết cấu không gian tổng thể chùa, kiến trúc chùa hang và tháp Phật của Trung Quốc. Đồng thời cũng xác định rõ những nét sáng tạo và biến thể của kiến trúc Phật giáo sau khi đã hội nhập và ăn sâu vào trong văn hoá truyền thống Trung Quốc trên một số phương diện như là: Mái chùa, Bích hoạ….Do đó việc phân tích này là vô cùng cần thiết. Công việc này không chỉ giúp nhận định một cách chính xác hơn về giá trị văn hoá mà còn làm sáng tỏ được những diện mạo nguyên gốc hay sáng tạo của một số ngôi chùa Trung Quốc. Hơn nữa việc phân tích này là cơ sở để tác giả luận văn đánh giá tính hệ thống, mối quan hệ giữa hai nền văn hoá Ấn Độ và Trung Quốc dựa trên kiến trúc Phật giáo cũng như rút ra những nhận xét quan trọng về đặc điểm của kiến trúc Phật giáo Trung Quốc. - Chƣơng 3: Dấu ấn của văn hoá Ấn Độ trong điêu khắc trang trí chùa Trung Quốc(33 trang). 16
  16. Trong chương 3, luận văn đi vào phân tích điêu khắc trang trí chùa Trung Quốc, thông qua một số bức tượng về Phật Thích Ca Mâu Ni và tượng Bồ Tát, tượng Quan Thế Âm…Từ đó nêu nên những dấu ấn của văn hoá Ấn Độ trong điêu khắc trang trí tượng Phật chùa Trung Quốc và đồng thời chỉ ra những nét sáng tạo của nghệ thuật điêu khắc trang trí tượng Phật Trung Quốc. Luận văn còn đi vào việc trình bầy cách bài trí tượng Phật và giải thích sơ qua về các vị Bồ Tát để thấy được vai trò của người tiếp nhận (mà ở đây cụ thể là nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Trung Quốc) đã tạo nên những sự khác biệt và sáng tạo của người Trung Quốc. 17
  17. CHƢƠNG I PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ VÀ TRUNG QUỐC --------------***--------------- 1.1. ẤN ĐỘ - MỘT TRONG NHỮNG TRUNG TÂM VĂN MINH LỚN CỦA NHÂN LOẠI 1.1.1. Cơ sở hình thành nền văn minh Ấn Độ 1.1.1.1. Điều kiện tự nhiên Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở Tây-Bắc Ấn. Đông nam và Tây Nam Ấn Độ giáp Ấn Độ dương. Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn. Nền văn minh ở lưu vực sông Indus (3.000-1.800 TCN) đã thấm đượm những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ. 1.1.1.2. Dân cƣ Người dân xây dựng nên nền văn minh cổ xưa nhất ở Ấn Độ ven bờ sông Ấn là những người Đraviđa. Ngày nay những người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền nam bán đảo Ấn Độ. Khoảng 2000 năm TCN đến 1500 năm TCN có nhiều tộc người Aria tràn vào xâm nhập và ở lại bán đảo Ấn. Sau này, trong quá trình lịch sử còn có nhiều tộc người khác như người Hy Lạp, Hung Nô, Ả Rập, Mông Cổ xâm nhập Ấn Độ do đó cư dân ở đây có sự pha trộn khá nhiều dòng máu, nhiều chủng tộc, tôn giáo, ngôn ngữ và văn hóa phong phú đã tạo nên nền văn minh Ấn Độ 1.1.2. Các giai đoạn lịch sử chính 18
  18. 1.1.2.1. Nền văn minh cổ xƣa trên lƣu vực sông Ấn (3.000-1.800 TCN) Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn. Tại đây người ta tìm thấy những pho tượng một người đàn ông trong tư thế suy tưởng gợi đến môn phái Yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở khu vực Harappa và Mohenjo có niên đại từ 3.000 dến 1.800 TCN. Những tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidia, từng phồn thịnh từ rất lâu ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến. 1.1.2.2. Nền văn minh Vêđa (1.600-thế kỷ I TCN) Ở vào khoảng thời gian 100 đến 1.600 TCN, một chi của dòng họ Aryan rộng lớn, thường được gọi là người Indo-Aryan, di cư đến Ấn Độ. Họ đem theo cùng với họ là tiếng Phạn và một tôn giáo dựa trên nghi lễ hiến tế các vị thần tượng trưng cho các thế lực của thiên nhiên như Indra, thần mưa và sấm, thần Agni (lừa) và Varuma, chúa tể của các sông biển và mùa màng. Những bài ngợi ca vị thần ấy được tập hợp lại thành bốn tập Kinh Veda. Lâu đời nhất là tập Rigveda (1.500-1.200 TCN) Đặc điểm của Kinh Veda là hướng con người đến tư tưởng cao cả, văn phong đẹp đẽ và bước chuyển những nghi thức từ bên ngoài vào kinh nghiệm nội tại. Thời kỳ này chính là thời kỳ có thuyết nói rằng cùng với nó là sự ra đời Đức Phật Vào năm 326 TCN Alexandros người Macedonia vượt sông Indus và đánh thắng một trận quyết định và rút về. Cuộc xâm lăng của ông đã để lại dấu ấn của thế giới Hy Lạp, nâng văn hóa Ấn Độ lên mới. Vào năm 320 TCN. Chandragup-ta Maurya (hoàng đế Maurya) thống nhất trở lại toàn bộ các bộ lạc rời rạc và thành lập chế độ tập quyền, kinh đô được đặt tại Pataliputra (bang Bihar là một bang ở Tây Bắc Ấn Độ). 1.1.2.3. Đế chế Gupta 19
  19. Thời kỳ hoàng kim của nền văn minh Ấn Độ thuộc vào thời kỳ đế chế Gupta. Thời kỳ này có nhiều thành tựu nổi bật về văn hóa trồng trọt. Thời kỳ này nền văn minh Ấn độ đã để lại cho nhân loại một khối lượng các di sản khổng lồ. 1.1.3. Thành tựu chính của Văn minh Ấn Độ 1.1.3.1 Chữ viết, văn học Thời đại Harappa-Môhenjô Đarô, ở miền Bắc Ấn đã xuất hiện một loại chữ cổ mà ngày nay người ta còn lưu giữ được khoảng 3.000 con dấu có khắc những kí hiệu đồ họa. Thế kỉ VII TCN, ở đây đã xuất hiện chữ Brami, ngày nay còn khoảng 30 bảng đá có khắc loại chữ này. Trên cơ sở chữ Brami, thế kỉ V TCN ở Ấn Độ lại xuất hiện chữ Sanscrit, đây là cơ sở của nhiều loại chữ viết ở Ấn Độ và Đông Nam Á sau này. Hai tác phẩm văn học nổi bật thời cổ đại là Mahabharata và Ramayana. Mahabharata là bản trường ca gồm 220.000 câu thơ. Bản trường ca này nói về một cuộc chiến tranh giữa các con cháu Bharata. Bản trường ca này có thể coi là một bộ “bách khoa toàn thư” phản ánh mọi mặt về đời sống xã hội Ấn Độ thời đó. Ramayana là một bộ sử thi dài 48.000 câu thơ, mô tả cuộc tình giữa chàng hoàng tử Rama và công chúa Xita (con của nữ thần mẹ đất). Thiên tình sử này ảnh hưởng tới văn học dân gian một số nước Đông Nam Á. Riêmkê ở Campuchia, Ramakiên ở Thái Lan chắc chắn có ảnh hưởng từ Ramayana. Thời cổ đại ở Ấn Độ còn có tập ngụ ngôn Năm phương pháp chứa đựng rất nhiều tư tưởng được gặp lại trong ngụ ngôn của một số dân tộc Á-Âu. 1.1.3.2. Nghệ thuật Ấn Độ là nơi có nền nghệ thuật tạo hình phát triển rực rỡ, ảnh hưởng tới nhiều nước Đông Nam Á. Nghệ thuật Ấn Độ cổ đại hầu hết đều phục vụ một 20
  20. tôn giáo nhất định, do yêu cầu của tôn giáo đó mà thể hiện. Có thể chia ra ba dòng nghệ thuật: Hinđu giáo, Phật giáo, Hồi giáo. Có rất nhiều chùa tháp Phật giáo, nhưng đáng kể đầu tiên là dãy chùa hang Ajanta ở miền trung Ấn Độ. Đây là dãy chùa được đục vào vách núi, có tới 29 gian chùa, các gian chùa thường hình vuông và nhiều gian mỗi cạnh tới 20m. Trên vách hang có những bức tượng Phật và nhiều bích hoạ rất đẹp. Các công trình kiến trúc Hinđu giáo được xây dựng nhiều nơi trên đất Ấn Độ với mầu sắc nghệ thuật tỷ mỉ và được xây dựng nhiều vào khoảng thế kỉ VII - XI. Tiêu biểu cho các công trình Hinđu giáo là cụm đền tháp Khajuraho ở Trung Ấn, gồm tất cả 85 đền xen giữa những hồ nước và những cánh đồng. Những công trình kiến trúc Hồi giáo nổi bật ở Ấn Độ là tháp Mina, được xây dựng vào khoảng thế kỉ XIII và lăng Taj Mahan được xây dựng vào khoảng thế kỉ XVII. 1.1.3.3. Khoa học tự nhiên a. Về Thiên văn: Người Ấn Độ cổ đại đã làm ra lịch, họ chia một năm ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày. (Như vậy năm bình thường có 360 ngày). Cứ sau 5 năm thì họ lại thêm vào một tháng nhuận. b. Về Toán học: Người Ấn Độ thời cổ đại chính là chủ nhân của hệ thống chữ số mà ngày nay ta quen gọi là số Arập. Đóng góp lớn nhất của họ là đặt ra số không, nhờ vậy mọi biến đổi toán học trở thành đơn giản, ngắn gọn hẳn lên. (Người Tây Âu vì vậy mà từ bỏ số La Mã mà sử dụng số Arập trong toán học.) Họ đã tính được căn bậc 2 và căn bậc 3; đã có hiểu biết về cấp số, đã biết về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác Pi = 3,1416. c. Về Vật lí: Người Ấn Độ cổ đại cũng đã có thuyết nguyên tử. Thế kỉ V TCN, có một nhà thông thái ở Ấn Độ đã viết “...Trái Đất, do trọng lực của bản thân đã hút tất cả các vật về phía nó”[43,751]. 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2