Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Tư tưởng Ishida Baigan (1685-1744) và phong trào Sekimon Shingaku từ trung kì Edo đến nay
lượt xem 5
download
Luận văn sẽ triển khai ba nhiệm vụ chính. Thứ nhất, luận văn sẽ làm rõ thân thế và sự nghiệp của Ishida Baigan, phân tích để làm nổi bật những đặc trưng tư tưởng của ông. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đánh giá vị trí, vai trò của Ishida Baigan trong sự phát triển tư tưởng thời Edo nói riêng và Nhật Bản nói chung. Mời các bạn tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Tư tưởng Ishida Baigan (1685-1744) và phong trào Sekimon Shingaku từ trung kì Edo đến nay
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- KIỀU HỒNG HẠNH TƢ TƢỞNG ISHIDA BAIGAN (1685-1744) VÀ PHONG TRÀO SEKIMON SHINGAKU TỪ TRUNG KÌ EDO ĐẾN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Châu Á học Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- KIỀU HỒNG HẠNH TƢ TƢỞNG ISHIDA BAIGAN (1685-1744) VÀ PHONG TRÀO SEKIMON SHINGAKU TỪ TRUNG KÌ EDO ĐẾN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á học Mã số: 60 31 06 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thu Giang Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan toàn bộ Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Tư tưởng Ishida Baigan (1685-1744) và phong trào Sekimon Shingaku từ trung kì Edo đến nay” là công trình nghiên cứu của riêng tôi, thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Thị Thu Giang. Mọi trích dẫn trong Luận văn này đều được ghi rõ nguồn đầy đủ và cụ thể. Nội dung Luận văn này không trùng lặp với bất cứ nội dung luận văn nào đã công bố. Tác giả Kiều Hồng Hạnh
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn là TS. Phạm Thị Thu Giang đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và động viên em trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Nhân dịp này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Bộ môn Nhật Bản học và Chuyên ngành Châu Á học, Khoa Đông Phương học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã giảng dạy, quan tâm và giúp đỡ em trong suốt những năm học tập vừa qua. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo và bạn học tại trường Đại học Senshu Nhật Bản, đặc biệt là giáo sư Nishizaka Yasushi và giáo sư Arai Katsuhiro thuộc ngành Lịch sử, Khoa Khoa học xã hội và Nhân văn. Em cũng không thể quên nhắc tới sự giúp đỡ nhiệt tình của phu nhân cố giáo sư Ishikawa Ken tại thư viện Kendo Bunko (Tokyo), sự hợp tác tích cực của ông Goto Issei; các thành viên thuộc giảng xá Tâm học Shuseisha (Kyoto) và lớp “Thực hành Sekimon Shingaku” (Tokyo)... Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, đặc biệt là người mẹ đã luôn động viên em trên bước đường học tập và nghiên cứu. Do trình độ có hạn, nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng các bạn để bài luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 25/10/2015 Kiều Hồng Hạnh
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4 1.Tính cấp thiết của đề tài ...........................................................................................4 2.Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn .......................................................................5 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.....................................................8 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của luận văn ........................................................9 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ......................................10 6.Những đóng góp mới của luận văn ........................................................................10 7. Kết cấu của luận văn .............................................................................................11 CHƢƠNG 1: ISHIDA BAIGAN – CON NGƢỜI VÀ THỜI ĐẠI .....................13 1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Nhật Bản thế kỉ XVII-XVIII ................................13 1.1.1. Bối cảnh kinh tế ...............................................................................................13 1.1.2. Bối cảnh xã hội................................................................................................14 1.2. Sự giải phóng của tri thức và bung nở của các trào lƣu tƣ tƣởng có nguồn gốc từ Nho giáo ........................................................................................................16 1.2.1. Sự phát triển của tri thức và học thuật thời Edo.............................................16 1.2.2. Sự bung nở của các luồng tư tưởng, học phái có nguồn gốc Nho giáo ..........18 1.3. Những chuyển biến trong nhận thức của giới thị dân ..................................20 1.3.1. Nhận thức về vai trò của thị dân .....................................................................20 1.3.2. Nhận thức về tầm quan trọng của gia nghiệp .................................................21 1.3.3. Nhận thức về việc xây dựng chuẩn mực đạo đức và thuật xử thế...................22 1.4. Thân thế và sự nghiệp của Ishida Baigan ......................................................23 1.4.1. Thân thế của Ishida Baigan ............................................................................23 1.4.2. Sự nghiệp giảng dạy ........................................................................................26 1.4.3.Những tác phẩm chính .....................................................................................30 TIỂU KẾT .................................................................................................................36 1
- CHƢƠNG 2: CHẤT LIỆU VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG ISHIDA BAIGAN 36 2.1.Chất liệu tƣ tƣởng của Ishida Baigan .............................................................36 2.2. Nội dung tƣ tƣởng của Ishida Baigan ............................................................42 2.2.1. Quan hệ giữa Đạo và Tâm ..............................................................................42 2.2.2. Sự phát triển từ Tâm đến học vấn ...................................................................46 2.2.3. Sự thực hành trong học vấn tri Tâm ...............................................................48 2.2.4. Tư tưởng thương nhân đạo .............................................................................50 2.2.5. Sự kết hợp của các đạo đức thông tục với tư tưởng tri Tâm ...........................53 TIỂU KẾT .................................................................................................................57 CHƢƠNG 3:SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO SEKIMON SHINGAKU TỪ SAU THỜI KÌ CỦA BAI GAN CHO ĐẾN NAY ..........................................57 3.1. Sự triển khai phong trào Sekimon Shingaku nửa sau thời Edo (1745-1867) ...................................................................................................................................58 3.1.1. Bối cảnh thời đại .............................................................................................58 3.1.2. Những biến đổi về nội dung, cơ cấu tổ chức, và phương thức giáo hóa ........59 3.2. Sekimon Shingaku sau Chiến tranh thế giới thứ 2 .......................................69 3.2.1. Bối cảnh thời đại .............................................................................................69 3.2.2. Sự thành lập và hoạt động của Sekimon Shingakkai những năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ 2 (1949-1952)...............................................................................71 3.2.3. Hoạt động của Sekimon Shingakkai và các tổ chức thành viên (1953-2000) 74 3.3. Sekimon Shingaku trong đời sống Nhật Bản hiện đại ..................................79 3.3.1. Những thay đổi về hình thức hoạt động của Meiseisha ..................................79 3.3.2. Sự thành lập của “Sekimon Shingaku Jissen Koza”.......................................81 TIỂU KẾT................................................................................................................88 KẾT LUẬN ..............................................................................................................89 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................91 PHỤ LỤC ...............................................................................................................100 2
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Tình hình xuất bản trong những năm Kanbun – Genroku (1661-1704)...18 Bảng 2.1: Thống kê trích dẫn trong tác phẩm “Đô bi vấn đáp” ................................38 Bảng 2.2: Thống kê trích dẫn trong tác phẩm “Kiệm ước tề gia luận”.....................40 Bảng 3.1: Một số tác phẩm tiêu biểu trong tạp chí “Tâm học” ................................74 Bảng 3.2:Cơ cấu thành viên của Sekimon Shingakkai. ............................................75 Bảng 3.3: Bảng thống kê số lượng và nội dung bài viết trong tạp chí “Tâm” ..........77 3
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Đã từ lâu, thành công trong công cuộc cận đại hóa hay sự phát triển thần kì của Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ 2 là mối quan tâm và câu hỏi lớn trong giới nghiên cứu xã hội nhân văn của các nước châu Á nói riêng và thế giới nói chung. Có thể nói, một trong những yếu tố được xem là nền tảng, cội nguồn cho thành công đó là sự hình thành và phát triển của tư tưởng, học thuật thời kì Edo. Vào thời Edo (1603-1867), Nho giáo được dung nạp như một trụ cột về tư tưởng cho tầng lớp võ sĩ thống trị và trí thức. Nhưng sau đó, một cách tự nhiên, Nho giáo trong sự kết hợp với các tôn giáo tín ngưỡng khác như Phật giáo, Thần đạo…dần trở thành chất liệu tư duy và biểu đạt tư tưởng của cả tầng lớp thường dân – tầng lớp bị trị trong xã hội. Ở Nhật Bản, từng có thời kì những tư tưởng bắt nguồn từ tầng lớp thường dân hình thành bằng những “chất liệu” trên bị đánh giá là “lạc hậu”, “phong kiến”, nhưng sau đó đã xuất hiện khuynh hướng nghiên cứu chỉ ra rằng, “những tư tưởng đó đã lay động quần chúng bình dân, khơi dậy những khả năng vô hạn bên trong họ. Đó là sự hình thành của một thứ triết học mang tính năng động, chủ thể, trái với Túc mệnh luận của Nho giáo và Phật giáo trong thời kì cận thế” [55, tr.21]. Đây có thể xem là một điểm đặc sắc trong sự phát triển của tư tưởng học thuật ở Nhật Bản so với các nước Đông Á khác, nơi mà học thuật tư tưởng thường gắn liền với khoa cử và vai trò chủ đạo nằm ở tầng lớp thống trị. Cũng chính nhờ quá trình sáng tạo và hấp thu này mà nhiều tư tưởng học thuật thời kì Edo đã vượt qua những thăng trầm của lịch sử, vẫn đang được đón nhận và bảo tồn đến tận ngày nay. Những tư tưởng học thuật thời kì Edo với sức sống lâu bền như vậy có sự góp mặt của các nhà tư tưởng trưởng thành từ tầng lớp thị dân, trong đó có Ishida Baigan (石田梅岩, 1685-1744) và phong trào tư tưởng Tâm học mang tên ông – 4
- Sekimon Shingaku (石門心学, Thạch môn Tâm học). Trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đang tích cực hợp tác, học hỏi những bài học kinh nghiệm từ Nhật Bản, việc nghiên cứu tư tưởng của Ishida Baigan và lịch sử phong trào Sekimon Shingaku có thể xem là một cách tiếp cận để nhận thức quá trình hình thành, tồn tại cũng như sức mạnh của tinh thần đã tạo nên những khác biệt và thành công của Nhật Bản. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn 2.1. Tình hình nghiên cứu ở Nhật Bản Trong những nghiên cứu về tư tưởng của Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku ở Nhật Bản, có lẽ hiếm có công trình nghiên cứu nào có thể vượt qua được “Nghiên cứu lịch sử Sekimon Shingaku” (NXB Iwanami Shoten, 1938) của giáo sư Ishikawa Ken (石川謙) – nhà nghiên cứu hàng đầu về lịch sử giáo dục Nhật Bản thời kì cận thế. Bằng phương pháp thống kê, miêu tả rất tỉ mỉ và chi tiết, luận án tiến sỹ với gần 1400 trang này đã phác họa nên quá trình hình thành, phát triển, suy yếu của Sekimon Shingaku với tư cách một nền giáo dục đạo đức bình dân bên cạnh các cơ sở giáo dục khác trong thời kì cận thế. Từ những năm 1940 đến năm 1970, tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku được nghiên cứu chủ yếu trên phương diện lịch sử tư tưởng. Tuy nhiên, trong những năm đầu của thời kì này, tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku có lúc không nhận được những đánh giá tích cực. Trong nghiên cứu“Tư tưởng luân lý Nhật Bản” (NXB Iwanami Shoten, 1952), Watsuji Tetsuro cho rằng, tư tưởng đạo đức thị dân của Baigan chịu sự quy định của võ sĩ đạo, không thể đóng vai trò là tư tưởng dẫn dắt thời đại thay thế cho võ sĩ đạo. Xét trong quá trình cận đại hóa Nhật Bản (quá trình đả phá chế độ Mạc phủ), Sekimon 5
- Shingaku cũng không thể nắm giữ vai trò tiên phong chủ đạo giống như các tư tưởng của thị dân ở các nước Châu Âu trong cuộc cách mạng tư sản [54, tr.609-624]. Tiếp nối lập trường này, Maruyama Masao với công trình“Nghiên cứu lịch sử tư tưởng chính trị Nhật Bản” (NXB Đại học Tokyo, 1952) còn khắt khe hơn khi cho rằng, Sekimon Shingaku không hề có giá trị lý luận của một học thuật, và chưa thoát ra khỏi địa hạt của những đạo đức bình dân thông tục [37, tr.146-147]. Tuy nhiên, những đánh giá dựa trên quan điểm lấy phương Tây làm qui chuẩn như vậy dần lu mờ. Thay vào đó, những nghiên cứu nhìn nhận lại nội dung cũng như giá trị của tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku đã xuất hiện. Năm 1971, Shibata Minoru đã xuất bản công trình“Sekimon Shingaku– hệ thống tư tưởng Nhật Bản 42” (NXB Iwanami Shoten, 1971) tổng kết các tác phẩm tiêu biểu của các học giả Sekimon Shingaku thời kì cận thế. Tác giả đã chỉ ra một cách khách quan những đặc điểm cũng như cả những hạn chế về mặt nội dung của Sekimon Shingaku ở mỗi học giả qua từng thời kì lịch sử. Vài năm sau đó, với công trình“Công cuộc cận đại hóa ở Nhật Bản và các tư tưởng đại chúng” (NXB Heibonsha, 1969), Yasumaru Yoshio đã có những phân tích hết sức sâu sắc về cấu trúc của các tư tưởng quần chúng trong đó có tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku. Đặc biệt, ông ghi nhận những ý nghĩa của các phong trào tư tưởng này, coi đó là một hình thái tư tưởng mang tính lịch sử, một hình thái cụ thể chất chứa những nỗ lực của quần chúng bình dân trong việc xây dựng con người với tư cách là một cá thể độc lập, cải biến bản thân ở một giai đoạn nhất định của lịch sử [55,tr.18]. Sự tự giác về đạo đức sống của con người thời kì cận thế cũng được xem như một trong những tiền đề của công cuộc cận đại hóa sau đó. Cũng trong khuynh hướng này, Sagara Toru với bài nghiên cứu “Tư tưởng của Ishida Baigan” (NXB Perikan, 1979) đã chỉ ra cả những ưu việt trong triết học thị dân của Baigan 6
- so với tư tưởng Võ sĩ đạo đương thời, khẳng định những quan niệm sống mới trong con người Nhật Bản do nền triết học đó mang lại. Từ những năm 1990 cho đến nay, bên cạnh những nghiên cứu trên phương diện lịch sử tư tưởng là những nghiên cứu trên phương diện lịch sử kinh tế. Tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku được xác lập vị trí trong lịch sử giáo dục thương nghiệp, và được xem là một trong những khởi nguồn của triết lí kinh doanh kiểu Nhật Bản. Những nghiên cứu tiêu biểu cho khuynh hướng này là: Komiyama Takayuki, “Những khảo sát về sự chuyển biến trong giáo dục thương nghiệp và đạo đức thương nghiệp ở Nhật Bản”, Tuyển tập luận văn Đại học Aichi Gakuin, Nghiên cứu thương học 47(1/2), 39-63, 2006-12-20 Morita Kenji, “Tư tưởng luân lý kinh tế trong tác phẩm “Đô bi vấn đáp” của Ishida Baigan – những khả năng và giới hạn trong thực tại”, Tuyển tập luận văn kinh tế Đại học Osaka Gakuin, 23(1), 55-78, 2009-06 Yoshida Kenichi, “So sánh tư tưởng Ishida Baigan và Inamori Kazuo – những ý nghĩa mang tính hiện đại trong tư tưởng của Ishida Baigan”, Kỉ yếu nghiên cứu Đại học Kagoshima (2), 2010 Watanabe Toru, “Sekimon Shingaku trong doanh nghiệp hiện đại: trường hợp của công ty cổ phần Hanbefu”, Tuyển tập luận văn thương nghiệp Học viện Kumamoto, 18(2), 59-81, 2014-03 Tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku không chỉ nhận được sự chú ý của các nhà nghiên cứu Nhật Bản mà còn nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở các nước phương Tây, và gần đây là các nước Đông Á trong đó có Trung Quốc và Hàn Quốc. Nhà nghiên cứu ở các nước này đề cao tư tưởng Ishida Baigan ở tinh thần cộng đồng, hòa hợp lợi ích song phương và đa phương khi giảng giải về việc mưu cầu lợi nhuận của thương nhân trong thời kì phong kiến. Tiêu biểu cho khuynh hướng này, phải kể đến công trình tập hợp các bài viết của các nhà nghiên cứu Trung – Nhật – Hàn trong cuốn “Con người của cộng đồng tập 7
- II, Ishida Baigan – nhà giáo dục thị dân và tư tưởng thực hành chí hướng thương nghiệp cộng đồng” (NXB Đại học Tokyo, 2011) 2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam Ở Việt Nam, nghiên cứu tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku còn là một vấn đề mới. Trong cuốn “Mấy vấn đề lịch sử Châu Á và Việt Nam” (NXB Văn hóa dân tộc, 2001), giáo sư Nguyễn Văn Hồng từng đưa ra “một lời giải ảo về sự thành công của Nhật Bản Duy Tân từ học thuyết thị dân của Ishida Baigan”. Tuy nhiên, bài viết mới chỉ dừng lại ở mặt ý tưởng mà chưa có những phân tích cụ thể về nội dung của tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku. Ngoài ra, Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku cũng chỉ được đề cập mang tính chất giới thiệu trong các tác phẩm giới thiệu về lịch sử Nhật Bản hay lịch sử tôn giáo tư tưởng Nhật Bản như cuốn “Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kì Tokugawa –Nguyên nhân và hệ quả” (NXB ĐH Quốc gia Hà Nội, 2000) của giáo sư Nguyễn Văn Kim, bản dịch cuốn “Lịch sử tôn giáo Nhật Bản” (NXB Thế giới, 2011) của giáo sư Sueki Fumihiko. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Từ lịch sử nghiên cứu có thể thấy, những khảo sát về tư tưởng của Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku đã được tiến hành không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Về nội dung, những công trình nghiên cứu này được triển khai trên ba bình diện chính là lịch sử giáo dục, lịch sử tư tưởng và lịch sử kinh tế. Tuy nhiên, dù ở bình diện nội dung nào, phạm vi thời gian và không gian nghiên cứu của các công trình trên thường chỉ dừng lại ở thời kì Edo. Không thể phủ nhận rằng, tư tưởng Ishida Baigan và sau đó là phong trào Sekimon Shingaku có những hạn chế mang tính thời đại, và từng bước suy yếu dần vào cuối thời kì 8
- Edo. Song, việc đề cao tư tưởng Ishida Baigan và quá trình phục hồi của phong trào Sekimon Shingaku sau Chiến tranh thế giới thứ 2 cho đến nay là một hiện tượng đáng lưu tâm. Chính vì thế, mục đích nghiên cứu của luận văn này là thông qua việc phân tích sự hình thành và phát triển của tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku từ trung kì Edo đến nay để chứng minh sức mạnh của những nền tảng phi vật chất đóng góp vào thành công của Nhật Bản. Với mục đích trên, luận văn sẽ triển khai ba nhiệm vụ chính. Thứ nhất, luận văn sẽ làm rõ thân thế và sự nghiệp của Ishida Baigan, phân tích để làm nổi bật những đặc trưng tư tưởng của ông. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đánh giá vị trí, vai trò của Ishida Baigan trong sự phát triển tư tưởng thời Edo nói riêng và Nhật Bản nói chung. Mặt khác, luận văn cũng sẽ cố gắng khái quát, lý giải nguyên do, cách thức tồn tại của tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku trong mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại theo một dòng chảy lịch sử gần như liên tục suốt từ trung kì Edo đến nay. 4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của luận văn Với mục đích nghiên cứu như trên, so với các công trình nghiên cứu đi trước, phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của luận văn sẽ được mở rộng từ trung kì Edo cho đến thời kì hiện đại, tức là khoảng những năm 1700 cho đến những năm 2000. Do những hạn chế về mặt tư liệu, trong phần khảo sát lịch sử Sekimon Shingaku từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay, phạm vi nghiên cứu về mặt không gian của luận văn được giới hạn ở trường hợp của tổ chức Sekimon Shingakkai (石門心学会, Thạch môn Tâm học hội) hoạt động từ thập niên 50 đến khoảng cuối thập niên 90 và trường hợp của tổ chức Sekimon Shingaku Jissen Koza (石門心学実践講座, Lớp thực hành Thạch môn Tâm học) bắt đầu hoạt động từ năm 2014 đều có trụ sở chính tại Tokyo. 9
- 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn Trong khuôn khổ một luận văn về lịch sử tư tưởng, tác giả chủ yếu sử dụng các phương pháp chính của khoa học lịch sử bao gồm phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp nghiên cứu thực chứng dựa trên sử liệu đương thời, các phương pháp lịch sử và logic, lịch đại - đồng đại nhằm miêu tả, phân tích, lý giải sự hình thành và phát triển của một tư tưởng, phong trào giáo hóa xã hội. Bên cạnh đó, các phương pháp thống kê miêu tả cũng được vận dụng giúp cho việc phân tích nội dung trở nên dễ hiểu và thuyết phục hơn. Hơn nữa, đối tượng nghiên cứu của luận văn còn là mảng lịch sử Sekimon Shingaku trong những năm 2000. Chính vì vậy, ngoài các phương pháp nghiên cứu thường dùng trong khoa học lịch sử, tác giả còn vận dụng phương pháp phỏng vấn sâu của Xã hội học để thu thập những thông tin cập nhật và khách quan góp phần miêu tả chính xác diện mạo của việc tiếp nhận Sekimon Shingaku trong thời kì hiện đại. 6. Những đóng góp mới của luận văn Đối với việc nghiên cứu tôn giáo và tư tưởng ở Việt Nam, luận văn góp phần giới thiệu một cách cơ bản nhất tư tưởng Ishida Baigan và phong trào Sekimon Shingaku từ trung kì Edo đến nay. Đối với việc nghiên cứu Sekimon Shingaku nói chung, luận văn cố gắng miêu tả một cách chi tiết hơn khuynh hướng đề cao tư tưởng Ishida Baigan và sự phục hồi của Sekimon Shingaku sau Chiến tranh thế giới thứ 2 bằng nguồn tài liệu của Sekimon Shingakkai (石門心学会, Thạch môn Tâm học hội) gần như chưa từng được khai thác nghiên cứu từ trước đến nay ở Việt Nam. Ngoài ra, bằng những phân tích dựa trên các tài liệu phỏng vấn sâu, luận văn có đóng góp trong việc miêu tả diện mạo của sự tiếp nhận cũng như những giá trị của Sekimon Shingaku trong thời kì hiện đại. Trên cơ sở đó, đóng góp 10
- mới của luận văn là nêu bật cái nhìn xuyên suốt về tư tưởng Tâm học từ Baigan cho đến hiện nay, đi sâu vào lý giải sức sống của tư tưởng này trong đời sống xã hội Nhật Bản, tạo ra một cái nhìn mới trong cách giải thích sự chuyển đổi của các giá trị tư tưởng từ truyền thống đến hiện đại. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia làm 3 chương. Chƣơng 1: Ishida Baigan – Con ngƣời và thời đại Ở chương này người viết sẽ phân tích bối cảnh thời đại và thân thế sự nghiệp của Ishida Baigan như những thành tố có ảnh hưởng đến sự hình thành nội dung cũng như những đặc trưng trong tư tưởng của Ishida Baigan. Chƣơng 2: Chất liệu và nội dung tƣ tƣởng Ishida Baigan Ở chương này, người viết thống kê số lượng trích dẫn trong các trước tác để thấy được chất liệu và sự biến đổi trong việc sử dụng chất liệu để biểu đạt tư tưởng của Ishida Baigan. Tiếp theo, người viết cố gắng phân tích những nội dung cơ bản nhất trong tư tưởng của Ishida Baigan từ thế giới quan về Đạo và Tâm đến nhân sinh quan với các quan điểm về học vấn, thực hành chức nghiệp trong đời sống với trung tâm là Đạo của thương nhân, và sự thực hành các đạo đức thông tục. Chƣơng 3: Sự phát triển của phong trào Sekimon Shingaku từ sau thời kì của Baigan cho đến nay Ở chương này, người viết khái quát sự hình thành và phát triển của phong trào Sekimon Shingaku từ tư tưởng của Ishida Baigan trong thời kì Edo. Trên cơ sở tổng hợp các nguồn tư liệu mới, người viết cố gắng phác họa quá trình phục hồi của Sekimon Shingaku sau Chiến tranh thế giới thứ 2 và những chuyển biến mới trong thời kì hiện nay. 11
- 12
- CHƢƠNG 1: ISHIDA BAIGAN – CON NGƢỜI VÀ THỜI ĐẠI 1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Nhật Bản thế kỉ XVII-XVIII 1.1.1. Bối cảnh kinh tế Năm Keicho thứ 8 (1603), tướng quân Tokugawa Ieyasu thiết lập Mạc phủ tại Edo. Sự kiện này đã đánh dấu chấm hết cho một thời kì chiến loạn liên miên trước đó, đồng thời mở ra một thời kì hòa bình lâu dài hiếm có trong lịch sử Nhật Bản và thế giới. Dưới nền hòa bình, chính trị ổn định với vai trò đứng đầu của Mạc phủ Tokugawa, kinh tế Nhật Bản thời kỳ này đã có những bước phát triển lớn. Có thể nói, thế kỉ XVII là thế kỉ của những cuộc đại khai khẩn. “Diện tích đất canh tác mở rộng gấp đôi từ 1.640.000 ha năm 1600 lên 2.970.000 ha năm 1720. Nhờ những cải tiến trong nông nghiệp, các giống lúa, giống cây lương thực, cây công nghiệp được chọn lọc, tăng năng suất nhằm đảm bảo cho đời sống của người dân và cung cấp cho các hoạt động sản xuất thủ công nghiệp” [4, tr.207]. Bên cạnh nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp cũng có đầy đủ những điều kiện thuận lợi để phát triển hơn so với những giai đoạn trước đó. Yếu tố đầu tiên phải kể đến là sự gia tăng số lượng các jokamachi1 và sự tập trung một lực lượng đông đảo võ sĩ tại đây theo chính sách “Binh nông phân ly”. Họ chính là tầng lớp tiêu dùng – phi sản xuất [50, tr.102]. Ngoài cuộc sống tại jokamachi, lãnh chúa và gia thần các phiên cũng cần đến các khoản tiền để trang trải cuộc sống tại Edo theo chính sách luân phiên trình diện. Các lãnh chúa buộc phải bán hoặc thế chấp lúa gạo và các sản vật để quy đổi lấy tiền thông qua các thương nhân chủ yếu tại các đô thị lớn như Edo, Osaka. Điều này giúp thúc đẩy hình thành một mạng lưới giao 1 Jokamachi (城下町): là khu vực bao bọc xung quanh thành lũy của các lãnh chúa phong kiến. Khu vực này được các lãnh chúa tập trung phát triển từ cuối thời trung thế theo chính sách “Phú quốc cường binh”. Sang thời kì Cận thế, để đảm bảo an ninh, kiểm soát và huấn luyện, lực lượng võ sĩ dưới quyền lãnh chúa được huy động tập trung sinh sống tại đây. 13
- thông để chuyên chở vật phẩm, cũng như hệ thống kho bãi để bảo quản, các chợ để tiêu thụ và phân phối vật phẩm trên phạm vi toàn quốc. Như vậy, dưới thể chế Mạc phiên không chỉ tồn tại nền kinh tế nông nghiệp bó hẹp trong các lãnh địa mà chính thể chế đó đã tạo ra và dần dần cũng chịu tác động của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ trên quy mô toàn quốc. 1.1.2. Bối cảnh xã hội Song song với quá trình xác lập vai trò thống trị của mình, Mạc phủ đã xây dựng một xã hội mới trên nền tảng của chế độ đẳng cấp đã có từ thời kì trước đó. Võ sĩ ở vị trí trung tâm trong tầng lớp thống trị, nắm quyền chính trị, và được hưởng nhiều đặc quyền. Trong khi đó, nông dân, thợ thủ công và thương nhân là những đẳng cấp chính trong tầng lớp bị trị, với nhiều quyền lợi bị hạn chế. Do những ảnh hưởng của Nho giáo, quan niệm “sĩ – nông – công – thương” đã xuất hiện để nói về trật tự xã hội đầu thời kì Edo. Trong quan niệm này, vai trò của thương nhân và các hoạt động thương nghiệp phần nào bị đánh giá thấp. Tuy nhiên, sự thay đổi của nền kinh tế nhanh chóng đưa tới những biến đổi trong xã hội, diễn ra trong từng đẳng cấp. Do những khó khăn về kinh tế, võ sĩ ngày một phải nhún mình trước thị dân. Dazai Shundai (太宰春台, 1680-1747), một Nho gia đương thời từng miêu tả cảnh chư hầu từ lớn đến nhỏ vì muốn trang trải cuộc sống qua ngày nên đã nhún mình, xin vay thị dân, nhờ vả sự giúp đỡ của những hào thương ở Kyoto, Osaka, Edo [22, tr. 27]. Tương phản với sự bần cùng của võ sĩ là sự vươn lên của thị dân cả về kinh tế và địa vị xã hội. Điều này được phản ánh rõ nét qua lời miêu tả của Nishikawa Joken (西川如見, 1648-1724) – một thị dân ở Nagasaki như sau: “Trong tứ dân (sĩ, nông, công, thương), công và thương còn được gọi là thị 14
- dân (町人). Từ xa xưa, thị dân vốn “ngồi dưới” nông dân. Nhưng không biết từ bao giờ, thiên hạ này chuyển sang dùng vàng bạc, và thị dân trở thành chủ nhân của vàng bạc, tài sản trong thiên hạ, được diện kiến trước quý nhân, nên có thể nói là tư cách như đã ở trên cả nông dân vậy. Sau một trăm năm nhờ sống trong cảnh thái bình thịnh trị, từ giới thị dân đã xuất hiện nhiều nhà Nho, thầy thuốc, những người am hiểu thơ ca, trà đạo…”[50, tr. 115]. Kinh tế hàng hóa tiền tệ không chỉ phát triển ở vùng đô thị, mà còn xâm nhập vào các vùng nông thôn ven các đô thị lớn. Theo đó, sự hưng thịnh và suy vong của các dòng tộc nơi đây không thể tránh khỏi những tác động của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ đó. Điều này được phản ánh rõ nét trong tác phẩm “Ghi chép của Kawachiya Kasho (『河内屋家正旧記』) do Kasho – một địa chủ có nghề nấu rượu sống tại xứ Kawachi (nay thuộc vùng Osaka) viết trong những năm Genroku – Hoei (1690-1710). Kasho đã thuật lại những điều mắt thấy tai nghe và những trải nghiệm thực tế của riêng mình, nên thông qua những ghi chép của ông, người đọc có thể hiểu được về đời sống sinh hoạt, văn hóa đương thời. Trong cuốn truyện ký, Kasho đã kể về nhiều trường hợp gia đình trước nay hưng thịnh, nhưng đột nhiên phá sản. Những nhà ở Kyoto, Osaka cách đây ba bốn mươi năm còn là những đại thương gia giàu có, thì nay cứ “mười nhà thì bảy, tám nhà” phá sản [22, tr. 27]. Có những nhà phá sản trắng tay, con cháu phải đổ ra các đô thị lớn như Osaka, Sakai sinh sống, hình thành nên tầng lớp dân nghèo tại đó. Đối với con người thời kì Edo, khi việc duy trì gia nghiệp là nhiệm vụ sống còn thì hiện tượng phá sản trên không khỏi mang tới những nỗi hoang mang, lo sợ. Nỗi lo sợ đó thể hiện trong tâm trạng của Kasho trong lời nhắn nhủ lại con cháu: “Nhà dù giàu có đến đâu cũng không quá ba đời”, “không có gì mong manh, bất định như đời người”[55, tr.26]. Trước những biến động kinh tế – xã hội như trên, tướng quân đời thứ 10 15
- Tokugawa Yoshimune đã tiến hành cuộc cải cách Kyoho (từ năm 1717) để giải quyết những khó khăn về tài chính và ổn định trật tự xã hội. Với những chính sách cắt giảm chi tiêu, giảm thời hạn nghĩa vụ luân phiên trình diện của các lãnh chúa thay bằng niên cống, cuộc cải cách về căn bản đã giải quyết được khó khăn cho võ sĩ. Tuy nhiên, ngược lại, những chính sách này lại làm gia tăng gánh nặng sưu thuế lên tầng lớp nông dân và đưa tới một thời kì đình trệ, đầy thử thách cho thương nhân [47, tr.457]. Trước những biến động kinh tế – xã hội, khi những chính sách của Mạc phủ chỉ giúp bảo vệ lợi ích của giai cấp họ, thì những người dân bình thường bị đẩy đến bước đường phải tự mình tìm kiếm những phương cách, những điểm tựa tinh thần để có thể vượt qua thời kì khó khăn, thử thách. 1.2. Sự giải phóng của tri thức và bung nở của các trào lƣu tƣ tƣởng có nguồn gốc từ Nho giáo 1.2.1. Sự phát triển của tri thức và học thuật thời Edo Trong thời kì trung thế của Nhật Bản, với những cuộc chiến tranh loạn lạc, con người luôn bị ám ảnh, sợ hãi bởi những sức mạnh ma quái, những linh lực vô hình, không tên vượt qua nhận thức của con người. Con người gửi gắm vào văn học và mỹ thuật không gì khác là những sợ hãi, trấn an, những ước nguyện nơi thần phật để sống sót qua thời kì đen tối. Tuy nhiên, bước sang thời kì cận thế, khi loạn lạc chấm dứt, con người có thể hiện thực hóa việc “an cư lạc nghiệp” thì điều họ quan tâm hơn hết là những vấn đề của đời sống hiện thế, cụ thể như việc trau dồi nghề nghiệp để mưu sinh, những phương cách để duy trì và phát triển gia nghiệp hay đơn giản là để tiêu khiển lúc nhàn rỗi. Từ đó, họ nhận ra một điều rằng, tri thức là thứ hữu dụng, cần thiết với con người chứ không phải là tôn giáo. Đó có thể xem là một nguyên nhân lí giải cho việc con người thời kì này khát khao tầm cứu tri thức ngay cả khi chúng không thể giúp họ thay đổi thân phận, thăng tiến bằng khoa cử như ở 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống xã hội Trung Quốc thời Tùy - Đường
114 p | 67 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Sông Nile với đời sống Vật chất và tinh thần của người Ai Cập cổ đại
107 p | 95 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Chính sách của các nước lớn ( Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc) đối với bán đảo Triều Tiên từ khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay
148 p | 83 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ đối với kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Trung Quốc
136 p | 75 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Chiến lược đối với khu vực Đông Nam Á của Ấn Độ qua chính sách Hành động phía Đông của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi
109 p | 46 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Cải cách kinh tế - Xã hội Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai và vai trò của Mỹ
102 p | 63 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Chế độ an sinh xã hội ở nông thôn Trung Quốc từ 1978 đến 2018
97 p | 43 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Thực tiễn quá trình tái hình thành cộng đồng cư dân tại vùng Đông Bắc Nhật Bản sau thảm họa kép tháng 3 năm 2011
125 p | 40 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Thánh đường Islam thời kỳ 909-1517 (tại Ai Cập, Ả-Rập Xê-Út, Iran và Syria)
109 p | 55 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Công ước Cedaw và phong trào phụ nữ Ai Cập thế kỷ XX
115 p | 28 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Hợp tác phát triển du lịch tiểu vùng sông Mekong giai đoạn 1990-2020
120 p | 28 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Tiêu dùng phô trương trong xã hội tiêu thụ Nhật Bản
98 p | 40 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Phong trào đấu tranh đòi quyền tham chính của phụ nữ ở Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến nay
112 p | 48 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Thực trạng giáo dục và việc làm đối với nữ giới ở các quốc gia vùng Vịnh
103 p | 30 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Isson-Ippin và vai trò trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn Nhật Bản giai đoạn 1980-2000
134 p | 24 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Mô hình tăng trưởng hướng ra xuất khẩu của Trung Quốc giai đoạn 2001 - 2011
144 p | 39 | 4
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Châu Á học: Isson-Ippin và vai trò trong phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn Nhật Bản giai đoạn 1980-2000
16 p | 36 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn