intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở đồng bằng Sông Cửu Long

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:114

126
lượt xem
27
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở đồng bằng Sông Cửu Long tìm hiểu, phân tích mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục; đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người cũng như để đạt được mối tương thích cao hơn trong giai đoạn tới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở đồng bằng Sông Cửu Long

  1. THƯ VIỆN BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Mai Phương MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA CÁC CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI, PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Chuyên ngành: Địa lý học (trừ Địa lý tự nhiên) Mã số: 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG VĂN PHAN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  2. LỜI CẢM ƠN  Tác giả luận văn xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ - sau đại học, Ban Chủ nhiệm khoa Địa lí và Quý Thầy cô giảng dạy các chuyên đề trong suốt niên khoá 2006-2009 vừa qua.  Tác giả gửi lời biết ơn cảm động đến với PGS.TS. Đặng Quốc Bảo đã gửi tặng những tài liệu hết sức quý báu.  Xin được bày tỏ lòng biết ơn vô cùng sâu sắc đến Thầy hướng dẫn trực tiếp PGS.TS. Đặng Văn Phan đã luôn theo sát và tận tình hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.  Xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo và các đồng nghiệp Trung tâm Nghiên cứu kinh tế miền Nam – Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và đầu tư đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả hoàn thành luận văn.  Cũng không quên gửi lời cảm ơn đến các cơ quan, ban ngành đã cung cấp, hỗ trợ về mặt tư liệu, số liệu; đặc biệt là Trung tâm Thông tin và dự báo KT- XH Quốc gia tại Tp.HCM thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư.  Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đến với gia đình, các bạn học K17 cũng như bạn bè xa gần khác đã dành những lời động viên khích lệ, những cảm thông, sẻ chia trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn! Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009 Tác giả Nguyễn Thị Mai Phương
  3. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BCHTƯ: Ban Chấp hành Trung ương CD (Compact Disc): Đĩa CD ĐBSCL: Đồng bằng Sông Cửu Long ĐBSH: Đồng bằng Sông Hồng HDI (Human Development Index): Chỉ số phát triển con người HDR (Human Development Report): Báo cáo phát triển con người GDP (Gross Domestic Product): Tổng sản phẩm trong nước GDP/người: Tổng sản phẩm trong nước bình quân trên đầu người MDG (Millennium Development Goals): Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ PPP (Purchasing Power Parity): Sức mua tương đương UNDP (United Nations Development Programme): Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc WB (World Bank): Ngân hàng Thế giới
  4. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại ngày nay, lợi thế phát triển của thế giới không chỉ là điều kiện tự nhiên hay nguồn lực tài chính, thay vào đó là con người và trí tuệ con người. Thực tiễn cho thấy, từ phương diện đầu tư cho phát triển thì việc đầu tư vào yếu tố con người, không ngừng nâng cao vốn con người được coi là đầu tư có hiệu quả nhất. Kinh nghiệm một số quốc gia phát triển khẳng định chiến lược ưu tiên đầu tư có định hướng cho con người thông qua việc đẩy mạnh chi tiêu một số lĩnh vực xã hội: giáo dục, y tế, an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo… đã làm nên những bước tiến thần kỳ trong tăng trưởng kinh tế và đổi mới xã hội. Năm 1990, Báo cáo phát triển con người UNDP đã đưa ra một phương pháp, một cách tiếp cận theo những tiêu chí mới trong việc đánh giá sự phát triển con người thông qua chỉ số HDI. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước ta, phát triển con người một cách toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt trong mọi chính sách của Đảng và Nhà nước. Đại hội Đảng lần thứ IX, tháng 4 năm 2001, đã xác định một trong những mục tiêu cụ thể của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 là: “Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta”. [I, tr.160]. Điều đặc biệt là lần đầu tiên chỉ số phát triển con người HDI đã cùng những chỉ tiêu tăng GDP trở thành mục tiêu chiến lược của cả đất nước, cả dân tộc. Để thực hiện được mục tiêu đó, xem xét, phân tích mối tương quan giữa hai chỉ số HDI và GDP là rất cần thiết cho việc xác định ưu tiên và tiến độ thực hiện thích hợp. Ngoài ra, giáo dục là một trong những nhân tố quan trọng trong việc hình thành chỉ số phát triển con người. Chỉ số phát triển giáo dục phản ánh trạng thái phát triển giáo dục trong mối quan hệ với các khía cạnh của phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên cứu mối tương quan giữa chỉ số giáo dục và chỉ số phát triển con người, cũng như giữa chỉ số phát triển giáo dục và chỉ số phát triển kinh tế nhằm phản ánh giáo dục là mục tiêu của quá trình phát triển. Giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long vẫn nằm ở vị trí thấp nhất trong bản đồ giáo dục cả nước. Chỉ số phát triển con người HDI của các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu
  5. 2 Long chủ yếu ở nhóm trung bình. Tăng trưởng GDP luôn cao hơn mức trung bình cả nước. Và như vậy, tìm hiểu mối tương quan giữa chỉ số phát triển con người, chỉ số phát triển kinh tế và chỉ số phát triển giáo dục để tìm hiểu có sự nghịch lý hay không. Từ đó đưa ra những kiến nghị, định hướng phát triển kinh tế - xã hội một cách hợp lý nhất trong giai đoạn tới nhằm làm cho người dân đồng bằng được hưởng thụ cuộc sống hạnh phúc và bền vững hơn. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích Tìm hiểu, củng cố những lí luận về quan niệm phát triển con người và vai trò của chỉ số phát triển con người HDI cũng như các chỉ tiêu thành phần của chỉ số HDI. Nghiên cứu, đánh giá thực trạng phát triển chỉ số phát triển con người ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tìm hiểu, phân tích mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục. Đề xuất một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người cũng như để đạt được mối tương thích cao hơn trong giai đoạn tới. 2.2. Nhiệm vụ Cung cấp được các kiến thức nền tảng về chỉ số HDI; tạo ra được sự thống nhất về cơ sở phương pháp luận cho việc tính chỉ số HDI áp dụng ở Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng Sông Cửu Long nói riêng. Tính toán, đánh giá và so sánh hiện trạng phát triển các chỉ số ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long với các vùng khác và cả nước. Đánh giá mối tương quan qua lại giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục với các vấn đề đặt ra: + Mức độ tương thích của các chỉ số này; + Ý nghĩa của mỗi chỉ số vào đóng góp tăng lên của HDI; + Sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau theo chiều thuận hay nghịch; + Những nhận xét, quan điểm, kiến nghị nào được đưa ra… 3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
  6. 3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là những chỉ số phát triển con người HDI; chỉ số tăng trưởng kinh tế mà đại diện là chỉ tiêu GDP, GDP/người và chỉ số phát triển giáo dục… trên phạm vi 13 tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Đề tài nghiên cứu với nguồn dữ liệu cơ bản là năm 1999 và 2004, dựa trên Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001 và 2006 điều tra đến từng tỉnh thành phố của cả nước. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng nguồn số liệu từ Niên giám thống kê hàng năm của các tỉnh, thành phố Đồng bằng Sông Cửu Long. Dựa trên số liệu gộp với các quan sát là 13 tỉnh, thành phố Đồng bằng Sông Cửu Long trong giai đoạn 1999-2004, đề tài áp dụng hàm Forecast để mở rộng nghiên cứu mối tương quan giữa các chỉ số đến năm 2007. 4. Hệ thống quan điểm và phương pháp nghiên cứu 4.1. Hệ thống quan điểm - Quan điểm tổng hợp lãnh thổ: Đây là quan điểm cơ bản, truyền thống và được xem là đặc trưng của Địa lý học. Đó là khi xem xét các sự vật hiện tượng địa lý phải đặt chúng trong mối quan hệ về không gian. Quan điểm này luôn chiếm được sự đồng thuận cao bởi trong thực tế các sự vật và hiện tượng địa lý luôn luôn có sự phân hóa về mặt không gian, làm cho chúng có sự khác biệt giữa nơi này với nơi khác. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luôn đặt các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trong mối quan hệ không gian của vùng và của vùng với các vùng khác trong cả nước để so sánh và đánh giá. - Quan điểm hệ thống: Con người và sự phát triển con người, cũng như các quá trình vận động, phát triển kinh tế - xã hội không phải là một quá trình đơn lẻ, độc lập mà còn gắn kết với các quá trình vận động tự nhiên, xã hội khác. Chúng là bộ phận cấu thành của hệ thống kinh tế - xã hội hoàn chỉnh, luôn luôn vận động và phát triển không ngừng, do đó, phải xem xét trên quan điểm hệ thống. - Quan điểm lịch sử - viễn cảnh: Các sự vật hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển của mình không chỉ biến đổi về mặt không gian mà còn có sự thay đổi theo thời gian. Đặc biệt là vấn đề con người luôn có sự đa dạng và biến đổi phức tạp. Sự phát triển con người từ quan niệm, nhận thức, bản chất, thái độ đối xử... với vấn đề
  7. 4 này trong quá khứ luôn có sự ảnh hưởng nhất định đến quá trình đánh giá trong hiện tại và tương lai. Do đó, việc nghiên cứu đề tài luôn được xem xét trong mối liên hệ quá khứ - hiện tại – tương lai để làm rõ hơn bản chất của vấn đề theo thời gian, đảm bảo được tính logic, khoa học và chính xác. - Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững: Quá trình phát triển của con người luôn chịu ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài. Đồng thời con người cũng có những tác động làm biến đổi môi trường xung quanh. Để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của con người trong quá trình phát triển của mình cần phải quán triệt quan điểm sinh thái và phát triển bền vững khi nghiên cứu vấn đề. Phát triển con người phải đi đôi với phát triển kinh tế, công bằng xã hội và phát triển môi trường bền vững, mục đích cuối cùng là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. 4.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Đây là một phương pháp rất quan trọng trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài. Trên cơ sở sưu tầm nhiều nguồn tài liệu khác nhau, chúng ta tiến hành chọn lọc và xử lý nguồn thông tin, số liệu đáng tin cậy nhất phục vụ hiệu quả cho đề tài. - Phương pháp phân tích – tổng hợp: dựa trên việc phân tích nguồn tài liệu đã có cũng như những nhận định quan sát từ thực tế, chúng ta mới có cái nhìn toàn diện về vấn đề nghiên cứu. Từ đó, rút ra được những nội dung tổng hợp nhất, đầy đủ nhất đáp ứng được những nhiệm vụ và mục tiêu mà vấn đề đặt ra. - Phương pháp bản đồ - biểu đồ: Đây là phương pháp đặc trưng của khoa học Địa lí. Sử dụng phương pháp này giúp cho các vấn đề nghiên cứu được cụ thể, trực quan và toàn diện hơn. Các bản đồ trong đề tài được thành lập bằng phần mềm Mapinfo 7.5, dựa trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập và xử lý. Ngoài ra, đề tài còn thể hiện các mối quan hệ địa lí thông qua hệ thống bảng số liệu và biểu đồ. - Phương pháp khảo sát: là phương pháp cần thiết để tăng thêm độ tin cậy của các nguồn tài liệu thu thập và tính khách quan cho đề tài. - Phương pháp lượng hoá: làm tăng tính định lượng trong khi lập luận nghiên cứu các sự vật, hiện tượng địa lý, sẽ làm giảm đi sự suy đoán định tính.
  8. 5 - Phương pháp dự báo: Đề tài sử dụng phương pháp dự báo dựa trên cơ sở tính toán từ các số liệu đã thu thập được và sự phát triển có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng trong quá khứ, hiện tại và tương lai. - Phương pháp chuyên gia: trong quá trình thực hiện đề tài, để đảm bảo tính khoa học và đưa ra được những dự báo chính xác, hợp lí... cần phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia, những nhà nghiên cứu về con người, nguồn nhân lực, về kinh tế học giáo dục... 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa và mang tính thực tiễn, tính nhân văn cao, vì các lý do sau: - Giải thích một cách khoa học mức đóng góp của tăng trưởng kinh tế vào việc tăng lên của chỉ số HDI; cũng như biểu đạt phần đóng góp của nhân tố giáo dục vào chỉ số HDI. Sự đóng góp là hợp lý hay không; - Nhận định được tiềm năng của giáo dục có thể tác động vào sự gia tăng của thu nhập kinh tế; - Tạo một cơ sở lý luận khoa học vững chắc để giải quyết các vấn đề này. Có những biện pháp thúc đẩy, tăng cường nhằm nâng cao chỉ số HDI trong tương lai, làm cho cuộc sống mọi người dân tốt đẹp hơn. - Có thể làm tài liệu tham khảo cho các cấp, các ngành chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; trong nghiên cứu khoa học, giảng dạy… 6. Cấu trúc của luận văn Mở đầu Chương 1: Cơ sở lí luận Chương 2: Mối tương quan giữa các chỉ số phát triển con người, phát triển kinh tế và phát triển giáo dục ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Chương 3: Một số định hướng cơ bản nhằm nâng cao chỉ số phát triển con người ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Kết luận
  9. 6 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. QUAN NIỆM VỀ PHÁT TRIỂN Từ bản chất sinh học của mình, con người khi được sinh ra đã luôn khiếp sợ cái đói. Khi đã chế ngự được phần nào cái đói, con người lại luôn bị ám ảnh bởi cái nghèo. Có thể nói nghèo đói luôn là kẻ thù rình rập con người suốt lịch sử phát triển của mình cho đến hôm nay. Và đến tận năm 2015, người ta tính rằng dù có giảm được một nửa số người trên thế giới sống dưới mức 1 USD/ngày thì vẫn còn khoảng 900 triệu người ở các nước đang phát triển còn phải sống trong cảnh vô cùng nghèo khó 1. Chính vì lẽ đó mà từ hàng ngàn năm nay, con người và cả xã hội luôn lấy sự giàu có làm mục tiêu phấn đấu. 1.1.1. Quan niệm phát triển kinh tế Trong chiến lược phát triển của mình, các chính phủ đã từng lấy việc mở rộng năng lực sản xuất của cải vật chất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu. Tăng trưởng kinh tế không chỉ được xem là chìa khóa của sự phát triển mà còn bị đánh đồng với tiến bộ xã hội. Nhằm lượng hóa sự phát triển này, các khái niệm tổng sản phẩm quốc gia (GNP – Gross National Product) hoặc tổng sản phẩm trong nước (GDP – Gross Domestic Product) trên đầu người đã ra đời vào những năm 60 của thế kỷ 20. Trong bất cứ kế hoạch phát triển quốc gia nào, chỉ số GDP/người cũng được tính toán kỹ càng nhất và được đưa lên hàng đầu. Trên trường quốc tế, chỉ số trên đã sớm trở thành tiêu chí duy nhất để phân loại các quốc gia, xếp quốc gia này vào nhóm nước đã phát triển hay xếp quốc gia kia vào nhóm nước đang phát triển. Bất bình đẳng xã hội, sự nghèo khó cùng cực của một bộ phận dân cư, sự xuống cấp của môi trường tự nhiên và xã hội… tất cả đều được chấp nhận như là cái giá phải trả cho sự phát triển, nói cho chính xác hơn là trả cho sự tăng trưởng. Tuy nhiên thực tế cho thấy tại nhiều quốc gia, GDP/người tăng nhưng thất nghiệp và nghèo đói cùng cực cũng tăng theo hoặc không giảm; khoa 1 Báo cáo phát triển con người 2001 – Đổi mới vì sự phát triển con người. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, trang 28.
  10. 7 học kỹ thuật phát triển giúp con người bay lên cung trăng nhưng tỷ lệ người mù chữ, người không có nước sạch, người không được hưởng các dịch vụ y tế tối thiểu cũng tăng; vệ tinh truyền hình biến thế giới thành “ngôi làng” nhưng phần lớn cư dân lại đói thông tin và bị tước mất cơ hội để phát triển;… Truớc những nghịch lý trên, quan niệm rằng cứ tăng thu nhập đầu người là có thể đem lại sự phồn vinh cho quốc gia đã sụp đổ. Hơn nữa, một quốc gia có GDP/người cao chưa hẳn là xây dựng được một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh – một ước mơ từ ngàn năm của loài người. Người ta nhận ra rằng thật là nông cạn và phiến diện khi đo trình độ phát triển của một xã hội mà chỉ dùng tiêu chí là GDP/người, tỷ lệ tăng GDP hàng năm hay các chỉ tiêu về của cải tiện nghi vật chất. Đến những năm 70, người ta chuyển sang quan niệm tăng trưởng phải có phát triển, hiểu là tăng trưởng nguồn thu nhập kinh tế phải kéo theo những biến đổi tích cực trong đời sống xã hội và đời sống con người, cả vật chất lẫn tinh thần. Vấn đề tăng trưởng kinh tế được gắn với vấn đề phát triển văn hóa – xã hội, phát triển con người. Từ đó, phát triển bền vững dần trở thành tư tưởng trung tâm trong nhận thức về phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển bền vững không chỉ là phát triển kinh tế, tăng nguồn vốn, đó còn là bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên của trái đất mà thế hệ chúng ta đang “vay” của thế hệ sau, đó còn là bảo vệ sự đồng thuận của cộng đồng trong việc định hướng và chia sẽ những giá trị xã hội, bảo vệ sự ổn định xã hội. Việc nhân loại chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng sang mô hình phát triển bền vững đòi hỏi trước hết phải có những nhận thức mới, sâu sắc hơn về phát triển và sau đó hình thành những công cụ đo đạc mới, sử dụng tiêu chí mới, khắc phục được tính phiến diện của tiêu chí tăng trưởng GDP/người. Nhà kinh tế Theodor Schoultz (giải thưởng Nobel kinh tế 1979), người đã đưa ra khái niệm vốn con người (Human Capital), quan niệm rằng nền kinh tế của mỗi nước tồn tại và phát triển vừa nhờ vốn vật chất – tư bản vật chất – như tài nguyên, đất đai, vừa nhờ vốn con người. Môn phái của Schoultz cho rằng sự đầu tư vào giáo dục sẽ tạo ra vốn con người và loại tư bản này cũng giá trị chẳng kém tư bản vật chất. Nhờ giáo dục mà con người thành chủ sở hữu của hai nhân tố: lao động sống
  11. 8 (chủ yếu là năng lực thể chất) và tư bản người (vốn con người) là năng lực trí tuệ của mỗi cá nhân. Mỗi nhân tố này tạo ra phần nhất định trong thu nhập cá nhân. Trong hai nhân tố này thì năng lực trí tuệ là quan trọng nhất. Người ta đã cố gắng đưa ra một hàm số biểu thị sự tăng trưởng kinh tế như sau: Q = F (K, L, H, A) trong đó: K là vốn vật chất (Capital) L là lực lượng lao động (Labour Force) H là vốn con người (Human Capital) A là nhân tố tổng hợp gồm thông tin, tri thức, vốn xã hội (mức độ đoàn kết xã hội, tinh thần sẵn sàng hành động – những yếu tố tạo ra sức mạnh tổng hợp trong quan hệ giữa nhà nước với công dân) và vốn tổ chức (được đặc trưng bằng các luật lệ, quy chế hoạt động). Đến thập kỷ 80 ra đời khái niệm nguồn lực con người (Human Resource). Nguồn lực con người được quan niệm là tổng thể tiềm năng lao động của một đất nước, một cộng đồng, gồm cả dân số trong và ngoài “độ tuổi lao động”. Nguồn nhân lực cần được quản lý, chăm sóc và phát triển từ tuổi ấu thơ, tuổi vị thành niên, tuổi lao động và cả sau tuổi lao động. Phát triển nguồn nhân lực không chỉ là phát triển thể lực (sức người) và trí lực (vốn người) mà là sự phát triển toàn diện thể lực, trí lực, tâm lực, thái độ sống và lao động, hiệu quả lao động. Muốn phát triển nguồn lực con người mạnh mẽ, cần chú ý 5 yếu tố: - Giáo dục và đào tạo - Sức khỏe và dinh dưỡng - Môi trường - Việc làm - Tự do chính trị và kinh tế Trong 5 yếu tố này thì giáo dục và đào tạo là quan trọng nhất. 1.1.2. Quan niệm phát triển con người Năm 1990, lần đầu tiên một cách hiểu mới về phát triển được công bố trong báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Báo cáo phát triển
  12. 9 con người (Human Development Report-HDR). Báo cáo đã được mở đầu bằng đoạn sau: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra môi trường thuận lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống lâu dài, mạnh khỏe và sáng tạo. Chân lý đơn giản này rất hay bị người ta quên mất trong lúc theo đuổi của cải vật chất và tài chính” 2. Lời mở đầu này đã chính thức tuyên chiến với quan niệm lạc hậu về phát triển đã ngự trị suốt một thời gian dài và đưa con người từ vị trí là một nhân tố sản xuất góp phần làm tăng trưởng kinh tế, là một động lực kinh tế hướng đến vị trí con người là trung tâm - vừa là động lực vừa là mục tiêu đích thực của phát triển. 1.1.2.1. Triết lý con người là trung tâm của UNDP Theo UNDP, mục tiêu của phát triển không chỉ là phát triển kinh tế hoặc xã hội mà chính là phát triển con người. Lịch sử đã ghi nhận những trường hợp có phát triển trong kinh tế nhưng không có phát triển xã hội hoặc tưởng rằng có phát triển xã hội nhưng con người lại bị gạt ra bên lề của sự phát triển đó. Quan niệm phát triển con người có 5 đặc trưng cơ bản: - Một là đặt con người ở trung tâm sự phát triển; - Hai là con người không chỉ là phương diện mà là mục tiêu của phát triển; - Ba là nâng cao vị thế của người dân từ chỗ chỉ là đối tượng hưởng thụ một cách thụ động thành quả của sự phát triển trở thành thành viên tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động có ý nghĩa quyết định đến cuộc sống của mình; - Bốn là tạo lập sự bình đẳng về cơ hội cho mọi người dân, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới tính, quốc tịch đồng thời tạo lập sự công bằng giữa các thế hệ và tính bền vững về môi trường; - Năm là quan điểm phát triển con người mang tính toàn diện vì một quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn của mọi người dân về tất cả các mặt của cuộc sống từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường. 2 UNDP. HDR 1990. Http://hdr.undp.org/reports:
  13. 10 Tại sao mở rộng cơ hội lựa chọn lại chính là phát triển con người? Nhà kinh tế học E. Wayne Nafziger giải thích như sau: “Cái phân biệt giữa người và động vật là ở sự kiểm soát lớn hơn của con người đối với môi trường của họ và quyền tự do lựa chọn lớn hơn của họ, chứ không phải ở chỗ họ hạnh phúc hơn. Việc kiểm soát môi trường của con người, trên lý thuyết, là một mục tiêu quan trọng giống như hạnh phúc” 3. Cần lưu ý là vì không có một quan niệm đồng nhất về hạnh phúc và không thể có mối quan tâm giống nhau trong những con người khác nhau nên việc mở rộng cơ hội lựa chọn cho con người chính là tạo điều kiện để con người vươn tới cuộc sống có ý nghĩa nhất, thú vị nhất theo nhận thức của chính mình. Tính nhân văn của vấn đề mở rộng cơ hội lựa chọn chính là ở điểm này. Thế nào là mở rộng cơ hội lựa chọn của mọi người? Phát triển con người là quá trình mở rộng cơ hội lựa chọn được tạo ra bởi việc mở mang các năng lực và các hoạt động của con người. Năng lực được UNDP quan niệm là khả năng đạt đến các mục tiêu được lựa chọn và thực hiện các chức năng có liên quan một cách đầy đủ, hiệu quả và lâu dài. Các năng lực cần được mở rộng bao gồm các năng lực sinh thể (trước hết là sức khỏe) và các năng lực tinh thần (trước hết là tri thức). Sau đó là năng lực tham gia, năng lực tổ chức thực hiện và năng lực hưởng thụ kết quả. Nhận thức như vậy giúp chúng ta thấy tầm quan trọng của chăm sóc sức khỏe và giáo dục ở gia đình và cộng đồng đối với việc mở mang, bồi dưỡng năng lực con người. Các hoạt động cần được mở rộng bao gồm các hoạt động lao động và nghỉ ngơi. Như vậy mở rộng các hoạt động sẽ làm cho con người có khả năng sử dụng tốt hơn năng lực sinh thể và tinh thần của mình cả trong công việc lẫn nghỉ ngơi (C.Mác đã từng ví von rằng thời gian rỗi rãi chính là không gian để phát triển nhân cách). Con người phải được sống trong môi trường tự nhiên và xã hội mà ở đó khả năng sáng tạo, được sống khỏe mạnh, thọ lâu, được học hành, quyền tự do chính trị và quyền tự do cá nhân không ngừng tăng lên. 3 Kinh tế học của các nước phát triển. E.Wayne Nafzinger. Nxb Thống kê. Hà Nội, 1998, trang 65.
  14. 11 Quan niệm phát triển đầy tính nhân văn về con người không chủ trương sự phát triển mang tính bình quân, ai cũng như ai mà hướng tới việc tạo ra sự bình đẳng về cơ hội cho tất cả mọi người, phân bố năng lực công bằng hơn trong các cộng đồng dân cư. Chính vì vậy, nhà quản lý xã hội cần quan tâm sâu hơn, có biện pháp tích cực hơn đối với các nhóm người “yếu thế” và dễ bị tổn thương trong dân cư. Đó là những người khuyết tật, người nghèo, người dân tộc ít người, cư dân vùng sâu, vùng xa, phụ nữ… Việc đảm bảo yêu cầu được ăn, mặc, ở, trị bệnh, được cung cấp thông tin cho các nhóm người nói trên chính là nhằm bảo đảm việc phát triển các năng lực cơ bản cho họ, rút ngắn dần sự bất bình đẳng trong việc lựa chọn cơ hội phát triển, phân bổ năng lực công bằng hơn trong các nhóm dân cư khác nhau. Có thể tóm lược quan niệm của UNDP về phát triển con người như sau:  Phát triển con người là sự phát triển của con người, do con người thực hiện và vì con người.  Phát triển con người vừa nâng cao năng lực lựa chọn của con người vừa mở rộng cơ hội lựa chọn của con người.  Phát triển con người gắn liền với quá trình dân chủ hóa xã hội, với sự phát triển bền vững của cộng đồng, tổ chức cho mọi công dân tích cực, chủ động tham gia vào các quá trình xã hội, làm cho vốn xã hội, vốn tổ chức mà mình là thành viên không ngừng phát triển.  Phát triển con người nhằm đáp ứng không ngừng các nhu cầu của con người từ ăn, mặc, ở đến các nhu cầu được giao lưu, được tự khẳng định, được tiến bộ, được sáng tạo.  Phát triển con người cần phải được đo đạc, được lượng hóa thông qua những chỉ số, từ các chỉ số cơ bản về thu nhập, giáo dục, tuổi thọ đến các chỉ số khác của đời sống văn hóa, của sự an toàn của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, UNDP đã cố gắng chọn một thước đo cũng “đơn giản” như GDP nhưng khắc phục được thiếu sót của thước đo ấy. Thước đo mới phải tính đến các khía cạnh xã hội của đời sống con người. Ba yếu tố quan trọng sau đây đã được UNDP lấy làm
  15. 12 tiêu chí đo đạc để tham gia vào công thức tính chỉ số phát triển con người HDI. Ba tiêu chí đó là: - Sức khỏe - Học vấn - Mức sống Năm 1990 trở thành thời điểm đánh dấu sự ra đời của một thước đo mới – HDI. GDP đã mất địa vị độc tôn là thước đo duy nhất trình độ phát triển của quốc gia để trở thành một tiêu chí thành phần của HDI. Cách đo đạc thành tựu trung bình của quốc gia bằng HDI là một bước ngoặt lớn trong cách đánh giá sự phát triển nhưng sớm được sự đồng tình rộng rãi trên thế giới. Điều đó được thể hiện qua các con số sau đây: Năm 1999, 120 nước đã công bố Báo cáo phát triển con người. Ở Ấn Độ, có bang còn tự đo đạc HDI. Nhiều chính phủ đã lấy HDI làm căn cứ để đề xuất chính sách và chiến lược phát triển quốc gia. Tuy nhiên cần lưu ý một điều là các chuyên gia UNDP vẫn khuyên các nước trong quá trình tự tính HDI nên bổ sung hoặc thay thế các thành phần cơ bản trong công thức tính bằng những thành phần khác phù hợp hơn với tình hình thực tế của từng quốc gia. Triết lý con người là trung tâm của UNDP còn được tiếp tục phát triển lên tầm cao hơn trong Tuyên bố Thiên niên kỷ ra đời tháng 9 năm 2000 tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên Hiệp Quốc ở New York. Các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goals – viết tắt là MDG) được 189 nguyên thủy quốc gia (trong đó có Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương) thông qua tại hội nghị này là một kế hoạch mang tính toàn cầu được các chính phủ cam kết thực hiện bằng nhiều hoạt động rộng lớn trong đó có hoạt động phát triển con người. MDG xác định một hệ thống tổng hợp 8 mục tiêu ưu tiên của các chính phủ trên lĩnh vực kinh tế - xã hội với một hệ thống các nhiệm vụ được lượng hóa trong 18 chỉ tiêu với 48 chỉ số giám sát sự tiến bộ trong từng giai đoạn.
  16. 13 Triết lý của MDG gắn kết chặt với triết lý con người là trung tâm. Đó là nâng cao các giá trị tự do, bình đẳng, đoàn kết, khoan dung, tôn trọng môi trường. Đó là nâng cao quyền con người, mở rọng sự lựa chọn, phát triển kinh tế và xã hội gắn liền với công bằng, hợp tác toàn cầu để cùng phát triển. 1.1.2.2. Quan điểm vì con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam Triết lý phát triển con người của UNDP nhanh chóng tìm được sự cộng hưởng ở Việt Nam là nhờ bắt gặp truyền thống “thương người như thể thương thân” của người Việt Nam, lý tưởng giải phóng con người của Đảng Cộng sản Việt Nam cùng di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại. Trong Di chúc viết năm 1969, Hồ Chí Minh mở đầu một cách hết sức tự nhiên bằng câu “Đầu tiên là công việc về con người”. Vốn là một người “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” nên Chủ tịch Việt Nam đã thể hiện tư tưởng chăm lo cho con người xuyên suốt trong mọi hoạt động ở bất kỳ hoàn cảnh nào, thời kỳ nào của cách mạng Việt Nam. Tháng 9 năm 1945, tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Người đã nhắc nhở: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập… chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân đã được ăn mặc no đủ” và chỉ đạo phải thực hiện ngay 4 mục đích”: Làm cho dân có ăn; Làm cho dân có mặc; Làm cho dân có chỗ ở; Làm cho dân có học hành. Có thể nói triết lý của UNDP những năm 90 về con người là sự thừa kế những tư tưởng của các nhà nhân văn lớn của thế giới, trong đó có Hồ Chí Minh. Vào năm 1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng chính sách nội chính của Chính phủ “chỉ có 3 điều mà thôi: a. Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc, đủ ăn; b. Mở mang giáo dục để cho ai nấy cũng biết đọc, biết viết; c. Thực hành dân chủ để làm cho dân ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do” và tiếp sau đó nói rõ “chính sách ngoại giao của Chính phủ thì chỉ có
  17. 14 một điều là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế giới để giữ gìn hòa bình”. Người có nhắc nhở cán bộ phải “động viên toàn thể nhân dân hăng hái thi hành chính sách đã định”. Những tư tưởng nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo cho dân có cái ăn, được học hành, được hưởng quyền dân chủ, về hợp tác cùng phát triển với các nước sau đó nửa thế kỷ lại đã được diễn đạt dưới hình thức khác và phong phú hóa thêm trong Báo cáo MDG lần thứ nhất của khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Quan điểm vì con người được thể hiện xuyên suốt trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1991, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ trong Báo cáo Chính trị trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa sự phát triển kinh tế với sự phát triển xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt các chính sách xã hội là động lực phát triển kinh tế. Quan điểm vì con người này đã được Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi rõ trong điều 2: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Hội nghị lần thứ tư BCHTƯ Đảng khóa VII đã đúc kết quan điểm nhân văn vì con người của Đảng như sau: “tất cả là do con người, tất cả vì hạnh phúc con người, chúng ta coi con người là nhân tố quyết định, là động lực to lớn, là chủ thể sáng tạo mọi nguồn của cải vật chất và tinh thần của xã hội; đồng thời, coi hạnh phúc con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chúng ta” Quan điểm phát triển con người còn được tiếp tục thể hiện sâu hơn khi Hội nghị lần thứ năm BCHTƯ khóa VIII xác định rằng “… không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”.
  18. 15 1.1.3. Quan niệm phát triển giáo dục Giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là nền tảng cơ bản để phát triển bền vững cho một quốc gia, dân tộc. Vì giáo dục chính là trụ cột của một quốc gia để tạo dựng, giữ gìn và phát triển hệ giá trị xã hội. Ngoài chức năng bao trùm trên, giáo dục còn mang một nhiệm vụ không kém phần quan trọng, đó là đảm bảo sự tồn tại và phát triển hay cụ thể hơn là hiện thực hóa quyền bình đẳng về cơ hội vào đời và tạo dựng cuộc sống của mỗi cá nhân trong xã hội. Bởi, để đạt được điều đó thì họ phải có cơ hội, ai cũng như ai, tiếp thu những giá trị, tri thức và kỹ năng mà nền giáo dục đã đưa lại cho họ. Phát triển giáo dục không chỉ dừng lại phục vụ cho những cái hiện tại cần, phản ánh những cái hiện tại đang diễn ra mà cao hơn, thiêng liêng hơn là giáo dục phải xây dựng một nhận thức về hình ảnh của xã hội ngày mai, tạo ra một khả năng tư duy về phương thức nhanh chóng đi tới xã hội đó. Giáo dục đi trước thời đại không phải là giáo dục xa rời thực tế. Thực tế mà giáo dục phải gắn chặt là thực tế động, là thực tế tiến hóa. Giáo dục mà gắn với thực tế thấp, tức là những mặt thực tế đã bộc lộ những dấu hiệu lạc hậu thì giáo dục không thể có tác động thúc đẩy, nếu không nói là tác động kìm hãm. Và giáo dục không chỉ là một phúc lợi. Dĩ nhiên giáo dục có mang lại một cuộc sống tinh thần phong phú cho đông đảo quần chúng. Song tính năng của giáo dục không chỉ có thế mà chủ yếu là làm nền tảng, làm động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Có thể nói không có một thành tựu nào mà không bắt nguồn từ kết quả của giáo dục. Ngày trước khi nền kinh tế nước ta còn thấp kém, tiêu biểu là hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau và một vài nghề thủ công thô sơ thì người lao động mù chữ hay chỉ mới thoát nạn mù chữ cũng vẫn có thể điều hành sản xuất được. Nhưng ngày nay, khi chúng ta đang ra sức công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì không có giáo dục, nền kinh tế mới không thể tồn tại và phát triển được. Theo logic đó, ta có thể khẳng định ngược lại: giáo dục không phục vụ, không thúc đẩy được kinh tế thì giáo dục cũng sẽ bị đào thải. Đó là một yêu cầu khách quan, là tín hiệu của thời đại, đó không phải là ý muốn chủ quan của bên nào hay của các nhà quản lý xã hội.
  19. 16 1.2. CHỈ SỐ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI Để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, Báo cáo phát triển con người năm 1990 và các Báo cáo tiếp theo của UNDP đã đưa ra một loạt chỉ số. Chỉ số tổng hợp nhất được đưa ra từ năm 1990 (và được hiệu chỉnh lại năm 1999) là Chỉ số phát triển con người (Human development index – HDI). Chỉ số phát triển con người là chỉ số tổng hợp phản ánh sự phát triển của con người trên các phương diện thu nhập (thể hiện qua tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người), tri thức (thể hiện qua chỉ số học vấn) và sức khoẻ (thể hiện qua tuổi thọ bình quân tính từ lúc sinh). Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990. Chỉ số HDI đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau: 1. Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, được đo bằng Tuổi thọ trung bình (đơn vị tính: năm) 2. Học vấn: được đo bằng Tỷ lệ người lớn biết chữ (đơn vị tính: %) và Tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục tiểu học, trung học, đại học (đơn vị tính: %). Từ năm 1995 trở về trước chỉ tiêu này chưa được sử dụng, thay vào đó là chỉ tiêu Số năm học trung bình). 3. Mức sống: được đo bằng GDP thực tế bình quân đầu người (đơn vị tính: PPP/USD). Hình 1.1: Sơ đồ mô tả tổng quát cách xây dựng chỉ số phát triển con người
  20. 17 Chỉ số HDI là một thước đo tương đối tổng hợp, vượt ra khỏi khía cạnh kinh tế thuần tuý về sự phát triển, bổ sung cho thước đo GDP, dẫu quan trọng, nhưng còn phiến diện và sai lệch. Có thể nói, với HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển chân thực hơn tính mục tiêu của nó. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh trạng thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là một căn cứ để xác định và lựa chọn các mục tiêu và chính sách phát triển. HDI là một chỉ số còn tương đối đơn giản, không bao quát hết tính phong phú, nhiều mặt của sự phát triển con người. Nó chỉ phản ánh gián tiếp, do đó chưa đầy đủ và còn bỏ qua một số khía cạnh có liên quan đến chất lượng cuộc sống của con người như chính trị, văn hoá, môi trường hay mức độ tham gia của người dân. HDI của một quốc gia chỉ là một chỉ số trung bình, do đó, cũng như GDP, nó có thể che lấp các quá trình phân phối, tình trạng bất bình đẳng, hay sự khác biệt về phát triển con người giữa các vùng và các nhóm dân cư. Nó có thể không làm nổi bật được những thách thức cần được ưu tiên giải quyết của một quốc gia trong tiến trình phát triển. Các khía cạnh chất lượng của các yếu tố cấu thành HDI cũng khó có thể phản ánh đầy đủ: trình độ giáo dục thật ra không chỉ thể hiện bằng tỷ lệ biết chữ hay số năm đi học mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả năng và cơ hội lựa chọn của người học, đặc biệt với giáo dục bậc cao. Nhận xét này cũng có thể áp dụng cho các yếu tố khác của HDI. Tuy nhiên, cho đến nay, chỉ số phát triển con người HDI vẫn là một chỉ số tốt nhất được dùng để đánh giá sự phát triển con người. Chỉ số này dù chỉ được biểu diễn bởi một con số nhưng nó phản ánh tổng hợp thành tựu kinh tế - xã hội cả về số lượng và chất lượng, là một thước đo mang tính nhân văn có ý nghĩa thời đại để quản lý phát triển kinh tế - xã hội cộng đồng. 1.2.1. Tính các chỉ số thành phần của chỉ số HDI Quy tắc chung để tính các chỉ số thành phần là sử dụng các giá trị tối thiểu và tối đa (còn gọi là các giới hạn mục đích hay các giá trị trên) cho từng chỉ số và áp dụng công thức sau: Giá trị thực – giá trị tối thiểu Chỉ số thành phần = Giá trị tối đa – giá trị tối thiểu
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2