intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp - nông thôn tỉnh Phú Yên trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

135
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp - nông thôn tỉnh Phú Yên trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa làm rõ thực trạng về PTBV NN-NT Phú Yên trong thời gian qua, tìm hiểu định hướng PTNN-NT của tỉnh trong thời gian tới, từ đó đề ra các giải pháp chủ yếu qua, tìm hiểu định hướng PTNN-NT của tỉnh trong thời gian tới, từ đó đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy NN-NT Phú Yên PTBV trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Địa lý học: Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp - nông thôn tỉnh Phú Yên trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ______________ Trần Thị Thanh Thu THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN TỈNH PHÚ YÊN TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA Chuyên ngành : Địa lý học Mã số : 60 31 95 LUẬN VĂN THẠC SĨ ÐỊA LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ÐẶNG VĂN PHAN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
  2. LỜI CẢM ƠN Luận văn được hoàn thành là kết quả của quá trình học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu lâu dài của tác giả dưới sự hướng dẫn, giúp đỡ của nhiều cá nhân và đơn vị. Trước tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy hướng dẫn là PGS.TS. Đặng Văn Phan. Người đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn, truyền đạt những kinh nghiệm quí báu và cảm thông cùng tác giả trong suốt quá trình hoàn thành luận văn. Tác giả xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHSP TP.HCM, đặc biệt là các thầy cô giáo khoa địa lí đã truyền dạy nhiều kiến thức, phương pháp nghiên cứu cho tác giả trong quá trình học tập tại trường. Tác giả cũng nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các sở, ban, ngành tỉnh Phú Yên, nhất là sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Cục Thống kê tỉnh, sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Khoa học Công nghệ - Môi trường, sở Lao động Thương binh và Xã hội,… đã giúp tác giả trong quá trình thu thập tài liệu, thông tin và xử lí số liệu liên quan đến đề tài. Tác giả xin cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu này. Luận văn cũng đã hoàn thành với sự chia sẻ, động viên, ủng hộ và tạo điều kiện của gia đình, người thân, đồng nghiệp và bạn bè gần xa. Xin cảm ơn. Rất mong các cá nhân, đơn vị nhận lời cảm ơn chân thành của tác giả. Tuy Hòa, ngày tháng năm 2009 Tác giả luận văn Trần Thị Thanh Thu
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVTV : Bảo vệ thực vật CCKT : Cơ cấu kinh tế CDCC : Chuyển dịch cơ cấu CDCCKT : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế CN : Công nghiệp CNCB : Công nghiệp chế biến CNH : Công nghiệp hóa CNH-HĐH : Công nghiệp hóa - hiện đại hóa CN-XD : Công nghiệp - xây dựng DV : Dịch vụ GDP : Tổng sản phẩm trên địa bàn Giá tt : Giá thực tế GTSX : Giá trị sản xuất HTX : Hợp tác xã HTXNN : Hợp tác xã nông nghiệp KT : Kinh tế KT-XH : Kinh tế - xã hội LĐ : Lao động N-L-TS : Nông - lâm - thuỷ sản NN : Nông nghiệp NN-NT : Nông nghiệp - nông thôn NT : Nông thôn NTTS : Nuôi trồng thủy sản PTBV : Phát triển bền vững PTKT : Phát triển kinh tế PTNN : Phát triển nông nghiệp PTNT : Phát triển nông thôn PTNN-NT : Phát triển nông nghiệp – nông thôn Tp. : Thành phố TTNN : Tăng trưởng nông nghiệp
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài NN là một ngành sản xuất vật chất của nền KT quốc dân và là một bộ phận trọng yếu của tái sản xuất xã hội. Hoạt động sản xuất NN được tiến hành chủ yếu trên địa bàn NT. Vậy nên sự phát triển NN luôn gắn liền với phát triển NT. PTNN-NT luôn giữ vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển KT-XH của nước ta, một nước mà sản xuất NN hiện còn đang chiếm 20,3% GDP nền KT, thu hút 50,2% lực lượng LĐ xã hội và đóng góp hơn 22,6% giá trị xuất khẩu của cả nước (năm 2007). Với vai trò đó, những năm qua Đảng và Nhà nước đã chú ý đẩy mạnh CNH-HĐH NN-NT và cũng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, đứng trước những đòi hỏi của quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, NN nước ta nhìn chung phát triển còn chậm, chưa phát huy cao tiềm năng và lợi thế của mình nên hiệu quả chưa cao, chưa bền vững. Phú Yên với đồng bằng hạ lưu sông Ba (sông Đà Rằng), là một trong những đồng bằng lớn của khu vực Duyên hải miền trung, có điều kiện PTNN-NT. Tuy nhiên trình độ phát triển còn thấp hơn so với mức trung bình cả nước. Vậy trong bối cảnh KT thế giới có nhiều biến động, cùng với quá trình hội nhập của đất nước, làm thế nào để NN-NT Phú Yên phát triển mạnh, khai thác tốt tiềm năng và lợi thế phục vụ phát triển nhưng vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái, đảm bảo công bằng xã hội là bài toán khó cần có lời giải đáp sớm. Nói cách khác NN-NT Phú Yên cần phát triển như thế nào để đảm bảo PTBV. Xuất phát từ thực tiễn trên cần phải có những nghiên cứu mang tính hệ thống tìm hiểu thực tế PTNN-NT Phú Yên, từ đó đề ra giải pháp nhằm thúc đẩy NN-NT PTBV. Chính vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển bền vững nông nghiệp–nông thôn tỉnh Phú Yên trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hóa” để nghiên cứu với mong muốn góp phần nhỏ bé vào quá trình PTNN-NT Phú Yên trong thời gian tới. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài: làm rõ thực trạng về PTBV NN-NT Phú Yên trong thời gian qua, tìm hiểu định hướng PTNN-NT của tỉnh trong thời gian tới, từ đó đề ra các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy NN-NT Phú Yên PTBV trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Để đạt mục đích này, luận văn đề ra các nhiệm vụ sau: - Hệ thống hoá những lý thuyết có liên quan đến PTBV NN-NT, làm rõ các khái niệm, các nhân tố tác động, các chỉ tiêu đánh giá về PTBV NN-NT. - Phân tích thực trạng PTBV NN-NT Phú Yên trong thời gian qua, đánh giá những thành tựu đạt được và những hạn chế, tồn tại cần khắc phục trong thời gian tới.
  5. - Xác định mục tiêu, phương hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy PTBV NN-NT Phú Yên trong thời kỳ CNH-HĐH. 3. Giới hạn nghiên cứu Về nội dung: do đề tài có nội dung rộng và phức tạp nên phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn: (i) nghiên cứu sâu những vấn đề có liên quan đến PTNN theo ngành gồm: trồng trọt, chăn nuôi; chỉ đề cập chứ không nghiên cứu sâu về thuỷ sản, về các khía cạnh có liên quan đến PTNN theo thành phần KT và theo lãnh thổ; (ii) chủ yếu đề cập đến lĩnh vực PTNN; còn NT là lĩnh vực rất rộng, bao gồm các hoạt động KT-XH và cuộc sống của dân cư NT nên các vấn đề nghiên cứu về NT còn chưa đầy đủ, chi tiết do quá trình thu thập tài liệu, thông tin về NT gặp nhiều khó khăn; (iii) nói về các nhân tố tác động đến PTBV NN-NT tỉnh Phú Yên rất rộng, phải cần tài liệu, số liệu của nhiều sở ban ngành khác nhau và đòi hỏi phải rất chi tiết, do vậy tác giả chưa đủ điều kiện để phân tích sâu nên chỉ nhận xét, đánh giá chung. Về không gian: là phạm vi tỉnh Phú Yên với diện tích 5.060 km 2. Về thời gian: phần thực trạng được đề cập từ 1996 – 2007; tuy nhiên, hiện trạng môi trường NN-NT chỉ có các mốc thời gian so sánh đến 2005; phần mục tiêu, phương hướng đến 2010 và 2020; mục tiêu, phương hướng PTNT chỉ đến năm 2010. 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin: nhằm rút ra các quan điểm, các cơ sở lý luận về PTBV NN-NT. Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập các tài liệu có liên quan đến PTBV NN-NT từ các sở, ban ngành tỉnh Phú Yên, sở NN và PTNT, các đề tài nghiên cứu khoa học, các sách, báo, tạp chí,… Phương pháp phân tích tổng hợp: tìm ra các mối quan hệ, các xu hướng diễn ra giữa các biến số để luận giải các vấn đề có liên quan đến PTBV NN-NT trong thời kỳ CNH-HĐH. Phương pháp thống kê, mô tả, so sánh, đối chiếu và qui nạp: được sử dụng để có thể đưa ra một cái nhìn tổng quát, xác thực và đo lường được mức độ phát triển. Phương pháp phỏng vấn: được thực hiện trên các đối tượng: cán bộ thuộc hội nông dân huyện, các cán bộ phụ trách các phòng ban: NN và PTNT, tài nguyên và môi trường, xói đói giảm nghèo, LĐ thương binh xã hội,… Phương pháp thực địa: chúng tôi thực hiện các chuyến thực địa để quan sát về sinh thái nhân văn môi trường, các điểm và vùng quy hoạch đã và đang được triển khai, các công trình thuỷ lợi và giao thông NT,… 5. Lịch sử nghiên cứu PTBV là một khái niện hiện nay còn tương đối mới mẽ và PTBV NN-NT còn mới mẽ hơn. Do vậy hiện nay, tuy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu nói về PTBV và PTBV NN-NT nhưng cũng chỉ mới đề
  6. cập đến những cơ sở lý luận chung hoặc chỉ một vài khía cạnh nào đó. Các công trình nghiên cứu có ý nghĩa đối với việc PTBV và PTBV NN-NT có thể nói đến như: KT học NN bền vững (TS.Đinh Phi Hổ, NXB Phương Đông, 2008); Nghiên cứu phát triển NT bền vững (Chương trình nghiên cứu Việt Nam – Thái Lan, 2000); Phát triển bền vững (Kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất, Dự án VIE/01/021, 2004, “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt Nam”; Không chỉ là tăng trưởng KT: Nhập môn về phát triển bền vững (Vũ Cương, Lê Kim Liên, 2005, NXB Văn hóa thông tin); Phát triển bền vững? Học thuyết, thực tiễn, đánh giá (Jean-Yves Martin - chủ biên, 2007, NXB Thế giới, Hà Nội). Đối với tỉnh Phú Yên, PTBV NN-NT là một vấn đề nóng bỏng đã và đang được nhiều nhà khoa học quan tâm. Nghiên cứu phát triển NN-NT nhằm tăng hiệu quả sản xuất NN, PTNT mới và đảm bảo trong sạch môi trường đáp ứng mục tiêu PTBV của tỉnh. Tuy nhiên chưa thấy có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ cả về cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp PTBV NN-NT như tác giả đang nghiên cứu. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương 1 : Cở sở lý luận về PTBV NN – NT thời kỳ CNH-HĐH. Chương 2 : Thực trạng PTBV NN – NT tỉnh Phú Yên thời kỳ CNH-HĐH. Chương 3 : Định hướng và giải pháp chủ yếu để PTBV NN – NT Phú Yên đến năm 2020.
  7. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NÔNG NGHIỆP - NÔNG THÔN THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA 1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm nông nghiệp - nông thôn 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm nông nghiệp - nông thôn Khái niệm nông nghiệp NN là một trong những ngành sản xuất vật chất cơ bản, là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền KT quốc dân [23, tr.25]. Hoạt động NN không những gắn liền với các yếu tố KT-XH mà còn gắn liền với các yếu tố tự nhiên. Hiểu theo nghĩa hẹp thì NN chỉ gồm có trồng trọt, chăn nuôi và DV NN; hiểu theo nghĩa rộng NN còn bao hàm cả lâm nghiệp và thủy sản [7, tr.8]. Nông nghiệp có những đặc điểm chủ yếu sau: Trong NN, ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ thâm canh, phương hướng sản xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ NN lệ thuộc vào số lượng và chất lượng của đất đai. Xuất phát từ đặc điểm này cho thấy việc bảo tồn quỹ đất và không ngừng nâng cao độ phì nhiêu của đất là vấn đề sống còn của sản xuất NN. Đối tượng của sản xuất NN là cây trồng, vật nuôi, chúng là những sinh vật. Do vậy, sự tăng trưởng, phát triển của chúng tùy thuộc vào những quy luật sinh học riêng và phụ thuộc vào môi trường tự nhiên nhất định: đất, nước, khí hậu,… Tổng thể mối quan hệ giữa quy luật sinh học riêng có gắn với môi trường tự nhiên thích ứng chính là các hệ sinh thái NN. Từ đặc điểm này, PTNN đòi hỏi phải theo hệ sinh thái thích ứng sẽ khai thác được cả ưu thế tự nhiên và ưu thế KT cao. Trong sản xuất NN, thời gian LĐ không trùng với thời gian sản xuất và điều đó làm nảy sinh tính thời vụ. Từ đó, trong NN cần phải tiến hành chuyên môn hóa kết hợp với đa dạng sản xuất và cần sự can thiệp của nhà nước đối với thị trường NN. Để xây dựng cơ cấu hợp lí cần lựa chọn các loại cây trồng, vật nuôi có thời gian LĐ và thời gian sản xuất phù hợp với điều kiện cụ thể của lãnh thổ trong quá trình thực hiện phân bố sản xuất NN. Sản xuất NN được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn và mang tính khu vực. Xuất phát từ đặc điểm này, phải có chính sách PTNN thích ứng với từng khu vực. Khái niệm nông thôn NT là khu vực lãnh thổ bao gồm một không gian rộng lớn của một đất nước hay một đơn vị hành chính nằm ngoài lãnh thổ đô thị, ở đó một cộng đồng dân cư sinh sống - gọi là dân cư NT và hoạt động KT chủ yếu là sản xuất NN (theo nghĩa rộng), bên cạnh đó còn có các hoạt động sản xuất tiểu thủ CN, CN và DV [7, tr.30]. Để phục vụ cho mục đích điều tra người ta đã thống nhất lấy tên gọi đơn vị hành chính nhỏ
  8. nhất (tức là xã, phường, thị trấn) làm cơ sở để phân biệt địa bàn điều tra thuộc địa bàn thành thị hay NT. Nếu tên gọi là xã thì thuộc NT; còn tên gọi là phường, thị trấn, thị tứ thì thuộc khu vực thành thị [1, tr.100]. 1.1.1.2. Vai trò của nông nghiệp - nông thôn Trong suốt thế kỷ 20 và cho đến nay, luôn diễn ra và sẽ còn tiếp tục diễn ra các cuộc tranh luận về vai trò của NN-NT. Tuy nhiên, có thể thấy vai trò của NN-NT có sự mở rộng và nâng cao nhiều so với trước. Trong nhiều ý kiến khác nhau, có thể qui về hai quan điểm đối nghịch rõ rệt nhau như sau: Quan điểm thứ nhất, căn cứ vào một thực tế được coi gần như một quy luật của phát triển là tỷ trọng của NN trong GDP giảm đi trong khi tỷ trọng CN và DV tăng lên, đã nhận định rằng với sự kết thúc của văn minh NN được thay thế bằng văn minh CN, thậm chí hậu CN thì vai trò của NN ngày càng thu hẹp và hạ thấp. Quan điểm thứ hai, căn cứ vào một thực tế chưa phổ biến trên thế giới song bắt đầu xuất hiện từng phần tại những nước phát triển nhất, nhận định rằng trong nền KT-XH hiện đại ở thế kỷ XXI, vai trò của NN không những không bị giảm sút mà lại có thêm những nét mới và đặc sắc hơn. Về quan điểm thứ hai, tuy thực tế làm căn cứ phân tích và lập luận mới chỉ hé mở ở các nước phát triển, mà chưa hề xuất hiện ở hầu hết các nước đang phát triển, song cũng đã hoặc sẽ mở ra hướng suy nghĩ và hành động tích cực, chủ động về vai trò mới của NN-NT. Vai trò mới đó là: Về nông nghiệp: NN không chỉ là cơ sở cho sự phát triển CN và cho công cuộc CNH-HĐH đất nước: cung cấp lương thực, thực phẩm, nguyên liệu, đất đai, LĐ, tiền vốn, thị trường cho CN. Trái lại NN hiện đại là một loại CN và DV có năng suất và hiệu quả cao, có giá trị sử dụng thiết yếu không gì thay thế được, tạo ra giá trị gia tăng lớn, có thể cần phải và đang trở thành một ngành rất quan trọng của KT tri thức. Về nông thôn: NT không phải là địa bàn thứ yếu và hậu phương phụ thuộc vào thành thị, có trình độ phát triển về các mặt đều thấp hẳn so với thành thị, cổ hủ, lạc hậu, lỗi thời về chính trị, KT, văn hóa, xã hội, nơi con người nhất là lớp trẻ hướng ra thành thị. Trái lại NT hiện đại là một dạng của thành thị, sự phân biệt giữa thành thị và NT đang mất dần, trong NT có các thành phố và thị trấn văn minh, sự khác nhau giữa thành thị và NT là ưu việt hơn cho NT chứ không phải cho thành thị:  NT hiện đại là địa bàn để giữ gìn và tô điểm môi trường sinh thái của loài người, chứa đựng “lá phổi và trái tim” của sự sống trên trái đất.  NT hiện đại là không gian rộng lớn, tại đó con người được sống gắn bó, hài hoà với thiên nhiên, cây cỏ, chim muông, sông núi, đất trời, không ngột ngạt trong những thành phố đầy nhà chọc trời, bê tông, kính và sắt thép.
  9.  NT hiện đại là nơi nghỉ ngơi lành mạnh, là nguồn giải trí phong phú, là vùng du lịch sinh thái đa dạng, yên tĩnh, thanh bình,… Như vậy theo quan điểm này, rõ ràng là vai trò trong tương lai của NN và NT đã được mở rộng và nâng cao nhiều so với trước. 1.1.2. Phát triển bền vững nông nghiệp – nông thôn 1.1.2.1. Tăng trưởng, phát triển và phát triển bền vững 1.1.2.1.1. Tăng trưởng và phát triển Tăng trưởng là sự gia tăng về qui mô thu nhập quốc gia và qui mô sản lượng quốc gia tính bình quân đầu người qua một thời gian nhất định [12, tr.14]. Trong đó, sản lượng bình quân đầu người lại phụ thuộc vào qui mô sản lượng và dân số của quốc gia. Nếu sản lượng tăng nhưng qui mô dân số tăng nhanh hơn sẽ dẫn đến sản lượng bình quân giảm. Do đó, bản chất của tăng trưởng là phải đảm bảo sự gia tăng cả qui mô sản lượng và sản lượng bình quân/người. Sản lượng bình quân/người còn phản ánh thu nhập trung bình của dân cư một quốc gia. Cho nên, gia tăng sản lượng bình quân/người sẽ tạo tác động cải thiện mức sống dân cư. Như vậy, tăng trưởng mới chỉ mô tả và đo lường được sự gia tăng về mặt số lượng [12, tr.93]. Phát triển biểu hiện một nội dung rộng lớn hơn tăng trưởng KT, tức bên cạnh sự tăng thu nhập bình quân đầu người, phát triển còn bao gồm nhiều khía cạnh khác. Phát triển là việc nâng cao phúc lợi của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức khỏe và đảm bảo sự bình đẳng cũng như quyền công dân. Phát triển còn được định nghĩa là sự tăng bền vững các tiêu chuẩn sống, bao gồm tiêu dùng vật chất, giáo dục sức khỏe và bảo vệ môi trường. Phát triển bao gồm cả những thuộc tính quan trọng và liên quan khác, đặc biệt là sự bình đẳng về cơ hội, sự tự do về chính trị và các quyền tự do công dân khác của con người. Tăng trưởng là một phương tiện cơ bản để có thể có được sự phát triển nhưng bản thân nó chỉ là một đại diện, chưa phản ánh đầy đủ tiến bộ xã hội. Tăng trưởng và phát triển là hai mặt của sự phát triển xã hội có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng diễn tả động thái của nền KT, còn phát triển phản ánh sự thay đổi về chất lượng của nền KT – XH để phân biệt các trình độ khác nhau trong sự tiến bộ xã hội. Tăng trưởng chưa phải là phát triển mà chỉ là điều kiện cần cho sự phát triển. Tăng trưởng mà không có phát triển thì rất nguy hại, sự nguy hại đó tồn tại ở các nước đang phát triển khi hoạt động KT tập trung vào những ngành của những công ty nước ngoài hoặc những công trình công cộng lớn mà không có tác động đến toàn quốc. Ngay cả ở các nước phát triển, có nhiều trường hợp khi tăng trưởng vẫn diễn biến nhưng các lợi ích của phát triển được phân bố không đều giữa các vùng. Như vậy, phát triển khác với tăng trưởng, phát triển còn đề cập đến sự thay đổi CCKT, khía cạnh XH, môi trường chứ không chỉ dừng lại ở mục tiêu duy nhất là tăng trưởng KT mà thôi [12,
  10. tr.96]. Tăng trưởng được tính bằng tỷ lệ tăng tổng sản phẩm quốc dân GNP và tổng thu nhập quốc nội GDP hàng năm. Sự phát triển được đánh giá không những chỉ bằng GNP hoặc GDP tính bình quân trên đầu người dân mà còn bằng một số chỉ tiêu khác phản ánh sự tiến bộ xã hội như cơ hội về giáo dục, nâng cao sức khỏe cộng đồng, tình trạng dinh dưỡng, nâng cao giá trị cuộc sống, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Từ đó có thể khái niệm: Phát triển là một quá trình vận động đi lên, là một quá trình lâu dài luôn thay đổi theo hướng hoàn thiện về mọi mặt bao gồm KT, xã hội, môi trường và thể chế trong một thời gian nhất định. Mặt trái của phát triển kinh tế: Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, trong quá trình PTKT có nhiều vấn đề cần phải lưu tâm giải quyết nếu không sẽ trả giá rất đắt trong phát triển. Mặt trái của PTKT mà các quốc gia có thể gặp phải như: - Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng KT bằng việc đánh đổi khai thác quá mức tài nguyên tự nhiên, làm hỏng môi trường sinh thái và môi trường sống của con người. - Đẩy nhanh việc huy động vốn đầu tư cho nền KT nhằm thúc đẩy nhanh tăng trưởng KT. Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh đến huy động vốn từ nước ngoài, bỏ qua hoặc xem nhẹ huy động vốn trong nước thì hệ quả là có tăng trưởng nhưng lại phụ thuộc nhiều vào nguồn lực nước ngoài và có thể gây ra nợ nần triền miên, tạo nên gánh nặng cho quốc gia. - Mặc dù nền KT tăng trưởng nhanh, nhưng chỉ có một bộ phận nhỏ dân cư được hưởng thụ trong khi phần lớn dân cư vẫn trong tình trạng thu nhập thấp và nghèo đói, sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng lớn. - Đẩy nhanh tăng trưởng và PTKT nhưng lại tập trung ở vùng đô thị, trong khi vùng NT, miền núi lại bỏ qua. Mức sống, hưởng thụ vật chất, tinh thần, chăm sóc sức khỏe, cơ hội việc làm quá chênh lệch giữa vùng NT với thành thị, giữa các cộng đồng dân tộc với nhau, có thể đó là những mầm móng dẫn đến đối xử không công bằng, biểu tình gây xáo trộn nền KT, khủng hoảng về chính trị. - Đẩy nhanh tăng trưởng KT cũng có thể làm mai một truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, và thay vào đó là lối sống thực dụng, tôn trọng sức mạnh của đồng tiền, lợi nhuận; thiếu quan tâm đến lợi ích cộng đồng, chuẩn mực đạo đức xã hội thay đổi, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội,… 1.1.2.1.2. Phát triển bền vững Vào nửa cuối thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90 của thế kỷ trước, những mặt trái trong PTKT xuất hiện, loài người đã phải đương đầu với những thách thức to lớn do suy thoái về nguồn lực và giảm cấp môi trường. Trong tình hình đó, quan niệm mới về phát triển đã được đặt ra, đó là PTBV.
  11. PTBV là một khái niệm hiện nay còn tương đối mới mẻ và chưa có sự thống nhất trong cách diễn giải. Theo ngân hàng phát triển châu Á (ADB-1991), định nghĩa sau đây tương đối được nhiều người ủng hộ nhất: “PTBV là một loại hình phát triển mới, lồng ghép các quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. PTBV cần phải đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng của chúng đáp ứng nhu cầu các thế hệ tương lai. [10, tr.7] Qua đó có thể nói: PTBV phải chú trọng đến mối quan hệ giữa các thế hệ, đảm bảo sự bình đẳng giữa các thế hệ. Sự “bình đẳng giữa các thế hệ” là sự cân bằng lợi ích của các nhóm người trong cùng một thế hệ và giữa các thế hệ. Sự bình đẳng giữa các thế hệ sẽ không thể đạt được nếu thiếu sự công bằng trong xã hội hiện tại, nếu các hoạt động KT của một số nhóm người tiếp tục gây tổn hại tới cuộc sống của những nhóm người khác hoặc sống tại những nơi khác. Các thế hệ khác nhau càng cần phải được công bằng vì rằng các thế hệ tương lai không thể có tiếng nói bảo vệ chính mình [6, tr.10]. Các thế hệ hiện tại sử dụng tài nguyên cho sản xuất không thể để cho các thế hệ mai sau phải gánh lấy tình trạng ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và nghèo đói, mà thế hệ trước phải có trách nhiệm với thế hệ sau trong việc để lại các di sản và tài nguyên có giá trị. Cần phải để cho các thế hệ tương lai thừa hưởng các thành quả LĐ của thế hệ hiện tại dưới dạng kỹ thuật, kiến thức và các nguồn lực khác ngày càng được tăng cường. Tăng thu nhập kết hợp với các chính sách môi trường và thể chế vững chắc có thể tạo cơ sở cho việc giải quyết cả hai vấn đề môi trường và phát triển. Điều then chốt đối với sự PTBV không phải là sản xuất ít đi mà phải sản xuất khác đi, phát triển sản xuất phải đi đôi với tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường [18, tr.265]. Các chính sách môi trường có thể tăng cường hiệu suất trong sử dụng tài nguyên và đưa ra những đòn bẩy để tăng cường những công nghệ và phương pháp ít gây nguy hại, gây giảm cấp môi trường và các nguồn lực. Các đầu tư tạo ra nhờ các chính sách môi trường sẽ làm thay đổi cách thức sản xuất các sản phẩm và DV, có thể có trường hợp đầu ra thấp hơn nhưng tạo ra những lợi ích làm tăng phúc lợi lâu dài của con người. Trong thực tế khi thu nhập tăng lên, nhu cầu nâng cao chất lượng môi trường cũng sẽ tăng lên và các nguồn lực có thể sử dụng cho đầu tư sẽ tăng lên. Chương trình của Liên Hợp Quốc (UNEP) đã đề xuất 3 mục tiêu của PTBV gồm: Thứ nhất, đảm bảo PTKT nhanh và duy trì tốc độ ấy trong thời gian dài và mãi mãi. Thứ hai, phát triển sản xuất phải đi đôi với việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nói cách khác là môi trường sinh thái được bảo vệ một cách tốt nhất. Thứ ba, đời sống xã hội được đảm bảo hài hoà công bằng. Mục tiêu kinh tế  Tăng trưởng
  12.  Hiệu quả  Ổn định Mục tiêu xã hội  --------------? Mục tiêu môi  Việc làm đầy đủ trường  --------------?  Môi trường trong  Công bằng  Ổn định  --------------? sạch cho con  An ninh người  Giáo dục  Sử dụng hợp lý  Y tế các nguồn tài nguyên có  Sự tham gia thể tái tạo được  Bản sắc văn hóa  --------------?  Bảo tồn các tài nguyên không tái  --------------? tạo được  --------------?  --------------?  --------------?  --------------? Hình 1.1: Mục tiêu phát triển bền vững PTBV phải đảm bảo tính toàn diện của các mục tiêu. Hình vẽ trên cho thấy trong nhiều mục tiêu, nếu chỉ bỏ qua một số ít mục tiêu cũng sẽ đe dọa làm chậm hoặc đảo ngược sự phát triển trong các lĩnh vực khác. Rõ ràng là việc cân đối quá nhiều mục tiêu phát triển khác nhau là một thách thức to lớn đối với bất kỳ quốc gia nào. PTBV là quá trình phát triển tất yếu, Việt Nam cũng không thể không thực hiện. Ở nước ta, khái niệm PTBV cũng được tranh luận rất nhiều. Khái quát lại: “PTBV là sự phát triển mà trong đó các giá trị KT, môi trường và xã hội luôn luôn tương tác với nhau trong suốt quá trình quy hoạch, phân bố lợi nhuận công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội và khẳng định các cơ hội cho sự phát triển kế tiếp, duy trì một cách liên tục cho các thế hệ mai sau”[9, tr.147]. Trong định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam (chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) đã được Chính phủ phê duyệt ngày 17/8/2004 đã đề cập đến mục tiêu PTBV ở Việt Nam: Quan điểm phát triển trong chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 đã được khẳng định:“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng KT đi đôi với thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”; “Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Thách thức lớn nhất của chúng ta là xác định sự cân bằng tối ưu giữa ba giá trị KT - XH - môi trường. Và sự bền vững được đặc trưng bởi sự phân phối quyền lợi và các cơ hội một cách công bằng giữa các tầng lớp xã hội, giới và các thế hệ. 1.1.2.2. Phát triển bền vững nông nghiệp 1.1.2.2.1. Sự khác nhau về định nghĩa  Trong hai thập niên 1980, 1990, khái niệm về NN bền vững đã được hình thành và rất khác nhau. Một vài khái niệm được phổ biến như sau: + Trong thập niên 80, Douglass G.K phân thành ba nhóm khác nhau về khái niệm:
  13. Nhóm thứ nhất: PTBV NN được nhấn mạnh chủ yếu vào khía cạnh KT - kỹ thuật (Technical and economic terms). Năng suất LĐ tăng và duy trì trong dài hạn là bằng chứng cho sự TTNN theo con đường bền vững. Nhóm thứ hai: PTBV NN được nhấn mạnh chủ yếu vào khía cạnh sinh thái (Ecological terms). Một hệ thống NN mà làm suy yếu, ô nhiễm và phá vỡ cân bằng sinh thái thì hệ thống đó không thể nào bền vững được. Nhóm thứ ba: PTBV NN được nhấn mạnh vào khía cạnh môi trường con người (Human enviroment). Một hệ thống NN không cải thiện được trình độ về giáo dục, sức khỏe và dinh dưỡng của người dân NT thì hệ thống đó không được xem là bền vững. + Trong những năm 90, một vài khái niệm khác xuất hiện: Nijkamp, Bergh và Soetoman (1990) cho rằng, sự bền vững được xem như là một sự cân bằng được đảm bảo giữa phát triển KT và bền vững sinh thái. Pearce và Turner (1990) cho rằng, sự PTBV NN được định nghĩa như là phát huy tối đa hóa lợi ích của sự phát triển KT trên cơ sở ràng buộc bởi duy trì chất lượng của nguồn lực tự nhiên theo thời gian và tuân thủ các quy luật sau: - Đối với những tài nguyên có thể tái sinh (rừng, đất, LĐ), việc sử dụng chúng phải đảm bảo ở mức thấp hơn khả năng tái sinh tự nhiên của chúng. - Đối với những tài nguyên không thể tái sinh được (máy móc, vật tư NN), việc phát huy tối đa hiệu quả sử dụng chúng phụ thuộc vào khả năng thay thế các nguồn lực này.  Khái niệm PTBV NN của tổ chức nông lương thế giới - FAO và Ủy ban PTBV của Liên Hợp Quốc: + FAO (1989), đã định nghĩa về PTBV NN như sau: PTBV là sự quản lý và bảo vệ cơ sở của nguồn lợi tự nhiên và phương hướng của các thay đổi kỹ thuật và thể chế theo một phương thức sao cho đảm bảo việc đạt được và thỏa mãn liên tục nhu cầu con người cho thế hệ này và mai sau. Sự PTBV như vậy trong lĩnh vực NN chính là sự bảo tồn được đất đai, nước, các nguồn gen động - thực vật, không làm thoái hóa môi trường, thích ứng về kỹ thuật, có sinh lợi về KT và chấp nhận được về mặt xã hội. Do đó một nền NN bền vững phải đạt được các chỉ tiêu sau: - Bảo đảm được nhu cầu dinh dưỡng của thế hệ này và các thế hệ sau về mặt số lượng cũng như chất lượng. - Cung cấp việc làm ổn định lâu dài, thu nhập đủ, điều kiện sống và làm việc thích hợp cho những người tham gia sản xuất NN. - Giữ vững và nếu có thể, tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở nguồn lợi tự nhiên về tổng thể, khả năng tái sinh của các nguồn lợi tái tạo được, không phá hoại sự hoạt động của các chu
  14. kỳ sinh thái cơ bản và các cân bằng tự nhiên, không phá vở bản sắc văn hóa - xã hội của các cộng đồng NT, không gây ô nhiễm môi trường. - Giảm thiểu khả năng bị tổn thương của các ngành NN do các nhân tố tự nhiên, KT-XH có hại và các rủi ro khác, củng cố sự tự lực cánh sinh, lòng tin trong nhân dân. + Ủy ban PTBV của Liên Hợp Quốc (1987) đã đưa ra khái nịêm PTBV rồi từ đó đề cập đến PTBV NN. “PTBV là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ này mà không làm thương tổn đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của chính họ”. Theo đó, một nền NN bền vững phải đạt được cả ba mục đích: - Giữ gìn và làm phong phú môi trường. - Đạt hiệu quả KT cao. - Đảm bảo công bằng KT và công bằng xã hội. Qua các định nghĩa trên cho thấy rằng, chưa có sự thống nhất về khái niệm PTBV NN giữa các nhà KT học. Tuy nhiên hầu hết các nhà KT học đều nhìn nhận rằng, PTBV NN là mô hình phát triển mà trong đó có sự ràng buộc giữa TTNN với môi trường tự nhiên, sự nghèo đói và môi trường con người ở NT. Do đó, để thấy được bản chất của PTBV NN, chúng ta cần xem xét đến các mối quan hệ giữa các yếu tố này. 1.1.2.2.2. Các mối quan hệ ràng buộc  Tăng trưởng nông nghiệp và môi trường tự nhiên - Theo Haen (1991), tất cả các dạng, hình thức sản xuất NN đều liên quan đến sự biến đổi của một hệ sinh thái. Mong muốn rằng nên tiến hành sản xuất NN như tình trạng nguyên thủy như tự nhiên là không thực tế. Do vậy, thách thức ở đây chính là sự can thiệp vào tự nhiên theo cách nào đó để thực hiện một cân bằng có thể chấp nhận được giữa lợi ích mang lại từ việc sử dụng, khai thác nguồn lực tự nhiên cho sản xuất với lợi ích từ việc giữ gìn chức năng sinh thái của nó. Vì vậy, nhiều nước phát triển trên thế giới đã và đang định hướng lại sản xuất NN - Sự PTNN không phải chỉ bằng mở rộng diện tích để tăng sản lượng, mà còn có thể tiến hành tăng sản lượng từ thâm canh trên một đơn vị diện tích và tăng vụ đối với diện tích được tưới tiêu chủ động. Do đó, vấn đề cốt lõi của sự mất cân bằng sinh thái không phải do tốc độ phát triển hoặc TTNN mà do phương thức để thực hiện sự tăng trưởng, phát triển đó [13, tr.21]. - Ngày nay, việc TTNN nhanh và ổn định là cần thiết. Tuy nhiên tăng trưởng nhanh hơn không nhất thiết phải làm hỏng môi trường sinh thái hơn. Từ mối quan hệ này cho thấy rằng mô hình PTBV NN là mô hình sử dụng các phương thức sản xuất tiến bộ để thực hiện TTNN nhưng không làm suy thoái cân bằng sinh thái của môi trường tự nhiên. Biểu hiện của NN bền vững trên khía cạnh này có thể được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
  15.  Tốc độ tăng trưởng bình quân/năm của NN so với tốc độ tăng trưởng dân số.  Năng suất đất và năng suất LĐ theo thời gian.  Diện tích rừng bị phá và khôi phục.  Độ màu mỡ của đất NN, độ nhiễm mặn của đất.  Tỷ lệ diện tích đất được tưới tiêu chủ động.  Tăng trưởng nông nghiệp và sự nghèo đói ở nông thôn Rao CHH và Chopra K (1991) tranh luận về mối quan hệ giữa TTNN và sự nghèo đói ở NT như sau: Trong quá trình TTNN, hai phương thức chủ yếu được thực hiện là quảng canh (extensification) và thâm canh (intensification). Quảng canh là tăng trưởng do mở rộng diện tích, thâm canh là tăng năng suất trên một đơn vị diện tích bằng cách tăng cường các yếu tố đầu vào do ngành CNH chất cung cấp. Đối với phương thức quảng canh, do bóc lột chất dinh dưỡng tự nhiên trong đất, mở rộng diện tích bởi phá rừng, TTNN có thể đạt trong ngắn hạn, nhưng khi môi trường tự nhiên bị suy thoái, sản lượng và thu nhập sẽ sụt giảm trong khi dân số tăng và hệ quả là thất nghiệp và sự nghèo đói xuất hiện. Đối với phương thức thâm canh, để đáp ứng nhu cầu TTNN nhanh, tình trạng lạm dụng cao các hóa chất (phân bón, thuốc trừ sâu) sẽ xuất hiện. Điều này làm suy thoái tài nguyên đất, nước. Một khi sự suy thoái này bắt đầu ảnh hưởng, năng suất và thu nhập giảm dần, trong khi dân số tăng và NT không giải quyết được việc làm thì tình trạng thất nghiệp sẽ tăng cao và nghèo đói sẽ xuất hiện. Do vậy, nếu không có những biện pháp sản xuất an toàn về môi trường, đảm bảo PTBV thì sẽ dẫn đến nghèo đói. Một khi bộ phận nông dân nghèo đói gia tăng, đối với họ để đáp ứng nhu cầu tồn tại ở hiện tại là quan trọng nhất, còn đáp ứng nhu cầu tương lai sẽ không có ý nghĩa. Do thu nhập thấp và thất nghiệp cao nên chi phí cơ hội của LĐ thấp. Trong bối cảnh đó, nông dân sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng hàng hóa tự nhiên của bộ phận dân cư có thu nhập cao bằng cách khai thác nguồn lực tự nhiên (nguồn lực công cộng) để kiếm thu nhập (phá rừng, săn bắn, đánh bắt mọi loài sinh vật với bất kể kích thước…). Hệ quả là môi trường tự nhiên tiếp tục suy thoái, thu nhập của họ sẽ giảm sút và rơi vào vòng lẩn quẩn nghèo đói. Như vậy, một hệ thống NN mà không đảm bảo được sinh kế bền vững trên mức nghèo đói cho người dân NT thì không thể nào là hệ thống NN bền vững được. Hay nói cách khác, mô hình NN bền vững là mô hình sử dụng các phương thức sản xuất tiến bộ để thực hiện TTNN nhưng không làm suy thoái cân bằng tự nhiên và đảm bảo được sinh kế bền vững trên mức nghèo đói cho nông dân.
  16. Biểu hiện của NN bền vững ở khía cạnh này có thể đo lường bởi các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ hộ nghèo đói - Tỷ lệ LĐ thất nghiệp ở vùng NT.  Tăng trưởng nông nghiệp và môi trường con người ở nông thôn Theo Braun JV (1991), quan tâm tới sự cân bằng của môi trường tự nhiên là chưa đủ, mà còn phải quan tâm tới môi trường mà trong đó người dân NT sinh sống như điều kiện nơi ở, chất lượng nước và thực phẩm, chăm sóc sức khỏe - bệnh tật, vệ sinh và văn hóa. Nói chung là tình trạng sức khỏe - dinh dưỡng và trình độ văn hóa của nguồn nhân lực NT.  Tăng trưởng nông nghiệp và môi trường sức khỏe - dinh dưỡng - Haddad và Bouis (1991), Stauss (1986) tranh luận rằng, TTNN và việc cải thiện môi trường sức khỏe - dinh dưỡng có mối quan hệ tương tác nhau. TTNN tạo ra việc làm và thu nhập. Kết quả này sẽ làm thuận tiện cho việc cải thiện sức khỏe - dinh dưỡng của nông dân. Một khi sự cải thiện này xuất hiện, đến lượt nó lại ảnh hưởng trở lại đến TTNN. Tuy nhiên nếu TTNN được thực hiện bằng phương thức mà gây ra suy thoái môi trường, điều này sẽ ảnh hưởng làm chậm TTNN, theo đó sẽ giảm ảnh hưởng tích cực của TTNN đối với sự cải thiện về tình trạng sức khỏe - dinh dưỡng. - Braun (1991) tranh luận rằng, nếu TTNN được thực hiện bởi phương thức sản xuất mà gây ảnh hưởng tới suy thoái môi trường thì nó sẽ ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng của người dân NT. Điều này được thể hiện trong hai trường hợp sau: (1) Trường hợp sử dụng phương thức thâm canh trong sản xuất NN nhưng: Do thiếu hoàn chỉnh về số lượng và chất lượng của các công trình thủy lợi, nước bị ô nhiễm, gia tăng muỗi, ruồi và các côn trùng khác. Điều này dễ dẫn tới sự phát triển các loại bệnh như: dịch tả, sốt rét, đường ruột,… Do sử dụng lượng thuốc trừ sâu không thích hợp, tình trạng ngộ độc phát sinh. Sử dụng nhiều phân bón hóa học nhưng thiếu hệ thống thủy nông nội đồng thoát nước làm cho lượng nitrat tăng và nhiễm vào nguồn nước sinh hoạt. Hệ quả là hàng loạt bệnh xuất hiện. (2) Trường hợp sử dụng phương thức quảng canh trong sản xuất NN do việc mở rộng diện tích đất NN bằng cách phá rừng, nguồn nước bị suy thoái và hệ quả là khô hạn, lũ, thay đổi thất thường về khí hậu. Hệ quả là sự mất an toàn lương thực, suy dinh dưỡng, nạn đói và hàng loạt bệnh tật liên quan đến lũ, hạn xuất hiện.  Tăng trưởng nông nghiệp và trình độ văn hóa của nông dân Theo Alves E. (1998), con đường thực hiện TTNN chính là thâm canh. Phương thức này đòi hỏi sử dụng các kỹ thuật sinh học như giống mới, nhiều phân bón, sự thay đổi cơ cấu cây trồng, kết hợp nông - lâm và NTTS, các kỹ thuật sinh - hóa chống lại sâu dịch bệnh. Nếu các kỹ thuật này có
  17. thể đảm bảo không làm suy thoái môi trường, NN sẽ đảm bảo tăng trưởng bền vững. Nhưng nếu trình độ văn hóa của nông dân quá thấp (tỷ lệ mù chữ cao) thì sẽ rất khó khăn cho họ để hiểu được các khái niệm về bền vững - suy thoái môi trường và hiểu được các kỹ thuật nhằm giảm suy thoái tài nguyên. Điều này trở thành rào cản cho việc áp dụng các kỹ thuật mới vừa đem lại lợi ích cho họ đồng thời vừa giữ gìn được môi trường. Do đó, TTNN mà không gắn với cải thiện trình độ dân trí NT sẽ ảnh hưởng tới suy thoái môi trường. Như vậy, một hệ thống NN mà không đảm bảo được sự bền vững trong việc cải thiện tình trạng sức khỏe - dinh dưỡng, trình độ văn hóa cho người dân NT thì không thể nào là hệ thống NN bền vững được. Biểu hiện của NN bền vững ở khía cạnh này được đo lường bởi các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ở NT. - Tỷ lệ tử vong của trẻ em sơ sinh - Tỷ lệ nông dân mắc bệnh sốt rét, đường ruột, dịch tả và ngộ độc. - Tỷ lệ nông dân mù chữ. Từ phân tích 3 mối quan hệ chủ yếu trên, PTBV NN có thể được hiểu khái quát như sau: PTBV nông nghiệp là sự phát triển mà đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng chung của nền KT nhưng không làm suy thoái môi trường tự nhiên - con người và đảm bảo được sinh kế bền vững trên mức nghèo đói cho người dân NT. 1.1.2.3. Phát triển nông thôn toàn diện Khái niệm về phát triển NT rất rộng và đa dạng, nó thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nền KT và tùy thuộc vào đặc điểm KT-XH của từng quốc gia. Nhìn chung, PTNT bao hàm chuyển biến và tiến bộ của các vùng NT trên tất cả các phương diện KT-XH, văn hóa, môi trường,… Ban đầu, khái niệm PTNT gắn liền với khái niệm PTNN, mục tiêu chính của PTNT là phát triển sản xuất NN để qua đó tăng thu nhập và cải thiện đời sống cư dân NT. Quan niệm này đã dẫn đến sự thành công của cuộc “cách mạng xanh”. Bước sang thập kỷ 1970, PTNT tiến sang cả lĩnh vực giáo dục, y tế, DV xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm PTKT nói chung. Lúc này xuất hiện khái niệm PTNT toàn diện. Thành công của chiến lược này là sự xuất hiện một số nước CN mới, nhất là các nước Đông Á. Mô tả khái niệm này, Michael Todaro nói: PTNT tổng hợp là cải thiện mức sống bao gồm thu nhập, việc làm giáo dục sức khỏe, dinh dưỡng, nhà ở và DV xã hội; giảm bớt sự mất cân bằng thu nhập ở NT, đặc biệt tăng thu nhập và cơ hội KT giữa NT và thành thị; tăng cường năng lực chống chịu của khu vực NT và thúc đẩy tốc độ của những phát triển trên [25, tr.3]. Bước vào thập niên 80, cùng với xu thế phát triển mạnh của quá trình toàn cầu hoá là sự
  18. chênh lệch, tụt hậu và đói nghèo của một số nhóm người yếu thế, các vùng sâu, vùng xa, thậm chí cả ở quy mô quốc gia, nơi xảy ra chiến tranh và thiên tai. Theo đó, ngân hàng thế giới và UNDP đưa ra chiến lược PTNT nhằm cải thiện đời sống KT- XH của dân nghèo NT (Johnston và Clark, 1982). Nội dung PTNT tập trung vào các hoạt động xóa đói giảm nghèo, giảm chêch lệch thu nhập và giàu nghèo, tăng khả năng tiếp cận hàng hóa và DV. PTNT là chiến lược và các hoạt động nhằm cải thiện đời sống KT-XH, văn hóa của một nhóm cư dân NT nhất định (dân nghèo ở NT), mở rộng lợi ích của quá trình phát triển đến cho những người nghèo nhất ở NT (bao gồm tiểu nông, tá điền, những người không có đất canh tác,...) nhằm tạo nên tiến trình PTNT một cách tự giác và ổn định. Bên cạnh các khái niệm trên, ngày nay tại các nền KT CN phát triển như: Nhật Bản, Châu Âu,… người ta đề cao quan niệm PTNT đa chức năng. Theo chủ trương này, NT không chỉ là địa bàn cư trú của cư dân NT và là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất NT mà chủ yếu là sản xuất NN. NT của thời đại “hậu CN” là NT đảm nhiệm những chức năng mà thành phố không đáp ứng được như: Bảo vệ và phát triển tài nguyên tự nhiên nhất là tài nguyên rừng, đất, nước đa dạng sinh học, khoáng sản. Bảo vệ và phát triển môi trường, bảo tồn và khai thác cảnh quan tự nhiên, duy trì các cân bằng sinh thái. Bảo tồn và phát triển các di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc, các địa phương. Giữ gìn và khai thác các giá trị văn hóa vật thể và kiến thức bản địa, các giá trị nhân văn và con người, khai thác các giá trị truyền thống. Đối với các nước đang phát triển, PTNT đa chức năng nhấn mạnh PTBV, phát triển KT-XH, chính trị, văn hóa, môi trường. Như vậy, các lý thuyết PTNT đều bắt nguồn từ yêu cầu thực tế. Tuy nhiên, mỗi khi lý luận PTNT ra đời phải mất thời gian tuyên truyền rộng rãi và mất 10 đến 15 năm mới có thể áp dụng trong thực tế. Nhìn chung, người ta thống nhất các mục tiêu lớn đối với PTNT đó là: (i) tăng trưởng KT nâng cao thu nhập cho người dân NT; (ii) tăng phúc lợi xã hội, nâng cao đời sống tinh thần cho cộng đồng dân cư NT; (iii) duy trì sự đứng vững của NT, đặc biệt là trong điều kiện quá trình CNH diễn ra nhanh như hiện nay. Tuy nhiên, các mục tiêu cơ bản này có thể thay đổi theo từng thời kì và từng quốc gia. 1.1.2.4. Việt Nam với Nghị quyết 7 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 26- NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 về NN, nông dân, NT. Để thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Chính phủ xây dựng Chương trình hành động với các nội dung chủ yếu sau:
  19.  Mục tiêu và yêu cầu của chương trình  Mục tiêu Mục tiêu của Chương trình hành động (Chương trình) nhằm: - Xây dựng nền NN theo hướng hiện đại, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đạt mức tăng trưởng 3,5 – 4%/năm; bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài. - Tập trung đào tạo nguồn nhân lực ở NT, chuyển một bộ phận LĐ NN sang CN và DV, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư NT tăng lên 2,5 lần so với hiện nay. - Nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của dân cư NT, nhất là ở các vùng còn nhiều khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân tham gia đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn vào quá trình CNH-HĐH đất nước. - Hoàn thiện đồng bộ kết cấu hạ tầng KT-XH NT; xây dựng NT mới bền vững theo hướng văn minh, giàu đẹp, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc; đảm bảo điều kiện học tập, chữa bệnh, sinh hoạt văn hóa, thể dục thể thao ở hầu hết các vùng NT gần với các đô thị trung bình. - Nâng cao năng lực phòng chống giảm nhẹ thiên tai, thực hiện một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, nhất là nước biển dâng.  Yêu cầu Yêu cầu của Chương trình là quán triệt sâu sắc quan điểm, mục tiêu và nội dung của Nghị quyết TƯ để xây dựng các chương trình KT-XH, các đề án chuyên ngành, cụ thể hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật. Trên cơ sở Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ, các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng kế hoạch cụ thể để chỉ đạo triển khai thực hiện.  Những nhiệm vụ chủ yếu Một là thống nhất nhận thức, hành động vềnông nghiệp, nông dân, nông thôn Các cơ quan chức năng ở các cấp tổ chức quán triệt và thực hiện tuyên truyền, giáo dục, vận động sâu rộng trong toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của NN, nông dân, NT trong quá trình CNH-HĐH đất nước; cụ thể hóa những chủ trương và giải pháp lớn, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị để triển khai các nội dung của Nghị quyết này, cũng như các Nghị quyết khác của Đảng và Nhà nước liên quan đến NN, nông dân, NT. Hai là xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia đến năm 2020 Tiếp tục triển khai đồng bộ, có hiệu quả ở địa bàn NT các Chương trình mục tiêu Quốc gia đã được phê duyệt. Triển khai xây dựng mới Chương trình mục tiêu Quốc gia sau đây: - Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng NT mới.
  20. - Chương trình mục tiêu Quốc gia về thích ứng với sự biến đổi khí hậu. - Chương trình mục tiêu Quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực NT. Ba là nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch Trong năm 2009 phải hoàn thành các quy hoạch sau: - Xây dựng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020. Trong đó, sớm hoàn thành quy hoạch sử dụng đất lúa để bảo đảm an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. - Rà soát và xây dựng mới các quy hoạch: tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025; quy hoạch vùng tỉnh; quy hoạch xây dựng điểm dân cư NT; quy hoạch khu dân cư vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai. - Rà soát, bổ sung quy hoạch các khu CN, cụm CN, khu KT, khu chế xuất đến năm 2015 và tầm nhìn 2020 theo nguyên tắc tận dụng tối đa đất đai không có khả năng làm NN để phát triển CN và DV. - Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển giao thông, chú trọng đến phát triển hệ thống giao thông ở các vùng khó khăn tạo điều kiện phát triển nhanh hơn; giao thông đến ven biển và các vùng trung du để phát triển CN, đô thị. - Rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển thủy lợi theo hướng đa mục tiêu, chú trọng đảm bảo nhu cầu tưới tiêu chủ động cho hầu hết diện tích lúa, NTTS và phục vụ dân sinh. - Rà soát, bổ sung quy hoạch về chuyển đổi cơ cấu sản xuất N-L-TS theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao. Bốn là xây dựng các đề án chuyên ngành theo các nhóm: - Xây dựng nền NN hiện đại, trong đó phải khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái, từng loại sản phẩm phù hợp với yêu cầu của thị trường, gắn sản xuất hàng hóa với CNCB và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả KT. - Phát triển CN, tiểu thủ CN và DV NT: xác định rõ những ngành nghề hỗ trợ trực tiếp cho sản xuất NN, CDCCKT, cơ cấu LĐ, góp phần tích cực vào việc tạo việc làm, tăng thu nhập của dân cư NT, gắn với việc hình thành các khu CN, cụm CN – DV, các khu chế xuất và phát triển đô thị ở NT. - Phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH NT: tập trung chủ yếu vào việc hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi, giao thông và các kết cấu hạ tầng XH đảm bảo yêu cầu phát triển đồng bộ, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ phát triển KT-XH ở NT, nhất là các vùng còn nhiều khó khăn. - Nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho dân cư NT: chú trọng tạo việc làm từ phát triển CN, tiểu thủ CN, ngành nghề NT và DV; chỉ đạo thực hiện đồng bộ chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, nỗ lực nâng cao nhanh đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số; phát triển giáo dục, y tế, văn hóa ở NT và thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2