Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát huy vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học chương “Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông ban Cơ bản
lượt xem 25
download
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát huy vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học chương “Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông ban Cơ bản nghiên cứu các quan niệm khác nhau về dạy học hướng vào người học (dạy - học lấy sinh làm trung tâm) để chọn một quan niệm, một chiến lược dạy học thích hợp có thể áp dụng vào dạy học chương Động học chất điểm, từ đó có thể mở rộng áp dụng cho những phần học khác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát huy vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học chương “Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông ban Cơ bản
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH TRẦN THANH BÌNH PHÁT HUY VAI TRÒ TRUNG TÂM CỦA HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC CHƯƠNG “ĐỘNG HỌC CHẤT ĐIỂM” LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG BAN CƠ BẢN Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật Lý Mã số: 60 14 10 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ THỊ THANH THẢO TP. Hồ Chí Minh – 2007
- LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên tôi xin thành thật cảm ơn sâu sắc đến TS. Lê Thị Thanh Thảo là người trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình làm luận văn. Lòng nhiệt tình, sự tận tâm chỉ dẫn cùng những lời động viên hết sức quý báu của cô là yếu tố góp phần đáng kể giúp tôi hoàn thành luận văn. Kế đến, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quý thầy cô giảng dạy đã tận tình chỉ dẫn tôi trong quá trình học tập. Tôi xin gởi lòi cảm ơn đến khoa Vật lý Trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, phòng KHCN- SĐH đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong quá trình học tập tại trường. Tôi xin gởi lời cảm ơn đến BGH trường THPT Trung Phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tại trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh và trong thời gian tôi tiến hành thực nghiệm. Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn động viên và giúp đỡ tôi trong những lúc khó khăn. Tất cả sự động viên, giúp đỡ của nhà trường, quý thầy cô , gia đình và bạn bè sẽ là động lực giúp tôi có thể tiếp bước trên con đường nghiên cứu khoa học. Tác giả Trần Thanh Bình
- Danh mục chữ viết tắt trong luận văn Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ THPT Trung học phổ thông SGK Sách giáo khoa WTO Tổ chức thương mại thế giới IQ Trí thông minh
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dạy học lấy học sinh làm trung tâm (hay dạy học hướng vào người học) là quan điểm dạy học ngày càng phổ biến từ vài thập niên trở lại đây ở tất cả các nền giáo dục tiên tiến và là cơ sở định hướng cho sự đổi mới không chỉ phương pháp dạy học, mà đổi mới tất cả các khâu khác của quá trình dạy học, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, đến cách thức tổ chức quá trình dạy học, cách thức đánh giá, … Ở Việt Nam quan niệm dạy học này đã bắt đầu được quan tâm nhiều từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX và nay đã trở thành khái niệm khá quen thuộc. Những cố gắng để phát huy ngày càng tốt hơn vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học trong những năm qua ở Việt Nam không chỉ thể hiện ở cố gắng đổi mới phương pháp dạy học giúp học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập mà cả việc đổi mới chương trình, nội dung học và đa dạng hóa chương trình, nội dung học để học sinh ngày càng có cơ hội phát triển cá nhân trong quá trình học tập. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau xung quanh khái niệm này, thể hiện không chỉ về mặt thuật ngữ như: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, dạy học hướng vào người học, … mà còn cả các quan niệm thế nào là học sinh là trung tâm? Ngay mức độ trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học ở nhiều quan niệm khác nhau cũng khác nhau, từ đó dẫn đến tồn tại nhiều chiến lược, phương pháp dạy học hướng vào người học khác nhau. Làm thế nào để việc dạy học trong bối cảnh giáo dục hiện nay có thể phát huy tốt nhất vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học, làm thế nào để đa số học sinh tìm thấy sự hứng thú và cơ hội học tập, cơ hội phát triển năng lực cá nhân trong một chương trình học còn nặng về nội dung như chương trình các môn học ở phổ thông của chúng ta hiện nay? Liệu có thể áp dụng thành công các lý thuyết dạy học hướng vào người học vào thực tiễn hiện nay?
- Đó là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứu: Phát huy vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học chương “Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông ban cơ bản. Đây là chương mở đầu của phần Cơ học chứa đựng nhiều khái niệm động học mới và khó, nội dung khá nặng, yêu cầu rất cao cả về kiến thức và kỹ năng, thời lượng phân phối không nhiều, nhất là thời lượng cho việc rèn kỹ năng giải quyết bài tập động học nên nhiều giáo viên chọn cách truyền đạt kiến thức đến học sinh và cố gắng cho học sinh hiểu lý thuyết khi tăng cường thời gian làm và chữa bài tập. Qua điều tra ban ñaàu cho thấy nhiều học sinh không hiểu nhiều khái niệm động học quan trọng với cách dạy này, dẫn đến khó khăn ở các phần học tiếp theo, hậu quả khi ngay bước đầu gặp khó khăn đã làm cho nhiều học sinh sợ môn vậy lý. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu các quan niệm khác nhau về dạy học hướng vào người học (dạy học lấy sinh làm trung tâm) để chọn một quan niệm, một chiến lược dạy học thích hợp có thể áp dụng vào dạy học chương Động học chất điểm, từ đó có thể mở rộng áp dụng cho những phần học khác. Bước đầu áp dụng vào thực tiễn để chứng minh rằng có thể phát huy tốt vai trò trung tâm của học sinh ngay ở chương đầu tiên của phần kiến thức đầu tiên trong chương trình vật lý phổ thông bằng chiến lược dạy học sẽ lựa chọn. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, cần phải thực hiện những nhiệm vụ sau: Nghiên cứu một số cơ sở lý luận về dạy học học sinh làm trung tâm (hay dạy học hướng vào người học). Lựa chọn một quan niệm mà theo phân tích có thể chỉ ra rằng quan niệm như vậy về vai trò trung tâm của học sinh là quan niệm vừa phù hợp với xu thế của dạy học hiện đại vừa có khả năng áp dụng trong thực tiễn hiện nay.
- Xây dựng các thiết kế dạy học các bài học của chương “Động học chất điểm” theo hướng phát huy tốt nhất vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học thể hiện ở việc phát huy tốt nhất tính tích cực, tự lực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Tiến hành thực hiện các thiết kế dạy học để bước đầu đánh giá mức độ khả thi của quan niệm dạy học này trong thực tiễn. 4. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện được nhiệm vụ trên, tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp nghiên cứu lý luận. Phương pháp phỏng vấn. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm. Thống kê toán học. 5. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Cơ sở lý luận dạy học học sinh làm trung tâm. Một số chiến lược dạy học hướng vào người học. Học sinh lớp 10 Ban cơ baûn trong quá trình dạy học chương “Động học chất điểm”. Chương trình, nội dung môn học vật lý 10 trung học phổ thông ban cơ baûn. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh nhằm phát huy vai trò trung tâm của học sinh trong dạy học chương “Động học chất điểm” lớp 10 ban cơ baûn. 6. Giới hạn nghiên cứu
- Một số quan niệm dạy học hướng vào người học vừa tiên tiến, phù hợp với xu thế của dạy học hiện đại vừa có khả năng triển khai trong thực tiễn dạy học vật lý hiện nay ở Việt Nam. Thiết kế quá trình dạy học chương “Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông (ban cơ baûn) nhằm phát huy tốt nhất vai trò trung tâm của học sinh trong những điều kiện có thể. Tiến hành thực nghiệm sư phạm ở một lớp để bước đầu đánh giá tính khả thi của quan niệm dạy học này khi dạy chương “Động học chất điểm”. 7. Dự kiến mức độ và kết quả đạt được Đưa ra một số cơ sở lý luận cần thiết của quan niệm dạy học hướng vào người học. Có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn các quan niệm khác nhau về vai trò trung tâm của học sinh trong các chiến lược dạy học khác nhau để từ đó lựa chọn một quan niệm vừa phù hợp với xu thế của dạy học hiện đại và vừa có khả năng triển khai trong thực tiễn dạy học vật lý hiện nay ở Việt Nam. Thiết kế quá trình dạy học theo quan niệm được lựa chọn. Bước đầu đánh giá chất lượng và hiệu quả của việc đổi mới cách thức tổ chức quá trình dạy học theo hướng phát huy vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học các bài học chủ yếu của chương “Động học chất điểm” lớp 10 trung học phổ thông ban cơ bản. Đưa ra một vài đề xuất về khả năng vận dụng quan niệm dạy học này rộng rãi hơn. 8. Giả thuyết nghiên cứu Có thể phát huy tốt vai trò trung tâm của học sinh ngay khi giảng dạy các chương đầu của một phần kiến thức nào đó thay cho cách dạy một chiều xưa nay, nghĩa là thay vì thụ động tiếp nhận các khái niệm mới thì học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, tự lực xây dựng hầu hết các khái niệm quan trọng. Ðiều này sẽ được tôi cố gắng chứng minh với việc thiết kế và thực hiện giảng dạy một số bài quan trọng của chương “Ðộng học chất điểm”.
- Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 1.1. Sự chuyển đổi từ giáo viên là trung tâm sang học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học trong lịch sử phát triển giáo dục và nguyên nhân của nó Như chúng ta đã biết, đất nước ta là một nước đang phát triển và đã trở thành thành viên của WTO. Trên con đường hội nhập và phát triển của đất nước, chúng ta đang rất cần những con người lao động có năng lực, năng động, tự chủ, sáng tạo. Nhưng những năng lực, phẩm chất ấy của con người không tự nhiên mà có mà đó là sản phẩm của giáo dục. Do đó, ngay khi còn trên ghế nhà trường học sinh cần phải được học tập với những phương pháp giáo dục, dạy học khơi dậy hứng thú, tính tích cực, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩ và hành động tự chủ, năng động, sáng tạo. Ở các nước phát triển vấn đề này đã đặt ra từ lâu và những thành quả nghiên cứu giáo dục tiên tiến đã góp phần không nhỏ từng bước nâng cao chất lượng giáo dục. Trong một hai thập niên trở lại đây nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực sinh lý học thần kinh và tâm lý học đã đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển các quan niệm dạy học trái ngược với quan niệm truyền thống trước đó, đó là các quan niện dạy học hướng vào người học mà trên cơ sở đó nhiều chiến lược dạy học tiên tiến được xây dựng và áp dụng theo hướng ngày càng phát huy cao hơn vai trò trung tâm của học sinh trong quá trình dạy học. [20] Còn ở nước ta, ngay từ thập niên 90 của thế kỷ XX Ðảng và Nhà nước ta đã nhận định: “Ðổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học, … áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề”.[10] “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”.[2]
- Những yêu cầu mà Ðảng ta đề ra cho giáo dục là yêu cầu đổi mới tư duy, phương pháp giáo dục, phải chuyển từ quan niệm dạy học giáo viên là trung tâm truyền thống lâu đời và quen thuộc sang quan niệm dạy học tiên tiến: coi học sinh là trung tâm của quá trình dạy học, giáo dục. 1.1.1. Quan niệm giáo viên là trung tâm của quá trình dạy học Có rất nhiều ý kiến, quan niệm giáo viên là trung tâm của quá trình dạy học. J. Dewey ( 1859-1952) (nhà giáo dục lỗi lạc mà nhiều người cho rằng ông là cha đẻ của quan niệm dạy học hướng vào người học), đã nói về dạy học hướng vào người dạy như sau [11]: Trong dạng thức hướng vào người dạy, các chuẩn, nội dung, phương pháp được quyết định bởi nhà giáo chứ không phải bởi người học. Mức độ tham gia của học sinh vào việc quyết định các quá trình và mục đích là tối thiểu. Mục đích bao trùm chỉ là đảm bảo cho họ điều ghi trong sách và những suy nghĩ của thầy mà chủ yếu là thông qua giao tiếp bằng lời. Phan Trọng Ngọ [15]: Dạy học hướng vào người dạy hay còn gọi là dạy học truyền thống là dạy học xuất phát từ lợi ích của người dạy, dựa trên hiểu biết của người dạy về nội dung dạy học. Người dạy quyết định sự tồn tại của quá trình dạy học. Các hoạt động của người dạy chủ yếu tập trung vào việc truyền thụ nội dung dạy học theo kênh truyền giảng của người dạy. Còn các yếu tố thuộc về người học (động cơ, nhu cầu của người học, đặc điểm tâm lý, trình độ hiểu biết của người học, tính tích cực tương tác của người học vào quá trình dạy học, sự phát triển của người học, …) thường ít được tôn trọng trong dạy học. Vì vậy, các phương pháp dạy học thường có tính thông báo một chiều, áp đặt từ phía người dạy đến người học . Nguyễn Cảnh Toàn [25]: Dạy học lấy người thầy làm trung tâm nhấn mạnh và đề cao vai trò quyết định của người thầy và của việc dạy. Thầy: Chủ thể, trung tâm, đem kiến thức sẵn có truyền đạt giảng dạy cho học sinh, thầy có đặc quyền về tri thức, đánh giá, thể chế người lớn. Trò: Thụ động tiếp thu những gì thầy truyền đạt, nghe, ghi nhớ và làm lại là người nhận.
- Tri thức: Nhớ lại, lặp lại, học thuộc lòng . Nguyễn Hữu Châu [7]: Dạy học giáo viên làm trung tâm có thể hiểu là cách dạy học trong đó giáo viên kiểm soát tất cả những nội dung và tiến trình dạy và học. Một lớp học với các phương pháp dạy học lấy giáo viên làm trung tâm thường có những đặc điểm sau: Trong quá trình dạy học, giáo viên nói nhiều hơn học sinh. Giảng dạy chủ yếu bằng cách thuyết trình cho cả lớp. Sách giáo khoa là tài liệu chính hướng dẫn nội dung những điều được dạy ở lớp. Giáo viên quyết định từng phần trong bài học. Bàn ghế thường được sắp xếp thành các dãy đối diện với bảng và giáo viên. Học sinh không được tự do di chuyển chỗ ngồi . Ngô Doãn Ðãi [9]: Dạy học lấy người thầy làm trung tâm: Là dạy học mà kiến thức được người thầy truyền thụ cho trò. Nguyễn Ðức Thâm [22]: Chiến lược giáo viên điều khiển, người giáo viên quyết định tất cả, điều khiển toàn bộ các hoạt động của quá trình dạy học từ đặt vấn đề mở đầu, giải quyết vấn đề, đánh giá và kết luận, còn học sinh thì thụ động ghi nhớ, nhắc lại . Phạm Hữu Tòng [24]: Theo kiểu dạy học truyền thống cũ, điều quan tâm chủ yếu của giáo viên là sự trình bày, giảng giải của mình về các kiến thức cần dạy cho học sinh, sao cho đảm bảo được nội dung chính xác, sâu sắc, đầy đủ, nghĩa là theo kiểu dạy học này trung tâm chú ý là nội dung các kiến thức cần dạy mà không quan tâm đến học sinh đạt được những gì trong và sau khi học. Qua các ý kiến trên của một số tác giả, ta có thể rút ra được những điểm chung như sau: Mục tiêu dạy học chủ yếu là kiến thức và một số các kỹ năng. Giáo viên là người quyết định toàn bộ các hoạt động của quá trình dạy học, từ nội dung đến hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và cách thức đánh giá học sinh.
- Học sinh đóng vai trò thụ động tiếp thu kiến thức. Sự khác nhau về đặc điểm tâm lý, nhận thức cá nhân của học sinh rất ít được quan tâm. Cơ sở lý luận chủ yếu của quan niệm dạy học này là lý thuyết về nhận thức và phát triển của Piaget (ông quan niệm rằng có 4 thời kỳ nhận thức: Thời kỳ giác động ( từ khi sinh ra đến 2 tuổi), thời kỳ tiền thao tác (từ 2 đến 7 tuổi), thời kỳ thao tác cụ thể (từ 7 đến 11 tuổi), thời kỳ thao tác hình thức (từ 11 tuổi trở đi)) [19] và lý thuyết vùng phát triển gần của L. Vưgôtxki (ông quan niệm rằng quá trình phát triển của trẻ em có hai mức độ là hiện tại và vùng phát triển gần) [16]…. Mà trong các lý thuyết này chỉ có sự khác biệt về tâm lý nhận thức lứa tuổi được coi trọng (học sinh trong một lớp học được cho rằng có đặc điểm tâm lý nhận thức và lứa tuổi giống nhau). Ðem so sánh quan điểm dạy học này với các phương pháp dạy học được sử dụng lâu nay trong thực tiễn giáo dục phổ thông cho thấy rõ quan niệm giáo viên là trung tâm của quá trình dạy học vẫn là quan niệm phổ biến… Trong thời gian gần đây, nhất là từ thập niên 90, sau những thành tựu mới đạt được quan trong trong nghiên cứu giáo dục và các khoa học liên quan thì quan niệm về dạy học đã dần thay đổi. Các phong trào đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực của học sinh ngày càng triển khai rộng rãi. Tuy nhiên, trong rất nhiều cố gắng đổi mới vẫn cho thấy chúng ta vẫn chưa thực sự bước ra khỏi quan niệm dạy học mà ở đó giáo viên vẫn giữ vai trò trung tâm, điều này thể hiện rất rõ nét ngay cả trong những giờ học mà bối cảnh cho thấy học sinh hình như được hoạt động nhiều (phát biểu ý kiến, làm thí nghiệm…). Giáo viên giữ vai trò trung tâm của quá trình dạy học thể hiện ở các đặc điểm sau: Giáo viên vẫn là người quyết định gần như toàn bộ quá trình dạy học, từ nội dung đến hình thức tổ chức, đến phương pháp dạy học và cách thức đánh giá, còn học sinh chủ yếu vẫn là thụ động lắng nghe, ghi chép, phát biểu khi giáo viên hỏi, làm thí nghiệm khi giáo viên yêu cầu…
- Học sinh chưa được quyền quyết định việc học tập của cá nhân, kể cả học tập ở nhà. Cách thức tổ chức quá trình dạy học chủ yếu là theo lớp, nếu có tổ chức nhóm học tập thì thể hiện chủ yếu là học sinh cùng làm một việc, chưa thể hiện rõ sự hợp tác trong công việc. Chưa phổ biến các hình thức đánh giá quá trình và tự đánh giá, kết quả học tập chủ yếu được đánh giá theo hình thức đồng loạt. …… 1.1.2. Quan niệm học sinh là trung tâm của quá trình dạy học Tương tự như quan niệm dạy học giáo viên làm trung tâm của quá trình dạy học, dạy học lấy học sinh làm trung tâm cũng có nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau ngay cả giữa các nhà nghiên cứu. Thực ra quan niệm dạy học hướng vào người học đã có từ rất lâu, tuy nhiên khi đó chúng chưa được đặt trên nền móng khoa học vững chắc do thiếu những thành tựu nghiên cứu có tính chất quyết định. Thử diểm lại lịch sử một chút: Joharn Heinrich Pestalozzi (1746 - 1827): (nhà giáo dục người Thụy Sỹ) [17]: Giáo dục là sự phát triển trí tuệ tâm hồn và thể chất. Giáo dục về phương diện thể chất là đào tạo con người có khả năng và thành công trong các hoạt động tay chân; về phương diện đạo đức là đào tạo con người hành động theo công bằng, lẽ phải, phù hợp với hướng tâm; về phương diện kiến thức là phải đào tạo con người biết sử dụng các giác quan một cách thích đáng khi quan sát sự vật, từ đó biết suy tính, biết lý luận để đi đến kết luận một cách sáng suốt và chính xác. Kiến thức, tư tưởng, hành động, đạo đức chỉ có liên quan đến sự việc có thực. Ðiều này đòi hỏi những bài học phải liên quan đến các sự việc thực tế để học sinh có thể liên tưởng đến cuộc sống chung quanh. Ta chỉ có thể hành động khi biết hành động như thế nào. Ðiều này có nghĩa là các bài học đều hướng về học sinh, lấy “học sinh làm trung tâm”. Ðể thực hiện việc giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm thì vai trò của người thầy là giảng giải, hướng dẫn, thúc đẩy các sinh hoạt, các bài thực hành, kiểm soát bài vở, theo dõi tiến bộ để từ đó tìm hiểu khả năng học tập,
- tìm hiểu những khó khăn, tìm hiểu bản chất của mỗi học sinh và cuối cùng là quyết định về cách thức giảng dạy và thay đổi cấu trúc chương trình giảng dạy cho phù hợp với học sinh. Friedrich Froebel (1782 - 1852) [17] : Học đường không phải chỉ là một cơ sở để học sinh tiếp nhận ít nhiều kiến thức, cũng không phải là nơi học sinh học hỏi những gì không liên hệ đến các em mà chính là nơi học sinh đến để được giáo dục về sự liên quan giữa con người với cộng đồng và thiên nhiên. Mỗi bài học phải đáp ứng được sở thích, thu hút được sự chú ý của học sinh. Như vậy, điều này chứng tỏ rõ ràng rằng theo quan điểm sư phạm giáo dục lấy học sinh làm trung tâm của Froebel, học đường không những có mối quan tâm lớn nhất là truyền bá kiến thức thực dụng đến học sinh mà còn tạo điều kiện và hoàn cảnh thuận lợi, khuyến khích, thúc đẩy các phương pháp học tập thích đáng, thực tế để học sinh có thể tiếp nhận kiến thức một cách có hiệu quả. J.Dewey, cha đẻ của quan niệm dạy học hướng vào người học [11]: Các quá trình hướng vào người học đảm bảo cho họ phân tích kinh nghiệm của mình, khuyến khích người học trở nên biết tự chỉ đạo và tự chịu trách nhiệm nhiều hơn. Việc học tập là quá trình xử lý kinh nghiệm trực tiếp của mình. Các kỹ năng được tích lũy không phải bằng luyện tập và ghi nhớ vẹt mà bằng những hoạt động mà người học tự tiến hành với sự giúp đỡ của người thầy để đáp ứng những lợi ích và nhu cầu của học sinh. Những tình thế và nhiệm vụ hiện tại được tiếp nhận và được giải quyết chứ không phải chỉ thụ động chờ đợi những yêu cầu và vấn đề của tương lai. Phan Trọng Ngọ [15]: Trong dạy học hướng vào người học, người học giữ vai trò chủ động việc học của mình, còn người dạy có chức năng trợ giúp các mức độ khác nhau trong những tình huống cụ thể. Nguyễn Cảnh Toàn [25]: Dạy học lấy học sinh làm trung tâm thì người học không còn là người tuyệt đối lệ thuộc vào thầy trò, mà là chủ thể có quan hệ trực tiếp với tri thức và bạn bè cùng học, thông qua hành động của chính mình. Trò: Chủ thể, trung tâm, tự mình tìm ra tri thức hành động của chính mình.
- Lớp: Cộng đồng lớp học, môi trường xã hội, nơi diễn ra sự hợp tác, đối thoại trò - trò, trò - thầy. Tri thức: Tự tìm ra với sự hợp tác của lớp học, sự hướng dẫn của thầy. Thầy: Hướng dẫn, tổ chức, đạo diễn, trọng tài, cố vấn cho trò tự mình tìm ra kiến thức với sự hợp tác của các bạn. Còn theo tác giả Nguyễn Hữu Châu [7] thì dạy học lấy học sinh làm trung tâm lớp học thường có những đặc điểm sau: Phần thảo luận của học sinh tương đương, thậm chí nhiều hơn phần giảng giải của giáo viên. Các hoạt động học tập được cá nhân tiến hành hoặc thực hiện trong các nhóm nhỏ thay cho việc giáo viên thuyết giảng cho cả lớp. Sử dụng nhiều loại tài liệu trong dạy học và cho phép học sinh sử dụng các tài liệu này một cách độc lập hoặc theo nhóm. Học sinh quyết định hướng đi của bài học thông qua mối quan hệ tương tác với giáo viên. Bàn ghế trong lớp được sắp xếp theo những hình thức hỗ trợ cho học sinh hoạt động độc lập hoặc theo nhóm. Học sinh có thể tự do đi lại khi đang học trong những trường hợp cần thiết. Ngô Doãn Ðãi [9]: Dạy học lấy người học làm trung tâm là dạy học mà kiến thức được người học tự tìm kiếm dưới sự hướng dẫn của thầy. Nguyễn Ðức Thâm [22]: Trong chiến lược lấy học sinh làm trung tâm thì học sinh quyết định tất cả từ mục đích, nội dung học đến lập kế hoạch học tập, cách thức giải quyết vấn đề học tập, các hành động học tập đến đánh giá kết quả và kết luận. Qua các ý kiến trên của các nhà giáo dục ta thấy có những điểm chung của các quan niệm dạy học hướng vào người học là: Giáo viên không phải là người quyết định toàn bộ quá trình dạy học mà chủ yếu giữ vai trò là người tổ chức, cố vấn, hỗ trợ học sinh.
- Học sinh đóng vai trò chủ động, được quyết định một phần nhiều hay ít việc học tập của mình. Quá trình dạy học là quá trình học sinh chủ động, tích cực, tự lực chiếm lĩnh kiến thức, kỹ năng. Quan tâm đến những đặc điểm cá nhân của học sinh, cố gắng tạo cơ hội cho tất cả học sinh học tập và phát triển. 1.2. Những điểm khác nhau cơ bản giữa quan điểm “Dạy học giáo viên làm trung tâm” và quan điểm “Dạy học học sinh làm trung tâm” [3], [21] Quan điểm dạy học Quan điểm dạy học giáo viên là trung tâm học sinh là trung tâm 1.2.1. Mục tiêu - Mục tiêu được đặt ra giống nhau cho tất Ngoài những mục tiêu chung, thì quan cả học sinh. Tất cả học sinh đều phải đạt điểm dạy học - học sinh làm trung tâm, còn tới một chuẩn mực đánh giá chung. hướng tới nhiều mục đích phát triển cá - Chú trọng cung cấp tri thức, kỹ năng, kỹ nhân mà học sinh có thể đạt được ở mức độ xão. Học để đối phó với thi cử. Sau khi thi không giống nhau (khả năng giao tiếp, hợp xong, những điều đã học thường bị bỏ quên tác, xử lý thông tin). Học để đáp ứng những hoặc ít dùng đến. yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. 1.2.2. Nội dung Tất cả học sinh học theo một chương trình, Từ nhiều nguồn khác nhau, ngoài SGK thì nội dung giống nhau theo những tài liệu còn các nguồn khác như các tài liệu khoa học tập bắt buộc phải dạy và học theo học phù hợp, các tài liệu trên mạng ( SGK) và từ giáo viên. Internet, gắn với: - Vốn hiểu biết, kinh nghiệm và nhu cầu của học sinh. - Tình huống thực tế, … - Những vấn đề học sinh quan tâm, … 1.2.3. Lý luận dạy học Xây dựng trên các lý thuyết tâm lý học, Xây dựng trên những thành tựu đã có và nhận thức nền tảng như lý thuyết của những thành tựu mới của tâm lý học sinh
- Piaget về sự phát triển trí tuệ theo lứa tuổi, lý, học thần kinh. lý thuyết L.Vưgôtski về khả năng phát triển - Lý thuyết Piaget, lý thuyết L.Vưgôtski . trí tuệ. - Khoa học về não: Sự khác nhau của các Trong lý luận dạy học này, thì tất cả các chức năng tư duy của hai bán cầu não. học sinh cùng một lứa tuổi (một bậc học, - Lý thuyết về sự đa dạng của trí thông một khối lớp) được cho rằng có đặc điểm minh. tâm lý, nhận thức giống nhau. Vì thế có thể - Lý thuyết về sự đa dạng của phong cách tổ chức quá trình dạy học theo một thiết kế học tập, phong cách tư duy. có tất cả học sinh. Việc lựa chọn phương Quan điểm dạy học hướng vào người học pháp dạy học khác nhau chủ yếu được coi những học sinh khác nhau là những chủ quyết định bởi nội dung học mà không phải thể khác nhau về rất nhiều đặc điểm tâm lý, bởi học sinh. sinh lý mà dạy học phải làm thế nào để giúp học sinh phát triển tốt nhất và toàn diện nhất. Theo quan niệm dạy học này thì phương pháp dạy học phải được lựa chọn để phát huy tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh có các phong cách học khác nhau. 1.2.4. Cách thức tổ chức quá trình dạy học Cố định, giới hạn trong 4 bức tường của Cơ động, linh hoạt, học theo nhóm và cả lớp học, giáo viên đối diện với cả lớp. lớp đối diện với giáo viên. 1.2.5. Cách thức đánh giá Do mục tiêu là chung cho tất cả các học Mỗi học sinh do có sự phát triển các cá sinh, cho nên cách thức đánh giá và thi cử nhân khác nhau nên cách thức đánh giá đều giống nhau cho tất cả các học sinh. cũng khác nhau. Cụ thể là giáo viên sẽ đánh giá theo nhóm, và các học sinh trong nhóm tự đánh giá lẫn nhau trong quá trình làm việc trên các phiếu học tập trong quá trình học và ở các phiếu giao việc về nhà.
- 1.3. Tổng quan về các lý thuyết dạy học hướng vào người học 1.3.1. Lý thuyết về sự khác nhau của các chức năng tư duy của hai bán cầu não phải và bán cầu não trái [1] Những thành tựu nghiên cứu sinh lý học thần kinh (khoa học về não) ở cuối thế kỷ XX cho thấy hai bán cầu não có các chức năng tư duy khác nhau: Não trái Não phải 1. Logic. 1. Trực giác 2. Ngôn ngữ 2. Thị giác phi ngôn ngữ. 3. Mặt phẳng 3. Không gian ba chiều. 4. Phân tích 4. Sáng tạo 5. Lý trí 5. Tổng thể 6. Nghiêm túc. 6. Nghệ sĩ 7. Dứt khoát, rõ ràng. 7. Khôi hài. 8. Có khuynh hướng hiểu ký hiệu (chữ 8. Có khuynh hướng xem vật cụ thể và cái, từ) luôn là người đọc rất tồi. 9. Tích luỹ kinh nghiệm qua sách, vở. 9. Cần có tranh minh họa để hình dung hiện thực rõ ràng. 10. Sử dụng thị giác và thị giác hành vi 10. Sử dụng thị giác và chuyển động hành vi. 11. Tất cả chỉ dẫn dưới dạng chữ viết, cụ 11. Dễ bị xao lãng, thích giải trí. thể, rõ ràng. 12. Lập lại thông tin. 12. Thích quan hệ tình cảm hơn là quan hệ quyền lực. 13. Không thích những dạng bài tập lạ 13. Thích bài tập lạ, thiên về sáng tạo. không có cấu trúc quen thuộc. 14. Làm việc dựa trên tiêu chuẩn (đánh 14. Phán đoán và dựa vào trực giác. giá) 15. Muốn thông tin được viết ra. 15. Muốn thông tin trình bày dưới dạng sơ đồ. 16. Hướng nội. 16. Hướng ngoại
- 17. Từ (thuật ngữ) 17. Hình ảnh. 18. Số 18. Mẫu 19. Từng phần 19. Tổng thể 20. Mọi vấn đề liên kết theo thứ tự, đường 20. Mọi vấn đề liên kết trong một tổng thể thẳng. và đồng thời. Não trái Não phải Não trái là trung tâm điều khiển các Não phải là trung tâm kiểm soát các chức chức năng trí tuệ như ghi nhớ ngôn năng như trực giác, ngoại cảm, thái độ, xúc ngữ, lý luận, tính toán, sắp xếp, cảm, liên kết về thị giác và không gian, cảm phân loại, viết, phân tích và tư duy nhận âm nhạc, nhịp điệu, vũ điệu, các loại quy nạp. hoạt động phối hợp thể lực, các quá trình tư duy tổng hợp và tự duy suy diễn. Các chức năng của não trái có đặc Các chức năng não phải có đặc điểm ngẫu điểm là tuần tự, hệ thống. hứng, tản mạn. Não trái có thể ghép mảnh rời Não phải lại nhìn thấy cái tổng thể trước thành tổng thể (từ chi tiết đến tổng (nắm cái tổng thể bằng trực giác, linh cảm; thể, tuần tự theo quy trình: cứ làm nhận ra kết quả cuối cùng rồi mới làm, sau rồi sẽ biết) đó mới mổ xẻ thành chi tiết). Tư duy não trái là tố chất phát triển Tuy duy não phải là tố chất phát triển óc trí thông minh. sáng tạo. Ðịnh hướng bằng quy trình. Ðịnh hướng bằng hình ảnh, biểu đồ. Ðặt và trả lời câu hỏi tuần tự. Ðặt và trả lời câu hỏi đủ loại, ngẫu hứng. Theo quan điểm cũ các chức năng của bán cầu não trái luôn được coi là trội hơn, nó như một đặc điểm chung của con người mang tính bẩm sinh, di truyền, còn theo các thành tựu khoa học mới trong lĩnh vực này cho thấy sở dĩ có vấn đề trên (sự phát triển trội hơn của các chức năng tư duy thuộc não trái) chủ yếu là do tác động của giáo dục chứ không phải chỉ do yếu tố di truyền mang tính loài, người ta khi sinh ra có thể có sự đồng đều hay không đồng đều giữa các chức năng của hai bán cầu não nhưng sự phát triển tiếp theo phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục. Giáo
- dục có thể làm cho người phát triển cân bằng các chức năng tư duy của cả hai bán cầu não và ngược lại, giáo dục có thể làm mất đi tính trội bẩm sinh của nhiều chức năng tư duy của một trong hai bán cầu não hoặc làm phát triển thiên lệch các chứa năng tư duy của một trong hai bán cầu não. Cũng theo các nghiên cứu này, giáo dục theo quan niệm truyền thống (giáo viên là trung tâm) kích thích sự phát triển các chức năng tư duy của bán cầu não trái. Những học sinh bẩm sinh có sự phát triển trội não phải gặp rất nhiều khó khăn trong môi trường giáo dục này, họ không tím thấy hứng thú và cơ hội học tập, phát triển cá nhân. Vấn đề đặt ra là dạy học phải làm thế nào để học sinh có các phong cách học tập, phong cách tư duy khác nhau, học sinh có não phải phát triển trội hơn cũng tìm thấy sự thích ứng và có cơ hội phát triển cá nhân nhờ học tập. Quan điểm giáo dục đúng đắn cần phải là: Con người khi sinh ra có thể có sự phát triển trội một số chức năng tư duy của một trong hai bán cầu não, nhưng hai nữa bán cầu não cần phải tạo điều kiện để hoạt động, phát triển cân bằng và phối hợp tốt với nhau để con người phát triển toàn diện về cả trí tuệ và thể lực, về cả suy nghĩ và hành động, bởi các chức năng tư duy của cả hai bán cầu não đều cần thiết để con người giải quyết một cách sáng tạo các vấn đề khác nhau, đều là tiền đề cần thiết giúp mỗi người thành công trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn khác nhau (người có não phải phát triển trội hơn thường có những ý tưởng hay, có khả năng sáng tạo, có hình dung toàn cục tốt, nhưng lại là người ngẫu hứng, để giải quyết vấn đề họ phải học cách thực hiện công việc từng bước, tuần tự với logic chặt chẽ, thuyết phục. Ngược lại, người có sự phát triển trội một số chức năng tư duy não trái thì cũng cần phải rèn luyện để có thêm khả năng sáng tạo, biết cách đưa ra những ý tưởng hay …) 1.3.2. Lý thuyết về sự đa dạng trí thông minh [18 ] Kinh nghiệm đời sống hằng ngày cho thấy có cá nhân có khả năng diễn tả qua ngôn ngữ tốt nhưng không có khả năng âm nhạc; có cá nhân có thể diễn tả tư tưởng qua hội họa nhưng không có khả năng về trình diễn nghệ thuật.
- Theo Haward Gardner thì có ít nhất bảy lĩnh vực khác biệt của trí thông minh: Trí thông minh ngôn ngữ: Loại trí thông minh này là một hình thức hiểu biết cao độ của các thi sĩ, văn sĩ, nhà soạn kịch, học giả, … có khả năng sử dụng một cách sáng tạo về từ ngữ, phân tích, tổng hợp, suy luận, ẩn dụ một cách hữu hiệu. Trí thông minh âm nhạc: Ðây là khả năng thiên tài của các nhạc sĩ, các nhà soạn nhạc lừng danh. Trí thông minh này tiềm ẩn trong ký ức nhà thông thái, chỉ đợi thời gian và hoàn toàn cảnh để bộc phát. Trí thông minh lý luận toán học: Khả năng thiên tài toán học với óc lý luận siêu việt. Từ khả năng này, nhà bác học thông thảo nhiều lĩnh vực khác liên quan đến toán học như vậy lý, nguyên tử, sinh học, … Trí thông minh các lĩnh vực không gian: Ðây là lĩnh vực hoạt động của các kiến trúc sư, các kỹ sư, các họa sĩ. Các nhân vật thuộc lĩnh vực này có những cái nhìn đặc thù về không gian, có những viễn ảnh tương lai khác hẳn người thường. Trí thông minh trình diễn thể hình: Ðây là lĩnh vực hoạt động của các lực sĩ, các đấu thủ tranh tài các môn thể dục thể thao; các nghệ sĩ trình diễn xiếc, múa. Trí thông minh này liên quan đến nghệ thuật trình diễn và kiểm soát thể lực. Trí thông minh nội tâm: Ðây là lĩnh vực hoạt động của các nhà tư tưởng, các triết gia, các nhà sáng lập tôn giáo. Trí thông minh xã hội: Sự hiểu biết tường tận về mọi hoàn cảnh xã hội, lý do và hậu quả của các biến chuyển. Ðây là lĩnh vực hoạt động của các nhà xã hội học, các nhà tâm lý, các nhà giáo dục, các chính trị gia, các nhà luật pháp, … về các lĩnh vực gia đình, tình bạn, học đường, mọi tầng lớp dân chúng, hành chính, luật pháp. Quan niệm giáo dục đúng đắn là giáo dục phải làm thế nào tạo cơ hội tốt nhất cho sự phát triển đa dạng của trí thông minh. (UNESCO đã khẳng định: Thế kỷ XXI là thế kỷ thành công của nhân cách đa dạng và sự sáng tạo…)
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn thạc sĩ giáo dục: Bồ dưỡng phương pháp thực nghiệm Vật lý cho học sinh khi dạy học một số kiến thức chương "chất khí" Vật lý 10, chương trình chuẩn
134 p | 593 | 134
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý công tác xã hội hóa giáo dục ở các trường trung học cơ sở huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long
97 p | 794 | 131
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý công tác bồi dưỡng tổ trưởng chuyên môn trường tiểu học trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
26 p | 461 | 115
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục đạo đức cho học sinh ở các trường trung học phổ thông tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
170 p | 552 | 105
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ 5 - 6 tuổi trong trò chơi dân gian
123 p | 702 | 96
-
Luận văn thạc sĩ Giáo dục học: Khảo sát các kỹ thuật dạy môn biên dịch tại khoa tiếng Anh trường Đại học Tây Nguyên
70 p | 850 | 94
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ở các trường trung học phổ thông huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
157 p | 491 | 90
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý đội ngũ giáo viên các Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Bình Dương
145 p | 294 | 67
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên trường trung học văn hóa nghệ thuật Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay
26 p | 453 | 66
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục kỹ năng nhận biết và thể hiện cảm xúc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
167 p | 350 | 61
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục tính sáng tạo cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi tại góc tạo hình
122 p | 303 | 56
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phối hợp quản lý giáo dục đạo đức của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và nhà trường đối với học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
72 p | 248 | 56
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ giáo dục học: Biện pháp quản lý bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trung học phổ thông các huyện miền núi tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay
13 p | 338 | 55
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp giáo dục thói quen tiết kiệm cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở một số trường mầm non tại thành phố Hồ Chí Minh
164 p | 368 | 51
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Phát triển năng lực dạy trẻ làm quen biểu tượng toán học cho sinh viên ngành Giáo dục Mầm non
116 p | 260 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Biện pháp nâng cao khả năng ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong việc tổ chức hoạt động giáo dục tại một số trường mầm non nội thành thành phố Hồ Chí Minh
201 p | 175 | 34
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Sử dụng phương pháp kỷ luật tích cực trong giáo dục học sinh trường trung học phổ thông Huyện Thanh Ba - Tỉnh Phú Thọ
107 p | 47 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Đổi mới tổ chức và hoạt động của thanh tra giáo dục trên địa bàn huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương
70 p | 129 | 14
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn