intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đăk Lăk

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

104
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đăk Lăk nghiên cứu thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP Đăk Lăk, trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV của nhà trường, góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay ở tỉnh Đăk Lăk.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đăk Lăk

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phaïm Vaên Luaät Chuyên ngành : Quản lý giáo dục Mã số : 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ MINH HÀ Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
  2. LỜI CẢM ƠN Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình quý báu của các thầy cô giáo, các bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến: - TS. Lê Thị Minh Hà, người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. - Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm TP. HCM, Phòng Khoa học Công nghệ & Sau Đại học, Khoa Tâm lý Giáo dục học, quý thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp. - Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Cao đẳng Sư phạm ĐăkLăk đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn. - Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, những bạn bè thân hữu đã dành tình cảm, động viên và giúp đỡ tôi học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn này. Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2008 Tác giả luận văn Phạm Văn Luật
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BD : Bồi dưỡng CBQL : Cán bộ quản lý CĐ : Cao đẳng CĐSP : Cao đẳng Sư phạm CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa ĐH : Đại học ĐHSP : Đại học Sư phạm ĐT : Đào tạo ĐT – QLNCKH : Đào tạo – Quản lý nghiên cứu khoa học GIAÙO DUÏC : Giáo dục GD & ĐT : Giáo dục và Đào tạo GV : Giảng viên NCKH : Nghiên cứu khoa học NCS : Nghiên cứu sinh QLGD : Quản lý giáo dục TCCB : Tổ chức cán bộ THCS : Trung học cơ sở ThS : Thạc sỹ TS : Tiến sỹ UBND : Ủy ban Nhân dân
  4. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, nhân loại đang bước quá độ sang nền kinh tế tri thức. Xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ đang diễn ra trên toàn thế giới làm cho lợi thế cạnh tranh ngày càng nghiêng về những quốc gia có nguồn lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ tri thức và công nhân lành nghề. Vì vậy, việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ trí tuệ và tay nghề cao nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh là cách làm thông minh để chủ động hội nhập vào xu thế sau này. Hiện nay, Việt Nam đang trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH), vì vậy việc đào tạo nguồn nhân lực trở thành một vấn đề cấp thiết. Nghị quyết Trung ương 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã nêu rõ: “Muốn tiến hành CNH – HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo (GD & ĐT), phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững”. Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao – một trong những mục tiêu ưu tiên của chiến lược phát triển giáo dục (GD) ở nước ta từ năm 2001 đến 2010. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Phát triển khoa học công nghệ cùng với phát triển GD & ĐT là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực cho CNH – HĐH đất nước.”. Từ kinh nghiệm thực tế của các nước phát triển đi trước cho thấy, muốn chấn hưng quốc gia trước hết phải chấn hưng GD & ĐT, muốn chấn hưng GD & ĐT trước hết phải chấn hưng các trường sư phạm, muốn chấn hưng các trường sư phạm trước hết phải chấn hưng đội ngũ GV. Do vậy, hiện nay việc bảo đảm đủ số lượng, cơ cấu hợp lý và nâng cao chất lượng đội ngũ GV các trường Cao đẳng Sư phạm (CĐSP) trên tất cả các mặt: Tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực sư phạm… là nhiệm vụ cần thiết và bức xúc của ngành GD & ĐT nói chung và mỗi trường sư phạm nói riêng. Trường CĐSP ĐăkLăk, tiền thân là trường CĐSP Buôn Ma Thuột (thành lập năm 1976). Trong những năm qua, Nhà trường đã có những đóng góp tích cực trong
  5. việc ĐT, BD giáo viên Tiểu học và Trung học cơ sở cho hai tỉnh ĐăkLăk và Đăk Nông. Để đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý GD và nâng cao chất lượng GD & ĐT toàn diện, vấn đề quản lý đội ngũ GV của trường đòi hỏi đặc biệt quan tâm. Vì vậy, việc xây dựng và quản lý được một đội ngũ GV đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu là vấn đề quan trọng, then chốt cần được đặt ra và có biện pháp giải quyết. Hiện nay, việc quản lý đội ngũ GV của ngành sư phạm đã và đang thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý GD. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu quản lý đội ngũ GV các trường CĐSP ở các cấp độ khác nhau. Song, thực trạng và những giải pháp quản lý đội ngũ GV ở trường CĐSP ĐăkLăk chưa có đề tài nào nghiên cứu. Từ những nhận thức trên chúng tôi định hướng nghiên cứu vấn đề quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk. Trên cơ sở xem xét đội ngũ GV về một số khía cạnh cơ bản, từ đó đưa ra những giải pháp quản lý đội ngũ GV để đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng cao mà xã hội đặt ra cho ngành sư phạm nói chung và trường CĐSP ĐăkLăk nói riêng. Đó là lý do của đề tài: “Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk”. 2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 2.1. Mục đích của đề tài Nghiên cứu thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk, trên cơ sở đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV của nhà trường, góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay ở tỉnh ĐăkLăk. 2.2. Nhiệm vụ đề tài - Nghiên cứu vấn đề lý luận liên quan đến đề tài. - Nghiên cứu thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk hiện nay. - Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk.
  6. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk. 3.2. Khách thể nghiên cứu Đội ngũ GV và hoạt động quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk. 4. Giả thuyết nghiên cứu Trên cơ sở đánh giá thực trạng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk và có các giải pháp quản lý một cách khoa học thì chất lượng quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk sẽ được nâng cao, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển của trường trong giai đoạn mới. 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận Phân tích và tổng hợp lý thuyết nhằm xây dựng cơ sở lý luận của đề tài. 5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động quản lý của CBQL trường CĐSP ĐăkLăk, quan sát việc dạy và học của GV và sinh viên, quan sát sự phối hợp hoạt động của các phòng, ban, trung tâm, khoa, tổ bộ môn có liên quan. - Phương pháp điều tra (an-két): Điều tra để thu thập ý kiến, làm rõ thực trạng và các giải pháp quản lý đội ngũ GV thông qua hai loại phiếu hỏi bao gồm: Xin ý kiến của CBQL và đội ngũ GV tại trường CĐSP ĐăkLăk. - Phương pháp thống kê toán học: Dùng để xử lý số liệu nghiên cứu. - Các phương pháp hỗ trợ khác: Ngoài các phương pháp nêu trên, tác giả còn dùng các phương pháp hỗ trợ khác để làm sáng tỏ thêm vấn đề nghiên cứu như: phương pháp trò chuyện, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia...
  7. 6. Phạm vi nghiên cứu đề tài Thực trạng và một số giải pháp quản lý đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk. 7. Ý nghĩa của đề tài 7.1. Về mặt lý luận Xác định cơ sở lý luận của việc quản lý đội ngũ GV của trường CĐSP ĐăkLăk. 7.2. Về mặt thực tiễn Đề xuất các giải pháp phù hợp mang tính cấp thiết và khả thi nhằm quản lý hiệu quả đội ngũ GV trường CĐSP ĐăkLăk, góp phần nâng cao năng lực quản lý lãnh đạo, chất lượng đội ngũ GV và chất lượng ĐT của trường sư phạm trong giai đoạn hiện nay.
  8. Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Thực tiễn GD ở các nước trên thế giới cũng như ở nước ta đã khẳng định điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng GD là chất lượng và động lực dạy học của đội ngũ giáo viên; giáo viên là nhân vật trung tâm của mọi chương trình cải cách, cải tổ, đổi mới GD. Vì vậy, vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên đã sớm được đề cập trong các công trình nghiên cứu lý luận nhằm chỉ đạo thực tiễn hoạt động GD ở mỗi quốc gia và có tầm ảnh hưởng quốc tế. Ở Việt Nam, một năm sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký sắc lệnh số 194 ngày 8 tháng 10 năm 1946 về việc thành lập ngành sư phạm. Sắc lệnh nêu rõ “Ngành học sư phạm có mục đích đào tạo những nam nữ giáo viên cho các bậc học cơ bản, Trung học phổ thông, Trung học chuyên khoa, Thực nghiệp và chuyên nghiệp trong toàn quốc” (Điều 1). Sắc lệnh cũng khẳng định bắt đầu từ những năm 1950 chỉ tuyển nam nữ giáo viên cho các bậc học phổ thông và chuyên nghiệp trong những người có bằng sư phạm sơ cấp, trung cấp hoặc cao cấp (Điều 5). Như vậy, ngay từ đầu, sư phạm được xác định là một ngành học, có nhiệm vụ ĐT giáo viên không chỉ cho GD phổ thông mà cho cả GD chuyên nghiệp, tất cả các loại giáo viên đều phải qua đào tạo ở các trường sư phạm. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mĩ, suốt 30 năm chiến tranh gian khổ, ngành sư phạm đã không ngừng phát triển, đáp ứng nhu cầu giáo viên để phát triển sự nghiệp GD. Ngành sư phạm luôn chiếm tỷ trọng lớn về số trường, số học sinh trong khối các trường Trung cấp Chuyên nghiệp. CĐ và ĐH được xem là “máy cái”, là “công nghiệp nặng” của GD. Sau ngày thống nhất đất nước, ngành sư phạm càng phát triển nhanh chóng. Đến năm 1991, cả nước có hơn 150 trường và cơ sở đào tạo giáo viên các cấp từ giáo viên Mầm non đến giáo viên THPT. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới các trường trong hệ thống GD quốc dân, các trường sư phạm đã được tổ chức lại
  9. một bước. Đến năm 1995 hệ thống sư phạm còn lại 105 cơ sở ĐT giáo viên, trong đó có 10 ĐHSP, 34 CĐSP, 36 Trung cấp Sư phạm. Đến nay, các trường sư phạm đã nâng công suất lên 14 vạn chỗ ĐT, hàng năm cho ra trường 5 vạn giáo viên mới. Bước vào thời kỳ đổi mới GD, hệ thống các trường sư phạm đang tiếp tục được sắp xếp lại theo hướng hình thành các trung tâm sư phạm đa cấp, đa hệ. Đội ngũ cán bộ giảng dạy các trường sư phạm ngày càng trưởng thành cả về số lượng và trình độ khoa học. Những tư tưởng chỉ đạo đổi mới công tác ĐT, BD giáo viên, củng cố hệ thống sư phạm đã được liên tiếp đề ra trong các Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, Trung ương 2 khóa VIII, Nghị quyết 14 của Chính phủ về đổi mới cơ bản toàn diện GD ĐH Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng IX, X, Chiến lược phát triển GD 2001 – 2010, Chỉ thị 40 của Ban Bí thư Trung ương về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL GD. Vận dụng các quan điểm chỉ đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng phát triển đội ngũ GV, kết hợp với sự kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực của các nước có nền giáo dục phát triển đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn GD của Việt Nam đặt ra. Những năm gần đây, xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về quản lý và phát triển nguồn nhân lực GD như: - “Quản lý đội ngũ” của Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc [15]; - “Vấn đề GV, những nghiên cứu lý luận và thực tiễn” của Trần Bá Hoành [23]; - “Quản lý chất lượng ĐT” của Nguyễn Đức Chính [16]; - “Phương pháp tiếp cận trong nghiên cứu phát triển nguồn lực” của Phan Văn Kha [22]; - “Một số cách tiếp cận trong nghiên cứu và phát triển đội ngũ GV” của Bùi Văn Quân [33];
  10. - “Về nội dung quản lý đội ngũ GV ĐH, CĐ trong thời kỳ đổi mới” của Dương Đức Báu [13]; - “Thực trạng và một số giải pháp xây dựng đội ngũ GV các trường ĐH, CĐ” của Phạm Văn Thanh [34]; - “Một số yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng ĐT nguồn nhân lực tại trường ĐH” của Nguyễn Ánh Hồng [21]; Nhiều đề tài nghiên cứu có tính chuyên đề đi sâu các vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý xây dựng và phát triển độ ngũ GV như: - “Các giải pháp xây dựng phát triển đội ngũ GV trường ĐH Giao thông Vận tải theo hướng chuẩn hóa” của Phạm Văn Toàn [37]; - “Nghiên cứu khoa học của giảng viên ĐH – một yếu tố đảm bảo chất lượng ĐT” của Nguyễn Ngọc Lan [26]; - “Logic nội dung và các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài về giải pháp quản lý GD” của Nguyễn Phúc Châu [14]. Công tác quản lý đội ngũ GV là vấn đề được các cơ sở giáo dục ĐH đặc biệt quan tâm. Nhiều tác giả là những nhà quản lý, GV ở các trường ĐH đã có các báo cáo khoa học xuất sắc, đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn phong phú về quản lý đội ngũ GV ở từng cơ sở ĐT đã trình bày tại Hội thảo chuyên đề này tại trường ĐH Cần Thơ – 2002 như: - “Đổi mới công tác GV để nâng cao chất lượng ĐT trong các trường ĐH, CĐ” của Lê Đức Ngọc – ĐH Quốc gia Hà Nội. - “Quản lý GV là quản lý chất lượng ĐT” của Võ Xuân Đàn - Trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh. - “Các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở trường ĐH Vinh” của Nguyễn Đình Huân – ĐH Vinh. - “Công tác ĐT, BD đội ngũ GV của ĐH Thái Nguyên” của Tô Văn Bình – ĐH Thái Nguyên. - “Một số kinh nghiệm về xây dựng, BD và phát triển đội ngũ GV ở trường CĐSP Hưng Yên” của Trần Văn Cường – CĐSP Hưng Yên.
  11. Ngoài những công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học nêu trên, có nhiều luận văn ThS được công bố đã đề xuất được những giải pháp khả thi về quản lý, xây dựng và phát triển đội ngũ GV phù hợp hoàn cảnh thực tế tại các địa bàn cụ thể như: - “Một số biện pháp xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy trường CĐSP Bình Định” (2002) của Võ Văn Bồng; - “Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GV trường CĐ Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp II” (2005) của Đỗ Thị Cúc; - “Thực trạng và giải pháp quản lý đội ngũ GV ở trường CĐSP Phú Yên” (2006) của Lê Bạt Sơn; - “Quản lý hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học của GV trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Tp. Hồ Chí Minh” (2007) của Nguyễn Thị Thanh Nga. Như vậy, công tác quản lý đội ngũ GV hiện nay là một vấn đề vừa quan trọng vừa mang tính cấp thiết, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan quản lý GD, nhiều cơ sở ĐT, nhiều nhà khoa học và đông đảo GV, giáo viên trong ngành và nhiều người quan tâm đến lĩnh vực GD. Tuy nhiên, các công trình, báo cáo, bài báo khoa học đó mới chỉ đi sâu vào những góc cạnh và một số nội dung nhất định của vấn đề. Việc nghiên cứu, ứng dụng các kết quả nghiên cứu về vấn đề này nhằm từng bước nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ GV của trường CĐSP ĐăkLăk là vấn đề mới, chưa được tác giả nào đề cập trong các công trình nghiên cứu đã được công bố. 1.2. Cơ sở lý luận 1.2.1. Khái niệm về quản lý Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát triển đều phải có sự quản lý để tổ chức, điều hành, hướng dẫn mọi người, mọi bộ phận trong tổ chức hoạt động theo kế hoạch và đạt mục tiêu của tổ chức. Hoạt động quản lý chỉ nảy sinh khi có tổ chức; tổ chức không thể phát triển nếu thiếu hoạt động quản lý.
  12. Khái niệm quản lý là khái niệm rất chung, tổng quát. Có nhiều quan niệm khác nhau. Theo Đại Bách khoa toàn thư Liên Xô (1977), quản lý là chức năng của những hệ thống có tổ chức với bản chất khác nhau (xã hội, sinh vật, kỹ thuật), nó bảo toàn cấu trúc xác định của chúng, duy trì chế độ hoạt động, thực hiện những chương trình, mục đích hoạt động. Về phương diện xã hội, có thể nêu khái niệm quản lý một tổ chức là: “Quản lý là tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức.” Theo định nghĩa trên, quản lý có một số đặc điểm: - Là một hoạt động hướng đích, có mục tiêu xác định - Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận: Chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tương tác giữa chủ thể và hệ thống. Chủ thể quản lý là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, điều khiển, còn đối tượng quản lý là bộ phận chịu sự quản lý. Mối quan hệ này là quan hệ ra lệnh – phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc. - Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan dựa trên quy luật khách quan. - Quản lý luôn liên quan đến việc trao đổi thông tin. Tất cả mọi hoạt động quản lý đều dựa trên cơ sở những thông tin thu nhận được và đã chọn lọc xử lý. - Quản lý có tính thích ứng cao đối với sự biến động môi trường. Hệ thống quản lý và tác động quản lý có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau: Chủ thể quản lý Tác Tác động Mục tiêu động phản quản lý quản lý hồi Đối tượng quản lý Sơ đồ 1.1: Hệ thống quản lý và tác động quản lý
  13. Quản lý có những vai trò cơ bản sau: - Giúp các thành viên của tổ chức thấy rõ mục tiêu và hướng đi của mình, từng bước hoàn thành những kế hoạch đặt ra, hoàn thành sứ mệnh của tổ chức và đạt mục đích của tổ chức. - Phối hợp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) để tạo sức mạnh của tổ chức. - Giúp tổ chức thích nghi được với môi trường luôn biến đổi. Nắm bắt tốt hơn và tận dụng các cơ hội, giảm bớt các ảnh hưởng tiêu cực và các nguy cơ liên quan đến môi trường, làm cho tổ chức có được những tác động tích cực đến môi trường, góp phần bảo vệ môi trường. 1.2.2. Chức năng quản lý Theo giáo trình Khoa học quản lý của trường ĐH Kinh tế Quốc dân: “Chức năng quản lý là những loại công việc quản lý khác nhau, mang tính độc lập tương đối, được hình thành trong quá trình chuyên môn hóa hoạt động quản lý”. Quản lý có 4 chức năng cơ bản gồm: kế hoạch hóa, tổ chức thực hiện, chỉ đạo, kiểm tra. 1.2.2.1. Kế hoạch hóa Kế hoạch hóa là chức năng cơ bản nhất trong số các chức năng quản lý, bao gồm: xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và những biện pháp, cách thức chủ yếu để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch: - Xác định và hình thành mục tiêu đối với tổ chức: xác định mục tiêu là khâu đầu tiên của kế hoạch hóa. Mục tiêu là tiêu đích mà hoạt động của tổ chức hướng tới. Các mục tiêu tạo thành một hệ thống phân cấp từ mục tiêu chung của tổ chức (hay của hệ thống) đến mục tiêu của bộ phận, của cá nhân và tạo thành cả một hệ thống mạng lưới khi các mục tiêu được phản ánh trong các chương trình phối hợp chặt chẽ với nhau. Số lượng mục tiêu được xác định trên cơ sở bản chất công việc của tổ chức.
  14. - Xác định và bảo đảm các nguồn lực của tổ chức để đạt mục tiêu đó. Có 3 nguồn lực cơ bản để vận hành tổ chức là nhân lực, vật lực và tài lực. Xác định những nguồn lực sẽ giúp nhà quản lý chủ động khai thác và đáp ứng kịp thời trong quá trình hoạt động của tổ chức. - Lựa chọn và quyết định những hoạt động cần thiết để đạt được mục tiêu. Đó là những giải pháp, biện pháp tiến hành các hoạt động để đưa tổ chức đạt được mục tiêu đề ra. Sự lựa chọn và quyết định những hoạt động cần thiết liên quan chặt chẽ đến việc tổ chức nhân sự và sử dụng nguồn lực. Nhà quản lý sẽ chủ động tổ chức các nguồn lực, tránh được những lãng phí không cần thiết. - Sản phẩm quan trọng của chức năng kế hoạch là kế hoạch. Có ba loại kế hoạch: kế hoạch chiến lược (giải quyết mục tiêu chiến lược); kế hoạch chiến thuật (giải quyết mục tiêu chiến thuật); kế hoạch tác nghiệp (giải quyết mục tiêu tác nghiệp). 1.2.2.2. Tổ chức Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên và các bộ phận trong một tổ chức, điều phối các nguồn lực nhằm thực hiện thành công kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Lê-nin đã nói: “Tổ chức sẽ nhân sức mạnh lên gấp mười lần.” Nội dung chủ yếu của tổ chức: - Tổ chức thực hiện trước hết là việc xây dựng cơ cấu tổ chức, xác định vai trò nhiệm vụ của các bộ phận và cá nhân trong tổ chức nhằm bảo đảm sự phù hợp, ăn khớp giữa các hoạt động. Mỗi cá nhân có thể làm việc trôi chảy có hiệu quả cao trong nhóm, làm cho các bộ phận riêng sẽ kết hợp được với nhau thành hệ thống, hoạt động đồng bộ như một thể thống nhất. - Giúp nhà quản lý xác định được biên chế và sắp xếp con người phù hợp với khối lượng công việc. Tạo điều kiện cho các thành viên tổ chức hoạt động tự giác, sáng tạo.
  15. Việc ổn định cơ cấu, giao nhiệm vụ, quyền hạn cho các bộ phận luôn đi đôi với việc xác định khối lượng công việc và kéo theo sự phân phối nguồn lực, thiết lập bộ máy quản lý và thực hiện chuyên môn hóa cho các bộ phận của tổ chức. Như vậy, tổ chức thực hiện chính là công việc xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý của tổ chức (hệ thống) trên cơ sở kế hoạch hóa phát triển. Một cơ cấu tổ chức được coi là hợp lý khi nó tuân thủ nguyên tắc thống nhất trong mục tiêu. Mỗi cá nhân đều góp phần công sức vào các mục tiêu chung của tổ chức, đạt mục tiêu đó với mức chi phí tối thiểu cho bộ máy và cho mọi hoạt động. 1.2.2.3. Chỉ đạo Sau khi kế hoạch đã được thiết lập, cơ cấu đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng, sắp xếp thì phải có người lãnh đạo dẫn dắt, điều khiển. Đó là quá trình tập hợp, liên kết các thành viên trong tổ chức; theo sát hoạt động của bộ máy, điều khiển, hướng dẫn, điều chỉnh công việc hợp lý, nhịp nhàng; động viên, khuyến khích các thành viên hoàn thành nhiệm vụ nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Nó kết nối, thẩm thấu và đan xen vào hai chức năng trên. 1.2.2.4. Kiểm tra Kiểm tra là một chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý, liên quan đến mọi cấp quản lý căn cứ vào mục tiêu, kế hoạch đã định. Là việc một người hoặc một nhóm người có trách nhiệm theo dõi, giám sát và tiến hành những hoạt động uốn nắn, sửa chữa, điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện của tổ chức, làm cho tổ chức hoạt động một cách đúng hướng. Theo lý thuyết hệ thống, kiểm tra còn là quá trình thiết lập mối liên hệ ngược trong quản lý [13, trang 49]. Có thể nói: không có kiểm tra là không có quản lý, kiểm tra là để quản lý; muốn quản lý tốt thì phải kiểm tra. Một chu trình quản lý, cả bốn chức năng trên phải thực hiện liên tiếp, đan xen vào nhau; phối hợp bổ sung cho nhau, tạo sự kết nối từ chu trình này sang chu trình sau theo hướng phát triển. Trong đó, yếu tố thông tin luôn giữ vai trò xuyên suốt, không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý.
  16. Kế hoạch Kiểm tra Thông tin Tổ chức Chỉ đạo Sơ đồ 1.2: Quan hệ giữa các chức năng quản lý. 1.2.3. Quản lý giáo dục Quản lý GD là một bộ phận của quản lý xã hội. Nói đến quản lý GD là nói đến quản lý mọi hoạt động GD trong xã hội; các nhà nghiên cứu GD và quản lý GD đã đưa ra một số quan niệm về quản lý GD như sau: M. I. Kôn-đa-cốp định nghĩa: “Quản lý GD là tập hợp những biện pháp tổ chức cán bộ, GD, kế hoạch hóa, tài chính… nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống GD để tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống cả về mặt số lượng cũng như chất lượng” [3, trang 22]. “Quản lý GD trên nét tổng quát nhất được hiểu theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác ĐT thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển của xã hội hiện nay” [17, trang 12]. Như vậy, có thể hiểu bản chất của quản lý GD là qúa trình tác động có ý thức được định hướng của chủ thể quản lý lên các thành tố của hoạt động GD nhằm thực hiện mục tiêu của GD một cách hiệu quả. 1.2.4. Quản lý trường sư phạm 1.2.4.1. Vị trí, vai trò của trường sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc dân Từ cuối thế kỷ X, khi nước ta thoát khỏi ách thống trị phong kiến phương Bắc, nền GD quốc dân đến nay tồn tại gần 10 thế kỷ. trong lịch sử nước nhà GD từng là một động lực cho sự tồn tại và phát triển của đất nước, nó đã góp phần ĐT,
  17. BD nhân tài, truyền bá cho nhân dân biết đạo lý làm người, hun đúc lòng yêu nước, yêu quê hương làng xóm, xây dựng tôn ti trật tự trong xã hội,gia đình…. Theo thang bậc phong kiến, ông thầy cũng có vị trí cao trong xã hội quân-sư-phụ (vua-thầy- cha) và từ lâu trong xã hội ta đã hình thành một truyền thống tốt đẹp của dân tộc: “Tôn sư trọng đạo”. Tuy nhiên, việc ĐT nghề Sư phạm qua trường, lớp theo đúng nghĩa không có trong xã phong kiến Việt Nam, song được nhân dân giúp đỡ, bản thân người thầy đã tự rèn luyện để trưởng thành trong nghề nghiệp. Muốn trở thành người thầy, tuy không có trường sư phạm nhưng những nhà nho phải tự rèn luyện mình trong nhân dân theo thời đó yêu cầu. Đến thời Pháp thuộc, ngành sư phạm chính thức được ra đời,trái với mong muốn của thực dân Pháp, nhiều thầy giáo xuất thân từ trường sư phạm của Pháp (ở Đông Dương hay ở tại Pháp), không chỉ là những giáo viên tài năng, đức độ trong GD mà còn là những chiến sĩ cách mạng, những người cộng sản, trong đó tiêu biểu là thầy giáo Nguyễn Tất Thành – Người thầy vĩ đại theo đúng nghĩa của GD Việt Nam thời hiện đại. Từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, ngành sư phạm nước ta đã phát triển nhanh chóng, cùng với sự trưởng thành của dân tộc, của nền GD cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Đến nay chúng ta đã có một hệ thống trường ĐHSP, hàng chục trường CĐSP, Trung cấp Sư phạm, Viện Nghiên cứu Khoa học GD, trường Quản lý GD, CĐ Nhạc – Họa, Thể dục, Mẫu giáo… trên toàn quốc. Hệ thống các trường sư phạm với đội ngũ cán bộ, GV, giáo viên đông đảo, trong đó có một tỷ lệ không nhỏ là Giáo sư, Phó Giáo sư, TS và ThS đã đáp ứng kịp thời và hiệu quả nhiệm vụ ĐT, BD đội ngũ giáo viên các môn học ở các cấp học, từ Mẫu giáo, Tiểu học, Trung học đến CĐ, ĐH và trên ĐH. Trong GD & ĐT, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GD luôn được xem là lực lượng cốt cán của sự nghiệp phát triển GD & ĐT, là nhân tố quan trọng nhất quyết định việc nâng cao chất lượng GD. Do vậy, muốn phát triển GD & ĐT, trước
  18. tiên là phải chăm lo xây dựng đội ngũ GV và hệ thống các trường sư phạm. Việc ĐT đội ngũ nhà giáo trở thành khâu then chốt của “Quốc sách hàng đầu” trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Điều này khẳng định vai trò cực kì quan trọng của các trường sư phạm trong hệ thống GD quốc dân. 1.2.4.2. Khái niệm về quản lý trường sư phạm Theo M. I. Kôn-đa-cốp: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh chúng ta hiểu quản lý trường sư phạm (công việc trường sư phạm) là một hệ thống xã hội – Sư phạm chuyện biệt, hệ thống đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống trường sư phạm, nhằm đảm bảo sự vận hành tối ưu về mặt xã hội – kinh tế, tổ chức – Sư phạm của quá trình dạy học và GD thế hệ đang lớn lên” [3, trang 34]. Theo GS.VS Phạm Minh Hạc “Quản lý trường sư phạm là thực hiện đường lối của Đảng, trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa trường sư phạm vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu ĐT đối với ngành GD”.[2, trang 26]. Từ các định nghĩa trên chúng ta thấy, quản lý trường sư phạm thực chất là tác động có định hướng, có kế hoạch của chủ thể quản lý lên tất cả các nguồn lực nhằm đẩy mạnh hoạt động của trường sư phạm theo nguyên lý GD và tiến tới mục tiêu GD mà trọng tâm của nó là đưa hoạt động ĐT tiến lên một trạng thái mới về chất. Quản lý trường sư phạm có 2 loại: - Tác động của chủ thể quản lý bên trên và bên ngoài trường sư phạm: Quản lý trường sư phạm là những tác động quản lý của các cơ quan quản lý GD cấp trên nhằm hướng dẫn tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, học tập, GD của trường. Quản lý trường sư phạm cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài trường sư phạm nhưng có liên quan trực tiếp đến trường sư phạm nhằm định hướng sự phát triển và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.
  19. - Tác động của những chủ thể bên trong trường sư phạm bao gồm các hoạt động: + Quản lý cán bộ GV, công nhân viên. + Quản lý sinh viên. + Quản lý quá trình ĐT. + Quản lý cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học. + Quản lý tài chính trường học. + Quản lý quan hệ giữa trường sư phạm và cộng đồng. 1.2.4.3. Bản chất, đặc trưng của quản lý trường sư phạm a/ Bản chất của quản lý trường sư phạm Quản lý trường sư phạm là tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, điều hành, can thiệp) của chủ thể đến tập thể GV – sinh viên và các cán bộ khác nhằm: - Tận dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư, do lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có. - Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của trường sư phạm mà tiêu điểm là quá trình ĐT thế hệ trẻ. - Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch ĐT, đưa trường sư phạm tiến lên trạng thái mới. Có nhiều cách xem xét bản chất của quản lý trường sư phạm như: bản chất Sư phạm, tâm lý, pháp luật, kinh tế, xã hội…. Ở đây chỉ đề cập đến bản chất xã hội – sư phạm của quản lý trường sư phạm. Quản lý trường sư phạm, về bản chất là quản lý con người. Trường sư phạm là một tổ chức tập hợp những con người (GV và sinh viên) mà hoạt động của họ đều nhằm thực hiện mục tiêu ĐT. GV và sinh viên vừa là khách thể, vừa là chủ thể quản lý. Với tư cách khách thể quản lý, GV và sinh viên là đối tượng tác động của chủ thể quản lý. Với tư cách là chủ thể của mọi hoạt động họ còn là người tham gia chủ động, tích cực vào hoạt động quản lý và biến toàn bộ hệ thống thành hệ tự quản lý.
  20. Như vậy, quản lý con người chính là quản lý các điều kiện mà trong đó con người lao động. Nhà quản lý phải ý thức được điều này và coi đó là trách nhiệm của mình. Mặt khác quản lý trường sư phạm không những giúp cho các thành viên thực hiện vai trò của mình có hiệu quả, mà còn phải kiểm tra, uốn nắn đánh giá việc thực hiện vai trò đó. b/ Đặc trưng của quản lý trường sư phạm Đặc trưng của quản lý trường sư phạm là sự khác biệt hẳn với mọi loại quản lý xã hội khác, nó được quy định trước hết bởi bản chất của quá trình ĐT, trong đó sinh viên vừa bị quản lý lại vừa tự quản hoạt động học tập; sản phẩm của sự ĐT của trường là nhân cách người lao động có văn hóa. Song, đặc trưng của quản lý trường sư phạm phụ thuộc nhiều vào đặc điểm lao động sư phạm của GV. Giảng dạy không thể tách rời GD. Nói rộng hơn, quản lý trường sư phạm phải tạo nên sự thống nhất giữa dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Mối quan hệ quản lý trong trường sư phạm cũng rất đặc biệt: Đây là quan hệ liên nhân cách, quản lý cộng đồng và hợp tác theo tinh thần dân chủ – tự quản cao độ. Sự quản lý của hiệu trưởng đối với GV chỉ có thể là những tác động có tính dân chủ, được thể chế hóa, nhằm thuyết phục, giúp đỡ, tạo điều kiện cho GV có thể phát huy được hết năng lực quản lý quá trình giảng dạy GD của mình và quản lý việc học tập, tự GD của sinh viên. - Đặc trưng của hoạt động quản lý trường sư phạm: + Đề ra kế hoạch và tổ chức thực hiện + Điều hành, kiểm tra, điều chỉnh các hoạt động theo định hướng và bảo đảm sự phát triển. + Xây dựng đội ngũ GV để đảm bảo cho các hoạt động có hiệu quả, đạt mục tiêu đề ra. - Đặc trưng về đối tượng của quản lý trường sư phạm: + Đội ngũ GV: lực lượng chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ của trường sư phạm. + Chất lượng GD là hiệu quả hoạt động của đội ngũ GV tác động lên đối tượng là học sinh, sinh viên.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2