intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội dải ven biển ĐBSH làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:114

109
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn: Đánh giá các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường có tác động tới sản xuất nông nghiệp ở dải ven biển ĐBSH; nghiên cứu xác định các loại sử dụng đất, hiệu quả của các phương thức canh tác hiện có ở dải ven biển ĐBSH; đề xuất các giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững ở dải ven biển ĐBSH.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội dải ven biển ĐBSH làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững

  1. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dải ven biển nằm trong số  những hệ  sinh thái quan trọng nhất trên trái   đất. Những dải rừng đầm lầy vùng cửa sông, ven biển, các bãi triều, cung cấp   dinh dưỡng cho môi trường nước, góp phần duy trì sức sản xuất của các  thuỷ  vực, cung cấp nhiều loại thuỷ  sản và hải sản có giá trị  cao cho con người. Môi  trường sinh thái đất đai đa dạng vùng cửa sông, ven biển, đầm, hồ với nhiều nguồn  nước mặn, lợ, ngọt khác nhau cho phép phát triển một nền nông nghiệp sinh thái  năng động. Bên cạnh những lợi thế  về  nhiều mặt, vùng đất ven biển cũng nhạy  cảm với các hoạt động của con người và tác động của thiên nhiên.  Dải ven biển Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) được phân chia bởi ranh giới   của 11 huyện, thị  xã, thành phố  thuộc các tỉnh/thành phố  là: Hải Phòng, Nam  Định, Thái Bình và Ninh Bình, có diện tích tự  nhiên 210.533 ha gắn liền với các   hệ  thống cảng biển và các cơ sở công nghiệp quan trọng. Vị  trí địa lý của vùng   thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế ­ xã hội nói   chung. Do trải dài từ:  19o53’ đến 21o34' vĩ độ  Bắc nên có nhiều yếu tố  và đặc   điểm   tự   nhiên  khác   nhau  đã   chi   phối,   tác   động   tới   quá   trình  phát  triển   nông   nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế  xã hội nói chung. Tuy nhiên, dải ven biển  ĐBSH chưa thực sự   được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ, thường là  những nghiên cứu đơn lẻ, không mang tính tổng thể  nên việc khai thác sử  dụng   còn có nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu: “Đánh giá tổng hợp điều   kiện tự nhiên ­ kinh tế xã hội dải ven biển ĐBSH làm cơ sở cho phát triển nông   nghiệp bền vững” là đòi hỏi hết sức cấp bách và có ý nghĩa rất lớn về kinh tế, xã   hội và môi trường nhằm: ́ ược đăc điêm c ­ Đanh gia đ ́ ̣ ̉ ủa dải ven biên ĐBSH. ̉ ­ Đề  xuất các giai phap đ ̉ ́ ể  sử  dụng hợp ly d ́ ải ven biên ĐBSH cho phát ̉   triển nông nghiệp bền vững. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 1
  2. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 2. Mục đích của đề tài ­ Đánh giá các yếu tố tự  nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường có tác động  tới sản xuất nông nghiệp ở dải ven biển ĐBSH. ­ Nghiên cứu xác định các loại sử  dụng đất, hiệu quả  của các phương  thức canh tác hiện có ở dải ven biển ĐBSH. ­  Đề  xuất các giải pháp để  phát triển nông nghiệp bền vững  ở  dải ven   biển ĐBSH. 3. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài 3.1. Ý nghĩa về lý luận của đề tài ­ Góp phần cụ thể hóa thực trạng khai thác, sử  dụng hợp lý dải ven biển   ĐBSH vào sản xuất nông nghiệp. ­ Xây dựng cơ sở khoa học cho việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp  lý ở dải ven biển ĐBSH.  3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ­ Đánh giá thực trạng điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội ở dải ven biển   ĐBSH để khai thác, sử dụng bền vững vùng này. ­ Lựa chọn được cơ  cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý để  phát triển nông  nghiệp bền vững ở dải ven biển ĐBSH. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 2
  3. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững CHƯƠNG 1 ­ TỔNG QUAN VỀ DẢI VEN BIỂN 1.1. Các khái niệm cơ bản  1.1.1. Dải ven biển 1.1.1.1. Trên thế giới Theo các tài liệu nước ngoài, tương đương với thuật ngữ  “dải ven biển”   của Việt Nam, có các thuật ngữ sau: ­ Nga: vùng duyên hải ­ Pháp: vùng ven biển (littoral hoặc cote) ­ Anh: vùng ven biển (Coastal zone) ­ Trung Quốc: Vùng duyên hải hay vùng diên hải Tại hội thảo Khoa học Quốc gia: “Nghiên cứu và quản lý vùng ven biển”  tháng 12 năm 1992, Giáo sư Joe Baker của Viện Khoa học Biển Australia đã dẫn  ra một số định nghĩa về dải ven biển như sau: Thứ  nhất: “Dải ven biển là độ  dài đường bờ  biển của đất nước” ­ “The  lineal length of the country’s coastline”. Ông cho rằng định nghĩa này chưa thích  đáng, vì nó không thể  hiện được sự  tương tác giữa biển và lục địa cũng như  những biến đổi diễn ra do mối tương tác đó [25]. Tiếp đến ông lại dẫn ra định nghĩa khác: “Vùng ven biển là dải đất rộng  3km dọc đường bờ  biển, bao gồm phần kéo dài của biển đến ranh giới  ảnh  hưởng của thủy triều vào trong đất liền”. Tuy định nghĩa này cũng đã đề cập đến  tương tác biển ­ lục địa, thông qua tác động của thủy triều, song vẫn có những   hạn chế, nhất là khi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến sử dụng đất đai, thổ  nhưỡng và các vấn đề về kinh tế ­ xã hội ... của dải ven biển. Sau cùng ông đưa ra định nghĩa: “Vùng ven biển là vùng đất ­ biển kéo dài  từ  giới hạn phía trên của lưu vực các con sông, suối ... chảy vào biển, tới giới  hạn của lục địa”. Với định nghĩa này thì vùng ven biển nước ta có phạm vi rất  rộng và hầu như  bao trùm toàn bộ  lãnh thổ  Việt Nam. Do đó, việc xác định nội  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 3
  4. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững dung nghiên cứu, trọng điểm nghiên cứu và quy hoạch phát triển vùng ven biển  có nhiều khó khăn, không cụ thể và không sát với thực tế. Trong chương trình quản lý nguồn tài nguyên ven biển khu vực Đông Á,  khi  đề  cập đến việc phân định ranh giới của dải ven biển, các nhà nghiên cứu của   các nước ASEAN đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa các vấn đề sinh thái nhân văn   với các vấn đề  địa kinh tế  ­ xã hội trong việc phân định dải ven biển. Với cách  tiếp cận này, các nhà nghiên cứu cho rằng vùng ven biển là vùng kinh tế ­ xã hội  và nhân văn có liên quan đến quá trình khai thác tài nguyên biển theo quan điểm   phát triển bền vững phục vụ  cho sự nghiệp phát triển kinh tế  ­ xã hội của đất  nước. Malayxia và Phillippine thì xác định ranh giới tương đối của vùng ven biển   là vùng nước sâu 50m trên biển đến nơi có hệ sinh thái nước lợ tồn tại (khoảng   10km) còn Bangladet lại xác định vùng ven biển từ  đường đẳng sâu 100 m đến   vùng nước lợ ở các cửa sông lúc triều lên, vào sâu trong lục địa khoảng 12 km ... [25] Trong các nghiên cứu hỗ  trợ  cho lĩnh vực Môi trường  ở  Việt Nam, Tổ  chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế IUCN cũng rất quan tâm đến vùng ven biển và   cho rằng “Việc xác định thế  nào là vùng ven biển rất khó, song có thể  nói đó là  vùng tính sâu vào nội địa tới điểm  ảnh hưởng của thủy triều lên các con sông,   suối   và   các   vùng  đất  ngập  nước,   hoặc   tính   sâu  vào  nội   địa  10  km,   tùy  theo  khoảng  cách   nào  lớn   hơn”.   Cách  hiểu   này  là   tương   đối   phù   hợp   với   hướng   nghiên cứu những vấn đề  về  điều kiện tự  nhiên và tài nguyên vùng ven biển.   song đối với các nghiên cứu về dân cư, kinh tế ­ xã hội của lãnh thổ này lại gặp  nhiều khó khăn trong việc thu thập và tính toán các số liệu thống kê [3]. Trong “Từ  điển bách khoa các thuật ngữ  Địa lý tự  nhiên (bốn thứ  tiếng   Nga, Anh, Pháp, Đức), vùng ven biển được định nghĩa như sau: “Vùng ven biển là  dải ranh giới giữa đất liền và biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến đặc trưng   của các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại. Ở dạng đầy đủ hơn, bao gồm khái  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 4
  5. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững niệm miền duyên hải ­ là dải lục địa có các thềm biển cổ, dải bờ  ­ nơi có các  dạng bờ hiện đại, và ven bờ biển là nơi có các dạng bờ cổ bị chìm ngập” [3]. Định nghĩa này trình bày khái niệm theo quan  điểm địa mạo, địa lý tự  nhiên. Cũng theo quan điểm này, một số  tác giả  khác sử  dụng đường đẳng cao  25m làm ranh giới phía trong của vùng ven biển. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy,  ở  phạm vi rộng hơn thì cách xác định ranh giới vùng ven biển như  trên là chưa  bao quát được hết những đối tượng nghiên cứu mà các nhà khoa học và quản lý  quan tâm, nhất là trong các lĩnh vực khoa học Địa lý kinh tế ­ xã hội, kinh tế học   và nhân khẩu học. Phần lớn việc phân định ranh giới của dải ven biển dựa trên các căn cứ về  tự nhiên. Riêng một số nghiên cứu về kinh tế ­ xã hội lại thiên về việc phân định   theo ranh giới hành chính.  1.1.1.2. Ở Việt Nam Trong báo cáo khoa học  của Uỷ  ban Quốc gia về  biển của Việt Nam   (IOC), GS.TSKH Đặng Ngọc Thanh, chủ nhiệm các Chương trình điều tra nghiên  cứu biển của Việt Nam từ  năm 1997 ­ 2000 đã đưa ra khái niệm vùng ven biển   như  sau: “ Vùng ven biển Việt Nam chạy dài trên 3200 km bờ  biển của  đất  nước, bao gồm 24/50 tỉnh và thành phố, 100/400 huyện với số dân chiếm ¼ dân  số cả nước ...”[3]. Theo cách hiểu như trên thì vùng ven biển nước ta được xác định bởi ranh  giới hành chính các huyện có bờ biển. Cách xác định này giúp cho việc thu thập   tài liệu, số liệu phục vụ các nghiên cứu về kinh tế ­ xã hội và dân cư  rất thuận   lợi. Song cũng có những hạn chế, vì những hiện tượng và đối tượng nghiên cứu  về  tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự  nhiên lại không bị  hạn chế  bởi ranh  giới hành chính. Vì vậy, một số chuyên gia khác đã sử dụng giới hạn nhiễm mặn   của đất và nước để làm ranh giới của vùng ven biển.  Trong đề  tài: “Đánh giá kinh tế tổng hợp tài nguyên biển Việt Nam phục  vụ  quy hoạch phát triển kinh tế  đến năm 2005” mã số  48B.06.02, do viện Kế  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 5
  6. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững hoạch dài hạn và phân bố LLSX thực hiện (1986 ­ 1990), các tác giả đã xác định  vùng ven biển bao gồm dải đất liền ven biển tạm giới hạn bằng ranh giới hành  chính của các huyện ven biển (từ Bắc xuống Nam có 105 huyện ven biển thuộc  24 tỉnh thành và đặc khu, trong đó có 3 thành phố  và thị  xã và 5 huyện đảo, với   diện tích 5,9 triệu ha, bằng 18,1% diện tích lãnh thổ  của cả  nước) và phần trên   biển gồm toàn bộ  vùng biển và thềm lục địa Việt Nam (trong đó tập trung chủ  yếu vào khu vực ven bờ, từ độ sâu 50m trở vào)[25].  Trong đề án Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và   các  hải đảo Việt Nam đến năm 2010 do Bộ  Kế  hoạch và đầu tư  chủ  trì (1995 ­   1996), khi xác định phạm vi không gian quy hoạch, các tác giả cho rằng: “Kinh tế  biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển,  trong đó biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho  các hoạt động vận tải, du lịch biển ..., còn toàn bộ  các hoạt động tổ  chức sản   xuất và phục vụ  khai thác biển lại nằm trên đất liền ven biển. Do vậy, khi nói  đến kinh tế biển không thể tách rời vùng biển với vùng ven biển và ngược lại”. Trong đề án nghiên cứu điều tra cơ bản cấp nhà nước: “Điều tra đánh giá  hiện trạng môi trường tài nguyên nước dải ven biển Việt Nam phục vụ  phát  triển kinh tế ­ xã hội và bảo vệ môi trường”, do viện Địa lý, Trung tâm Khoa học  tự  nhiên và công nghệ  Quốc gia thực hiện (1996 ­ 1999), các tác giả  đã coi dải  ven biển như  “mặt phố” của nước ta. Mặc dù trong nội dung của đề  án, các tác  giả  không đưa ra một định nghĩa hay vạch giới hạn cụ  thể  của vùng ven biển.   Song, trong quá trình nghiên cứu, các tác giả  đã vận dụng linh hoạt, kết hợp sử  dụng ranh giới hành chính các huyện có đường bờ  biển với việc phân tích các   mối quan hệ tương tác biển ­ lục địa, các điều kiện tự nhiên, các hoạt động kinh  tế xã hội của các huyện gần bờ biển liền kề với các huyện có đường bờ biển để  chọn thêm các huyện xếp vào lãnh thổ nghiên cứu ­ Vùng ven biển. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 6
  7. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Đề tài KC.09.11: “Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế ­ xã hội dải  ven biển Việt Nam. Đề  xuất các mô hình phát triển cho một số  khu vực trọng   điểm” (2004) đã đưa ra khái niệm dải ven biển (hay còn gọi là vùng ven biển, đới  bờ, dải ven bờ, hoặc dải bờ biển ...) được định nghĩa là một thực thể  tự  nhiên   hoàn chỉnh cấp hành tinh, có đặc trưng riêng về  nguồn gốc phát sinh, về  hình   thái, cấu trúc, về cơ cấu tài nguyên và quá trình phát triển, tiến hóa... [25].  Có thể nói dải ven biển là một khu vực động lực, thường xuyên biến đổi  và là khu vực hết sức nhạy cảm đối với các tác động của tự  nhiên cũng như  các  tác động của con người, mọi hoạt động kinh tế ­ xã hội của con người diễn ra ở  ngoài biển và trên các khu vực lân cận trong chừng mực nhất định đều có tác  động trực tiếp hay gián tiếp đến dải ven biển. Theo quan điểm của nhiều tác giả, ranh giới của dải ven biển bao gồm cả  không gian trên biển và không gian trên đất liền ven biển. Trong đó: ­ Phạm vi không gian trên biển được xác định là vùng biển và thềm lục địa  kéo dài từ  đường bờ biển ra đến hết vùng lãnh hải (trong phạm vi 12 hải lý trở  vào tính từ đường cơ sở). ­ Phạm vi không gian trên đất liền, xét theo các yếu tố tự nhiên bao gồm các   khu vực chịu  ảnh hưởng và tác động trực tiếp của các yếu tố  biển như: khí hậu  thủy văn, sóng gió, hải lưu, thủy triều, nhiễm mặn, cát bay, cát chảy, các vùng  nước lợ... Nhưng phạm vi tác động này của từng yếu tố này trong từng khu vực có  thể khác nhau nên rất khó xác định một ranh giới cụ thể. Còn xét theo các yếu tố  kinh tế thì tùy từng lĩnh vực mà sự tương tác giữa các hoạt động kinh tế trên đất  liền với các hoạt động kinh tế trên biển cũng có nội dung và mức độ khác nhau...  nên phạm vi ranh giới của dải ven biển ở từng khu vực cũng khác nhau... Chính vì  vậy, việc xác định phạm vi ranh giới của dải ven biển thường là tương đối và  mang tính ước lệ, có khi trùng hợp với ranh giới hành chính và có khi không trùng   với ranh giới hành chính. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 7
  8. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Trên thực tế ngoài khái niệm dải ven biển ra, chúng ta còn gặp rất nhiều  những thuật ngữ  khác mang ý nghĩa tương tự  như: vùng ven bờ, đới bờ, vùng  bờ… Hầu hết các hướng dẫn Quản lý tổng hợp vùng ven bờ  được xuất bản  đều đồng ý rằng vùng ven bờ là khu vực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất  liền. Đó là nơi các quá trình sinh thái phụ  thuộc vào sự  tác động lẫn nhau giữa   đất liền và biển, các tác động này diễn ra khá phức tạp và nhạy cảm [15].   Vùng ven bờ thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và biển, bao  gồm các môi trường ven bờ cũng như các vùng nước kế cận. Các thành phần của   nó bao gồm các vùng châu thổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập  nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các rừng ngập mặn, đầm phá và   các đặc trưng ven bờ  khác. Khái niệm vùng ven bờ  thường được xác định một  cách tùy tiện, hơi khác nhau giữa các quốc gia và thường dựa vào giới hạn pháp   lý   và   ranh   giới   hành   chính.   Ngoài   ra   còn   có   những   sai   khác   về   địa   văn  (physiography), sinh thái và kinh tế giữa các vùng khác nhau, do đó không có một  định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều định   nghĩa bổ sung phục vụ cho những mục đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề  ranh giới cần được xem xét. Ví dụ   ở  một số  nước Châu Âu, vùng ven bờ  mở  rộng ra tới vùng lãnh hải, một số  nước khác thì lấy đường đẳng sâu làm giới  hạn. Còn về ranh giới đất liền thì cũng rất mơ hồ do  tác động của biển vào khí hậu có thể  vào đến vùng nội địa bên trong cũng như  vùng  đồng bằng ngập lụt rộng lớn.   Trong đề tài KC.09.27/06­10: “Nghiên cứu cơ sở khoa học, pháp lý và phân  vùng quản lý tổng hợp vùng ven bờ   biển Việt Nam” thuộc Chương trình Khoa  học Công nghệ Biển phục vụ Phát triển Kinh tế ­ xã hội, các tác giả đã nêu khái   niệm Đới bờ và vùng bờ như sau:  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 8
  9. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững “Đới bờ  (coastal zone) và vùng bờ  (coastal area) là các mảng không gian   nằm chuyển tiếp giữa lục địa và biển (đại dương), luôn chịu tác động tương hỗ  giữa quá trình lục địa (chủ  yếu là sông) và biển (chủ  yếu là sóng, dòng chẩy và   thuỷ triều), giữa các hệ thống tự nhiên (coastal system) và hệ nhân văn (tâm điểm   là hoạt động của con người), giữa các ngành và những người sử dụng tài nguyên  vùng bờ (hoặc tài nguyên bờ ­ coastal resources) theo cả cấu trúc dọc (trung ương  xuống địa phương) và cấu trúc ngang (các ngành trên cùng địa bàn), giữa cộng  đồng dân địa phương với các thành phần kinh tế  khác”. Vì thế, đới bờ/vùng bờ  còn được gọi là đới tương tác, nhưng trong thực tế khi quản lý vùng bờ người ta   thường rất ít quan tâm đến mối quan hệ bản chất này [3].  Trong đề tài KT.06.07:“Nghiên cứu xây dựng phương án quản lý tổng hợp  vùng bờ biển Việt Nam, góp phần bảo đảm an toàn môi trường và phát triển bền   vững” thuộc Chương trình điều tra nghiên cứu biển giai đoạn 1996 ­ 2000 do  Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng thực hiện (1996 ­ 2000), các tác giả  đã  đưa ra một khái niệm tổng quát về đới bờ biển (hay dải ven biển) như sau: Đới  bờ biển là một khu vực chuyển tiếp giữa lục địa và biển, một đới động và nhạy  cảm, và là một hệ thống tự nhiên đặc trưng bởi các quá trình tương tác; một khu   vực có tiềm năng tài nguyên phục vụ phát triển đa ngành và là nơi chịu tác động  mạnh của các hoạt động của con người [24].  Để thuận tiện cho việc đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, kinh tế ­   xã hội, tác giả luận văn đồng ý với quan niệm Dải ven biển (hay vùng ven biển)   Việt Nam chạy dài theo 3200 km bờ  biển với ranh giới trùng với địa giới hành  chính của các quận, huyện ven biển. Dải ven biển ĐBSH chạy dài gần 300 km  bờ biển thuộc địa giới hành chính của 11 quận, huyện của 4 tỉnh như sau: Thủy   Nguyên, Hải An, Đồ  Sơn, Kiến Thụy, Tiên Lãng (Hải Phòng); Giao Thủy, Hải   Hậu, Nghĩa Hưng (Nam Định), Thái Thụy, Tiền Hải (Nam Định); Kim Sơn (Ninh   Bình).  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 9
  10. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 1.1.2. Phát triển bền vững 1.1.2.1. Khái niệm Thuật   ngữ   "phát   triển   bền   vững"   xuất   hiện   lần   đầu   tiên   vào  năm 1980 trong  ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế  giới  (công bố  bởi Hiệp hội  Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế ­ IUCN) với nội dung rất  đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh   tế  mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự  tác động đến   môi trường sinh thái học". Khái   niệm   này   được   phổ   biến   rộng   rãi   vào   năm 1987 nhờ báo   cáo  Brundtland (báo cáo Our Common Future) của  Ủy ban Môi trường và Phát triển   Thế giới ­ WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền  vững là "sự  phát triển có thể  đáp  ứng được những nhu cầu hiện tại mà không  ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế  hệ tương   lai..." 1. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế  hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để  đạt được   điều này, tất cả  các thành phần kinh tế, nhà cầm quyền, các tổ  chức xã hội...  phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục  đích dung hòa 3 lĩnh vực chính:  kinh  tế ­ xã hội ­ môi trường [12].  Báo cáo này cũng đã nhấn mạnh 8 nội dung của PTBV:  1. Quan niệm lại khái niệm tăng trưởng; 2. Thay đổi chất lượng của sự tăng trưởng; 3. Đáp ứng các nhu cầu cốt yếu về việc làm, lương thực, năng lượng, nước  sạch và vệ sinh; 4. Đảm bảo sự bền vững về dân số; 5. Bảo tồn và phát triển tài nguyên; 6. Định hướng công nghệ và quản lý rủi ro; 7. Tích hợp công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế trong quá trình   ra quyết định; Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 10
  11. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 8.Định hướng quan hệ quốc tế trong phát triển kinh tế. Định nghĩa của WCED về  PTBV được sử  dụng rộng rãi nhất hiện nay.   Một định nghĩa khác cũng được nhiều người nhắc tới là trong cuốn sách “Hãy  cứu lấy Trái Đất” (IUCN, UNDP, WWF, 1991) trong đó định nghĩa: PTBV là “sự  nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn khổ  đảm bảo của các hệ  sinh thái”, còn tính bền vững là “một đặc điểm đặc trưng   của một quá trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi”. Nội hàm về  PTBV được tái khẳng định  ở  Hội nghị  Rio ­ 92 và được bổ  sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg ­ 2002: “PTBV là quá trình phát triển  cớ  sự  kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự  phát triển. Đó là   phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [12].  1.1.2.2. Các mô hình  phát triển bền vững Nói một cách khái quát, PTBV là sự phát triển hài hòa về cả ba mặt: kinh   tế, xã hội, và môi trường nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của   con người không những cho thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ mai sau. Có một số  mô hình/sơ  đồ  PTBV với những sai khác nhất định về  sự  hài  hòa giữa các lĩnh vực khác nhau của hoạt động kinh tế  xã hội, chính trị  và môi   trường. Tất cả  các mô hình trên đều có điểm chung là chú ý tới phúc lợi lâu dài  của con người và đều bao hàm những yêu cầu về  sự  phối hợp, lồng ghép một  cách hài hòa ít nhất là ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ  môi trường. PTBV về  kinh tế: là sự  tiến bộ  về  mọi mặt của nền kinh tế thể hiện  ở  quá trình tăng trưởng kinh tế ổn định và sự thay đổi về chất của nền kinh tế, gắn   với quá trình tăng năng xuất lao động, quá trình chuyển dịch cơ  cấu kinh tế  xã   hội và bảo vệ môi trường theo hướng tiến bộ. Mục tiêu của PTBV về kinh tế là   đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng  cao đời sống của người dân, tránh được sự  suy thoái hoặc đình trệ  trong tương  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 11
  12. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững lại, tránh để  lại gánh nặng nợ  nần cho các thế  hệ  mai sau. Để  đạt được sự  PTBV về kinh tế, điều kiện tiên quyết là phải có: ­ Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. ­ Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo   hướng tiến bộ. ­ Tăng trưởng kinh tế phải dựa vào năng lực nội sinh là chủ  yếu và phải   làm tăng năng lực nội sinh. Mô hình PTBV của Jacobs và Sadler, 1990                           Hình 1. Mô hình PTBV của WCED, 1987 Hình 2. Mô hình PTBV của Jacob, 1990 Mục tiêu kinh tế Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường Mục tiêu  Mục tiêu  12 xã hội sinh thái
  13. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững PTBV Hình 3. Mô hình PTBV của World Bank PTBV về xã hội: Là quá trình phát triển đạt được kết quả  ngày càng cao   trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo chế  độ  dinh dưỡng   và chăm sóc sức khỏe cho người dân, mọi người đều có cơ hội trong giáo dục, có   việc làm, giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho  mọi thành viên của xã hội. Để PTBV về xã hội cần chú ý những nội dung sau: ­ Tăng trưởng kinh tế  phải đi đôi với giải quyết việc làm cho người lao   động. ­ Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo. ­ Tăng trưởng kinh tế  phải  đảm bảo  ổn định xã hội và nâng cao chất   lượng cuộc sống người dân. PTBV về môi trường: Là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả  tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô   nhiễm môi trường. Trong PTBV người ta còn đề cập tới khía cạnh đạo đức của vấn đề: Đó là   mọi người đều có các quyền cơ  bản như  nhau, như  quyền được sống, quyền  được tự do, quyền được hưởng tài nguyên và môi trường của trái đất. Các thế hệ  đều có quyền như nhau trong việc thỏa mãn các nhu cầu phát triển của mình. Các   loài sinh vật tạo nên sinh quyển nằm trong khối thống nhất của các hệ tự  nhiên   của Trái đất phải được đảm bảo quyền tồn tại cho dù nó có ý nghĩa như thế nào  đối với con người. Mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong việc  bảo vệ tài nguyên và môi trường Trái đất, cũng như việc bảo vệ con người vượt   lên trên mọi ranh giới địa lý, xã hội, tư tưởng, văn hóa [23].  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 13
  14. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Đối với Việt Nam, mô hình phát triển bền vững được sử dụng hiện nay là  mô hình có sự  lồng ghép giữa mô hình của WCED với mô hình của Jacob và   Sadler, nhưng chủ  yếu vẫn là mô hình của Jacob và Sadler. Trong định hướng   chiến lược phát triển thế  kỷ  21 của Việt Nam (Agenda 21) ba trụ  cột cơ  bản   kinh tế, xã hội và môi trường được thể hiện rất rõ ràng với những chỉ tiêu cụ thể  [12,17].  1.1.2.3. Nông nghiệp phát triển bền vững  a. Trên thế giới Theo định nghĩa của TAC/CCIARC (Ban c ố  vấn k ỹ  thu ật thu ộc nhóm  chuyên  gia   quốc   tế   về   nghiên  cứu  nông  nghiệp  của   Liên  hợp   quốc):  Nông  nghiệp bền vững phải bao hàm sự  quản lý thành công tài nguyên thiên nhiên  nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người  đồng thời cải tiến chất lượng môi  trường và gìn giữ đượ c tài nguyên thiên nhiên. Năm 1991, nhóm hoạt động về vấn đề lương thực thuộc Uỷ ban Hợp tác   của các tổ chức phát triển Phi chính phủ (NGDOs)  ở Cộng đồng châu Âu thống   nhất đưa ra định nghĩa: Nông nghiệp bền vững được thiết lập nhằm đáp ứng cả  nhu cầu của người dân cũng như các mặt hạn chế về tự nhiên và điều kiện sinh  thái  ở một vùng xác định. Mục đích là đưa năng suất cây trồng lên mức cao trên  cơ sở bền vững và lâu dài mà không hủy hoại môi trường sống. Theo tổ chức về môi trường sinh thái thế giới (WOED) đã định nghĩa nông   nghiệp bền vững như  sau: nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn   được các nhu cầu của thế hệ hiện nay mà không làm giảm khả  năng ấy đối với  các thế hệ mai sau [16].  b. Việt Nam Các   nghiên   cứu   về   phát   triển   bền   vững   bắt   đầu   được   nghiên   cứu   từ  khoảng cuối thập niên 80 đầu thập nhiên 90 của thế  kỷ  XX. Thể  hiện cụ  thể  nhất là quyết định số  153/2004/QĐ­TTg ngày 17­8­2004 của Thủ  tướng chính  phủ ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương   Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 14
  15. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững trình nghị  sự  21 của Việt nam). Trong 8 nội dung chính của chương trình hành   động thì nội dung thứ  4 đã đề  cập đến các nội dung về  phát triển nông nghiệp  bền vững ở Việt Nam. Đối với Việt Nam, trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia,  thời  gian tới ngành Nông nghiệp và PTNT sẽ tập trung vào các lĩnh vực then chốt sau   đây: Về kinh tế: Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh  mún, phân tán bằng biện pháp dồn điền đổi thửa; tiến tới xây dựng các mô hình  sản xuất có quy mô lớn hơn phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hóa, phù hợp cho  chuyển giao kỹ thuật, công nghệ.  Phát triển sản xuất gắn với tăng cường hệ thống chế biến và mở rộng thị  trường tiêu thụ  nông ­ lâm ­ thủy sản; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ  cấu  cây trồng, vật nuôi và cơ cấu lại kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa,   hiện đại hóa. Chú trọng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả  năng cạnh tranh trên thị trường.  Giải quyết tốt quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch bố  trí khu  công  nghiệp và phát triển ngành nghề, bố trí cấp nước và xử lý chất thải sản xuất và  chất thải sinh hoạt ở nông thôn để ngăn chặn ô nhiễm. Về xã hội: Tiếp tục tăng cường hệ  thống hạ  tầng nông thôn, tập trung củng cố  hệ  thống tưới tiêu, tăng cường hệ  thống đê sông, đê biển và các công trình phòng   chống thiên tai. Nâng cấp cải tạo hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thông  tin và các dịch vụ  xã hội khác đáp  ứng nhu cầu tiếp cận đến các dịch vụ  sản  xuất, dịch vụ xã hội của người dân nông thôn. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 15
  16. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực  ở  nông thôn, trước hết tăng cường   đào tạo cán bộ  quản lý và cán bộ  chuyên môn kỹ  thuật, kinh tế  cho vùng nông  thôn có đủ năng lực đáp ứng cho tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế. Về môi trường: Tăng cường biện pháp chống suy thoái đất; sử  dụng tiết kiệm, có hiệu  quả bền vững tài nguyên đất trên cơ sở áp dụng các mô hình canh tác hợp lý trên   từng loại địa hình, loại đất và từng vùng sinh thái. Rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng: phòng hộ, đặc dụng và sản xuất cho   từng địa phương và cho cả  nước theo hướng phát triển bền vững. Tăng cường   biện pháp bảo vệ  và phát triển rừng để  đảm bảo tăng độ  che phủ  lên 43% vào   năm 2010. Nâng cao nhận thức về giá trị  đầy đủ  của rừng bao gồm lợi ích kinh   tế, lợi ích sinh thái và  các giá trị phi sử dụng khác. Bảo vệ  và sử  dụng bền vững nguồn tài nguyên nước, có biện pháp khai   thác và quản lý nguồn nước hợp lý để hạn chế tình trạng thất thoát lãng phí cũng   như nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước. Tăng cường công tác nghiên cứu thu thập và bảo tồn nguồn gen giống cây   nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các vật nuôi ở các địa phương nhằm tăng tính đa   dạng sinh học. Tập trung thay đổi chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, áp dụng  quy trình sản xuất tiên tiến, để  hạn chế  dư  lượng các hóa chất nông nghiệp,  thuốc phòng trừ  sâu bệnh trong sản phẩm nông nghiệp và trong môi trường đất,  nước [16]. Từ việc kế thừa những thành tựu nghiên cứu trước đó và căn cứ vào điều  kiện thực tiễn của Việt nam, tác giả đưa ra kết luận như sau: Phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp)   là quá trình sử  dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các   vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái trên cơ sở đảm bảo thỏa mãn   các nhu cầu của con người trong hiện tại và tương lai và được xã hội chấp nhận. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 16
  17. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.  Các nghiên cứu về  điều kiện tự  nhiên – kinh tế, xã hội dải ven biển  ĐBSH Ở  nước ta, khái niệm về  dải ven biển cũng được đề  cập từ  lâu và dưới  nhiều góc độ khác nhau và trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Đặc biệt từ  giữa những năm 70 của thế  kỷ  trước đến nay, trong những công trình khoa học   liên quan đến biển và dải ven biển nước ta, các nhà khoa học Việt Nam đã đưa ra  nhiều khái niệm khác nhau về dải ven biển và các phương án khác nhau để  xác   định ranh giới của dải ven biển khác. Sau đây là một số công trình tiêu biểu. 1.2.1. Từ năm 1954 đến 1975 Gồm các công trình đơn lẻ tản mạn, đề cập tới tình chất bồi tụ của châu  thổ như các công trình của Lê Bá Thảo (1964) về một vài vấn đề  động học của  bãi phù sa châu thổ  Bắc Bộ; Huỳnh Ngọc Hương và Nguyễn Đức Chính (1966)  về  tam giác châu thổ  hay đồng bằng hạ  lưu sông Hồng. Ngoài ra, trong những   năm 1961, 1964 ­ 1965, 1967 ­ 1969, Tổng cục Thủy sản kết hợp với các viện  nghiên cứu của Liên Xô cũ và Viện nghiên cứu biển đã tiến hành điều tra vùng   triều bờ Tây vịnh Bắc Bộ đã xác định được thành phần loài động vật đáy, thành   phần loài, trữ lượng và diện tích phân bố của các loài đặc sản, các giống tôm cua   cá trên bãi triều và tại các cửa sông (Ba Lạt, Lạch Giang, Đáy). Năm 1974 ­ 1976   Viện nghiên cứu biển tiến hành điều tra động vật vùng triều Hải Phòng. Nhiều  loài được xác định thuộc nhóm giun nhiều tơ, giáp xác, thân mềm, sâu đất, da gai,  tay cuốn. Về  thảm thực vật, đặc biệt có công trình: “ Đặc điểm sinh thái, phân   bố  của hệ  thực vật và thảm thực vật ven biển miền Bắc Việt Nam” ­ luận án  PTS Sinh học của Phan nguyên Hồng (1970), trong công trình này, các nhân tố  sinh thái vùng triều được phân tích khá toàn diện, kể cả việc hình thành, phân bố  của hệ  và thảm thực vật rừng ngập mặn. trong những năm 1970 ­ 1975, trạm   nghiên cứu Vịnh Bắc Bộ đã khảo sát, nghiên cứu địa mạo và trầm tích đáy ven   bờ Hải Phòng đến Quảng Ninh đặt nền móng cho nghiên cứu địa mạo biển tiếp   theo [26]. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 17
  18. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.2. Từ năm 1975 đến nay Trong giai đoạn này có hàng loạt các công trình nghiên cứu về biển và dải  ven biển được thực hiện. Tiêu biểu là các nghiên cứu sau: Từ  1976 đến 1979, Trạm nghiên cứu Vịnh Bắc Bộ  và Viện nghiên cứu  Hải sản tiến hành điều tra thành phần và phân bố  trầm tích hiện đại tầng mặt  vùng biển nông ven bờ từ Đồ Sơn đến Nghệ Tĩnh, xác định phạm vi phân tán bồi  tích được đưa ra từ  các cửa sông đến phạm vi vùng sườn bờ  ngầm nhằm mục  đích tim kiếm khoáng sản ven bờ. Cũng trong thời gian này bản đồ địa chất ­ địa  mạo tỷ lệ 1: 200.000 tờ Hải phòng  ­ Nam định được đoàn địa chất 204 tiến hành   đo vẽ và thành lập (tờ  bản đồ  địa chất này đã được cục địa chất và khoáng sản  VN chỉnh biên). Từ  năm 1980 đến 1985 có các công trình: “Điều tra môi trường vùng cửa   sông” do trường Đại học Tổng hợp Hà Nội chủ  trì kết hợp với phân viện Hải   Dương học tại Hải Phòng. Các số liệu điều tra của chương trình được tiến hành  khá đồng bộ theo mặt cắt chuẩn trên các bãi triều và vùng cửa sông. Tuy nhiên số  liệu còn ít, việc quan trắc còn chưa được tuân thủ theo đặc trưng động lực thành   tạo bãi triều. Đề  tài 48 B.06.14: “Nghiên cứu đặc điểm tự  nhiên và nguồn lợi dải ven  biển Việt Nam, đề xuất biện pháp sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn lợi”. Trong   đề tài này có công trình của Trần Đức Thạch và Nguyễn Đức Cự nghiên cứu về  Địa chất ­ địa mạo dải ven bờ phía Bắc Việt Nam là tiền đề cho các nghiên cứu   tiếp theo nhằm tìm hiểu bản chất thành tạo của vùng cửa sông Hồng hiện đại   [26]. Cũng trong thời gian này, còn có các công trình của Phạm Đình Trọng   (1984) nghiên cứu về khu hệ động vật đáy và đặc trưng sinh thái của chúng trong   vùng ngập mặn Hải Phòng ­ Quảng Yên. Phạm Đình Trọng và nnk (1985) nghiên   cứu về  nguồn lợi tôm giống trên đảo Đình Vũ và khả  năng sống sót của chúng  sau khu vớt bắt được. Đó là các công trình nghiên cứu theo chuyên ngành sinh thái   Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 18
  19. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững học và là những tư liệu khá quan trọng để tìm hiểu bản chất sinh thái trong ngiên  cứu về phân hóa cảnh quan sau này. Từ  1985 ­ 1990, đề  tài 48B.05.02: “Nghiên cứu sử  dụng hợp lý các bãi  triều lầy cửa sông ven biển Việt Nam”. Nguyễn Chu Hồi và đồng nghiệp đã tiến  hành nghiên cứu đề tài trong phạm vi phía Bắc Việt Nam. Các đặc trưng về động   lực hình thành xu thế  tiến hóa bãi triều, đặc trưng các hệ  sinh thái tại khu vực   ven bờ  đã được đề  cập một cách tổng quan. Các tư  liệu trên cạn và dưới nước  đã được khớp nối một cách có hệ thống. Từ 1990 đến 1995 là giai đoạn nghiên cứu khá quan trọng nhằm tìm hiểu   các đặc trưng cơ bản về hệ sinh thái cửa sông châu thổ sông Hồng. liên quan đến   vấn đề  này các các đề  tài: KT.03.11:“Sử  dụng hợp lý hệ  sinh thái trên biển ven  bờ  Việt Nam” lấy hệ  sinh thái vùng triều cửa sông Hồng làm vùng nghiên cứu   trọng điểm; “Hệ  sinh thái vùng triều miền bắc Việt Nam” của Nguyễn Xuân   Dục (1994); “sinh thái thảm thực vật rừng ngập mặn VN”(Luận án tiến sĩ Sinh  học) của Phan Nguyên Hồng (1991); “Nghiên cứu về đồng vật đáy trong hệ sính   thái rừng ngập mặn và đánh giá nguồn lợi sinh vật đáy” của Phạm Đình trọng   (1991, 1992, 1994, 1995).  Giai đoạn này cũng được đánh dấu bởi loạt công trình nghiên cứu dải ven   bờ  trên quan điểm động lực của Nguyễn Văn Cư: “Động lực vùng ven biển và  cửa sông Việt Nam” phần nghiên cứu cửa sông thuộc đề  tài 48B.02.01(1992);  “Đặc điểm các quá trình động lực hiện trạng bồi xói ven biển ĐBSH” thuộc đề  tài VIE 89/034(1994). Với quan điểm hiện đại và những phương pháp nghiên cứu  định lượng, cơ chế thành tạo bãi bồi cửa sông ven biển ĐBSH dần dần được làm  sáng tỏ. Có thể nói quan điểm này rất phù hợp quan điểm nghiên cứu CQST và là tiền đề  phân tích cấu trúc động lực của các đơn vị phân tích CQST [26]. Bên cạnh các công trình nghiên cứu theo hướng sinh thái và hướng động  lực như đã nêu trên, giai đoạn này còn có các công trình nghiên cứu về địa chất và  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 19
  20. Đánh giá tổng hợp điều kiện tự  nhiên – kinh tế  xã hội dải ven biển Đồng bằng sông   Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững địa mạo rất đáng trân trọng. Đó là sơ đồ cấu trúc kiến tạo, tân kiến tạo và kiến   tạo hiện đại của Nguyễn Cẩn (1992); Môi trường trầm tích và lịch sử  tiến hóa  trầm tích Holoxen vùng cửa sông Nam Triệu của Trần Đức Thạnh (1993); Hình  thái động lực dải ven bờ delta sông Hồng của Nguyễn Thế Tiệp (1993) đã phân  chia bờ  ra các đới hình thái – động lực theo cấu trúc ngang vùng cửa sông châu  thổ. Những tài liệu này là tiền đề để phân tích các yếu tố tạo nền và các yếu tố  xác định độ bền vững lãnh thổ của các đơn vị CQST hiện đại [26]. Một điểm nữa cần đáng lưu ý ở trong thời kỳ này là các công trình nghiên   cứu tổng hợp phục vụ cho mục đích sử dụng cụ thể: nghiên cứu và đánh giá tổng  hợp các điều kiện tự nhiên vùng ven biển Nghĩa Hưng của Lại Huy Anh và nnk  (1990), trước đó một năm có công trình của Nguyễn Kiêm Sơn và đồng nghiệp  (1989) ­ luận chứng khoa học kỹ  thuật cho việc sử  dụng hợp lý vùng bãi bồi   huyện Kim Sơn tỉnh Hà Nam Ninh. Trong các công trình này, các yếu tố thành tạo  CQST như  chế  độ  sóng gió, chế  độ  dao động mực nước ven bờ, chế  độ  thủy  triều, dòng triều dòng trôi do gió, dòng chảy lũ, dòng chảy ven bờ, yếu tố nhiệt  độ, lượng bốc hơi, độ  ẩm không khí, độ  mặn, độ  pH, thảm thực vật, động vật,  thổ  nhưỡng, trầm tích đáy, .. địa hình, địa mạo… được nghiên cứu có hệ  thống  và là những luận cứ  khoa học cho việc sử  dụng hợp lý bãi bồi. Tuy nhiên, các   định hướng sử  dụng chưa mang tính chất hợp lý cao do chưa đặt vùng nghiên  cứu trong sự phân hóa chung của toàn dải ven biển ĐBSH [25]. Từ  năm 1995 đến nay là giai đoạn thăng hoa của các công trình khoa học   mà trong đó quan điểm tổng hợp là nhân tố chủ đạo xuyên suốt ở trong mỗi một   công trình. Với đề  án:“ Điều tra cơ  bản tài nguyên môi trường nhằm khai thác   hợp lý đất hoang hóa các bãi bồi ven cửa sông Việt Nam”, Nguyễn Văn Cư  và  đồng nghiệp đã tiến hành điều tra nghiên cứu các bãi bồi ven biển cửa sông từ  Quảng Ninh đến Ninh Bình trong giai đoạn từ  1996 đến 1998. Kết quả  quan  trọng của đề  án là đã xây dựng được một bộ tư  liệu khá đồng bộ  các hợp phân  thành tạo CQST từ địa chất, địa mạo, trầm tích hiện đại tầng mặt, thủy văn, hải  Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2