Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội dải ven biển ĐBSH làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững
lượt xem 16
download
Mục tiêu của luận văn: Đánh giá các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường có tác động tới sản xuất nông nghiệp ở dải ven biển ĐBSH; nghiên cứu xác định các loại sử dụng đất, hiệu quả của các phương thức canh tác hiện có ở dải ven biển ĐBSH; đề xuất các giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững ở dải ven biển ĐBSH.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội dải ven biển ĐBSH làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Dải ven biển nằm trong số những hệ sinh thái quan trọng nhất trên trái đất. Những dải rừng đầm lầy vùng cửa sông, ven biển, các bãi triều, cung cấp dinh dưỡng cho môi trường nước, góp phần duy trì sức sản xuất của các thuỷ vực, cung cấp nhiều loại thuỷ sản và hải sản có giá trị cao cho con người. Môi trường sinh thái đất đai đa dạng vùng cửa sông, ven biển, đầm, hồ với nhiều nguồn nước mặn, lợ, ngọt khác nhau cho phép phát triển một nền nông nghiệp sinh thái năng động. Bên cạnh những lợi thế về nhiều mặt, vùng đất ven biển cũng nhạy cảm với các hoạt động của con người và tác động của thiên nhiên. Dải ven biển Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) được phân chia bởi ranh giới của 11 huyện, thị xã, thành phố thuộc các tỉnh/thành phố là: Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình, có diện tích tự nhiên 210.533 ha gắn liền với các hệ thống cảng biển và các cơ sở công nghiệp quan trọng. Vị trí địa lý của vùng thuận lợi cho phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Do trải dài từ: 19o53’ đến 21o34' vĩ độ Bắc nên có nhiều yếu tố và đặc điểm tự nhiên khác nhau đã chi phối, tác động tới quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Tuy nhiên, dải ven biển ĐBSH chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ, thường là những nghiên cứu đơn lẻ, không mang tính tổng thể nên việc khai thác sử dụng còn có nhiều hạn chế. Chính vì vậy, việc nghiên cứu: “Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội dải ven biển ĐBSH làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững” là đòi hỏi hết sức cấp bách và có ý nghĩa rất lớn về kinh tế, xã hội và môi trường nhằm: ́ ược đăc điêm c Đanh gia đ ́ ̣ ̉ ủa dải ven biên ĐBSH. ̉ Đề xuất các giai phap đ ̉ ́ ể sử dụng hợp ly d ́ ải ven biên ĐBSH cho phát ̉ triển nông nghiệp bền vững. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 1
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 2. Mục đích của đề tài Đánh giá các yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội và môi trường có tác động tới sản xuất nông nghiệp ở dải ven biển ĐBSH. Nghiên cứu xác định các loại sử dụng đất, hiệu quả của các phương thức canh tác hiện có ở dải ven biển ĐBSH. Đề xuất các giải pháp để phát triển nông nghiệp bền vững ở dải ven biển ĐBSH. 3. Ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn của đề tài 3.1. Ý nghĩa về lý luận của đề tài Góp phần cụ thể hóa thực trạng khai thác, sử dụng hợp lý dải ven biển ĐBSH vào sản xuất nông nghiệp. Xây dựng cơ sở khoa học cho việc bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý ở dải ven biển ĐBSH. 3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Đánh giá thực trạng điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội ở dải ven biển ĐBSH để khai thác, sử dụng bền vững vùng này. Lựa chọn được cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý để phát triển nông nghiệp bền vững ở dải ven biển ĐBSH. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 2
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ DẢI VEN BIỂN 1.1. Các khái niệm cơ bản 1.1.1. Dải ven biển 1.1.1.1. Trên thế giới Theo các tài liệu nước ngoài, tương đương với thuật ngữ “dải ven biển” của Việt Nam, có các thuật ngữ sau: Nga: vùng duyên hải Pháp: vùng ven biển (littoral hoặc cote) Anh: vùng ven biển (Coastal zone) Trung Quốc: Vùng duyên hải hay vùng diên hải Tại hội thảo Khoa học Quốc gia: “Nghiên cứu và quản lý vùng ven biển” tháng 12 năm 1992, Giáo sư Joe Baker của Viện Khoa học Biển Australia đã dẫn ra một số định nghĩa về dải ven biển như sau: Thứ nhất: “Dải ven biển là độ dài đường bờ biển của đất nước” “The lineal length of the country’s coastline”. Ông cho rằng định nghĩa này chưa thích đáng, vì nó không thể hiện được sự tương tác giữa biển và lục địa cũng như những biến đổi diễn ra do mối tương tác đó [25]. Tiếp đến ông lại dẫn ra định nghĩa khác: “Vùng ven biển là dải đất rộng 3km dọc đường bờ biển, bao gồm phần kéo dài của biển đến ranh giới ảnh hưởng của thủy triều vào trong đất liền”. Tuy định nghĩa này cũng đã đề cập đến tương tác biển lục địa, thông qua tác động của thủy triều, song vẫn có những hạn chế, nhất là khi nghiên cứu những vấn đề liên quan đến sử dụng đất đai, thổ nhưỡng và các vấn đề về kinh tế xã hội ... của dải ven biển. Sau cùng ông đưa ra định nghĩa: “Vùng ven biển là vùng đất biển kéo dài từ giới hạn phía trên của lưu vực các con sông, suối ... chảy vào biển, tới giới hạn của lục địa”. Với định nghĩa này thì vùng ven biển nước ta có phạm vi rất rộng và hầu như bao trùm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Do đó, việc xác định nội Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 3
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững dung nghiên cứu, trọng điểm nghiên cứu và quy hoạch phát triển vùng ven biển có nhiều khó khăn, không cụ thể và không sát với thực tế. Trong chương trình quản lý nguồn tài nguyên ven biển khu vực Đông Á, khi đề cập đến việc phân định ranh giới của dải ven biển, các nhà nghiên cứu của các nước ASEAN đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa các vấn đề sinh thái nhân văn với các vấn đề địa kinh tế xã hội trong việc phân định dải ven biển. Với cách tiếp cận này, các nhà nghiên cứu cho rằng vùng ven biển là vùng kinh tế xã hội và nhân văn có liên quan đến quá trình khai thác tài nguyên biển theo quan điểm phát triển bền vững phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Malayxia và Phillippine thì xác định ranh giới tương đối của vùng ven biển là vùng nước sâu 50m trên biển đến nơi có hệ sinh thái nước lợ tồn tại (khoảng 10km) còn Bangladet lại xác định vùng ven biển từ đường đẳng sâu 100 m đến vùng nước lợ ở các cửa sông lúc triều lên, vào sâu trong lục địa khoảng 12 km ... [25] Trong các nghiên cứu hỗ trợ cho lĩnh vực Môi trường ở Việt Nam, Tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế IUCN cũng rất quan tâm đến vùng ven biển và cho rằng “Việc xác định thế nào là vùng ven biển rất khó, song có thể nói đó là vùng tính sâu vào nội địa tới điểm ảnh hưởng của thủy triều lên các con sông, suối và các vùng đất ngập nước, hoặc tính sâu vào nội địa 10 km, tùy theo khoảng cách nào lớn hơn”. Cách hiểu này là tương đối phù hợp với hướng nghiên cứu những vấn đề về điều kiện tự nhiên và tài nguyên vùng ven biển. song đối với các nghiên cứu về dân cư, kinh tế xã hội của lãnh thổ này lại gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập và tính toán các số liệu thống kê [3]. Trong “Từ điển bách khoa các thuật ngữ Địa lý tự nhiên (bốn thứ tiếng Nga, Anh, Pháp, Đức), vùng ven biển được định nghĩa như sau: “Vùng ven biển là dải ranh giới giữa đất liền và biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến đặc trưng của các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại. Ở dạng đầy đủ hơn, bao gồm khái Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 4
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững niệm miền duyên hải là dải lục địa có các thềm biển cổ, dải bờ nơi có các dạng bờ hiện đại, và ven bờ biển là nơi có các dạng bờ cổ bị chìm ngập” [3]. Định nghĩa này trình bày khái niệm theo quan điểm địa mạo, địa lý tự nhiên. Cũng theo quan điểm này, một số tác giả khác sử dụng đường đẳng cao 25m làm ranh giới phía trong của vùng ven biển. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, ở phạm vi rộng hơn thì cách xác định ranh giới vùng ven biển như trên là chưa bao quát được hết những đối tượng nghiên cứu mà các nhà khoa học và quản lý quan tâm, nhất là trong các lĩnh vực khoa học Địa lý kinh tế xã hội, kinh tế học và nhân khẩu học. Phần lớn việc phân định ranh giới của dải ven biển dựa trên các căn cứ về tự nhiên. Riêng một số nghiên cứu về kinh tế xã hội lại thiên về việc phân định theo ranh giới hành chính. 1.1.1.2. Ở Việt Nam Trong báo cáo khoa học của Uỷ ban Quốc gia về biển của Việt Nam (IOC), GS.TSKH Đặng Ngọc Thanh, chủ nhiệm các Chương trình điều tra nghiên cứu biển của Việt Nam từ năm 1997 2000 đã đưa ra khái niệm vùng ven biển như sau: “ Vùng ven biển Việt Nam chạy dài trên 3200 km bờ biển của đất nước, bao gồm 24/50 tỉnh và thành phố, 100/400 huyện với số dân chiếm ¼ dân số cả nước ...”[3]. Theo cách hiểu như trên thì vùng ven biển nước ta được xác định bởi ranh giới hành chính các huyện có bờ biển. Cách xác định này giúp cho việc thu thập tài liệu, số liệu phục vụ các nghiên cứu về kinh tế xã hội và dân cư rất thuận lợi. Song cũng có những hạn chế, vì những hiện tượng và đối tượng nghiên cứu về tài nguyên thiên nhiên và điều kiện tự nhiên lại không bị hạn chế bởi ranh giới hành chính. Vì vậy, một số chuyên gia khác đã sử dụng giới hạn nhiễm mặn của đất và nước để làm ranh giới của vùng ven biển. Trong đề tài: “Đánh giá kinh tế tổng hợp tài nguyên biển Việt Nam phục vụ quy hoạch phát triển kinh tế đến năm 2005” mã số 48B.06.02, do viện Kế Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 5
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững hoạch dài hạn và phân bố LLSX thực hiện (1986 1990), các tác giả đã xác định vùng ven biển bao gồm dải đất liền ven biển tạm giới hạn bằng ranh giới hành chính của các huyện ven biển (từ Bắc xuống Nam có 105 huyện ven biển thuộc 24 tỉnh thành và đặc khu, trong đó có 3 thành phố và thị xã và 5 huyện đảo, với diện tích 5,9 triệu ha, bằng 18,1% diện tích lãnh thổ của cả nước) và phần trên biển gồm toàn bộ vùng biển và thềm lục địa Việt Nam (trong đó tập trung chủ yếu vào khu vực ven bờ, từ độ sâu 50m trở vào)[25]. Trong đề án Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển, vùng ven biển và các hải đảo Việt Nam đến năm 2010 do Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì (1995 1996), khi xác định phạm vi không gian quy hoạch, các tác giả cho rằng: “Kinh tế biển là sự kết hợp hữu cơ giữa các hoạt động kinh tế trên dải đất liền ven biển, trong đó biển chủ yếu đóng vai trò vùng khai thác nguyên liệu, là môi trường cho các hoạt động vận tải, du lịch biển ..., còn toàn bộ các hoạt động tổ chức sản xuất và phục vụ khai thác biển lại nằm trên đất liền ven biển. Do vậy, khi nói đến kinh tế biển không thể tách rời vùng biển với vùng ven biển và ngược lại”. Trong đề án nghiên cứu điều tra cơ bản cấp nhà nước: “Điều tra đánh giá hiện trạng môi trường tài nguyên nước dải ven biển Việt Nam phục vụ phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường”, do viện Địa lý, Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia thực hiện (1996 1999), các tác giả đã coi dải ven biển như “mặt phố” của nước ta. Mặc dù trong nội dung của đề án, các tác giả không đưa ra một định nghĩa hay vạch giới hạn cụ thể của vùng ven biển. Song, trong quá trình nghiên cứu, các tác giả đã vận dụng linh hoạt, kết hợp sử dụng ranh giới hành chính các huyện có đường bờ biển với việc phân tích các mối quan hệ tương tác biển lục địa, các điều kiện tự nhiên, các hoạt động kinh tế xã hội của các huyện gần bờ biển liền kề với các huyện có đường bờ biển để chọn thêm các huyện xếp vào lãnh thổ nghiên cứu Vùng ven biển. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 6
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Đề tài KC.09.11: “Cơ sở khoa học cho việc phát triển kinh tế xã hội dải ven biển Việt Nam. Đề xuất các mô hình phát triển cho một số khu vực trọng điểm” (2004) đã đưa ra khái niệm dải ven biển (hay còn gọi là vùng ven biển, đới bờ, dải ven bờ, hoặc dải bờ biển ...) được định nghĩa là một thực thể tự nhiên hoàn chỉnh cấp hành tinh, có đặc trưng riêng về nguồn gốc phát sinh, về hình thái, cấu trúc, về cơ cấu tài nguyên và quá trình phát triển, tiến hóa... [25]. Có thể nói dải ven biển là một khu vực động lực, thường xuyên biến đổi và là khu vực hết sức nhạy cảm đối với các tác động của tự nhiên cũng như các tác động của con người, mọi hoạt động kinh tế xã hội của con người diễn ra ở ngoài biển và trên các khu vực lân cận trong chừng mực nhất định đều có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến dải ven biển. Theo quan điểm của nhiều tác giả, ranh giới của dải ven biển bao gồm cả không gian trên biển và không gian trên đất liền ven biển. Trong đó: Phạm vi không gian trên biển được xác định là vùng biển và thềm lục địa kéo dài từ đường bờ biển ra đến hết vùng lãnh hải (trong phạm vi 12 hải lý trở vào tính từ đường cơ sở). Phạm vi không gian trên đất liền, xét theo các yếu tố tự nhiên bao gồm các khu vực chịu ảnh hưởng và tác động trực tiếp của các yếu tố biển như: khí hậu thủy văn, sóng gió, hải lưu, thủy triều, nhiễm mặn, cát bay, cát chảy, các vùng nước lợ... Nhưng phạm vi tác động này của từng yếu tố này trong từng khu vực có thể khác nhau nên rất khó xác định một ranh giới cụ thể. Còn xét theo các yếu tố kinh tế thì tùy từng lĩnh vực mà sự tương tác giữa các hoạt động kinh tế trên đất liền với các hoạt động kinh tế trên biển cũng có nội dung và mức độ khác nhau... nên phạm vi ranh giới của dải ven biển ở từng khu vực cũng khác nhau... Chính vì vậy, việc xác định phạm vi ranh giới của dải ven biển thường là tương đối và mang tính ước lệ, có khi trùng hợp với ranh giới hành chính và có khi không trùng với ranh giới hành chính. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 7
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Trên thực tế ngoài khái niệm dải ven biển ra, chúng ta còn gặp rất nhiều những thuật ngữ khác mang ý nghĩa tương tự như: vùng ven bờ, đới bờ, vùng bờ… Hầu hết các hướng dẫn Quản lý tổng hợp vùng ven bờ được xuất bản đều đồng ý rằng vùng ven bờ là khu vực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất liền. Đó là nơi các quá trình sinh thái phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau giữa đất liền và biển, các tác động này diễn ra khá phức tạp và nhạy cảm [15]. Vùng ven bờ thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và biển, bao gồm các môi trường ven bờ cũng như các vùng nước kế cận. Các thành phần của nó bao gồm các vùng châu thổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các rừng ngập mặn, đầm phá và các đặc trưng ven bờ khác. Khái niệm vùng ven bờ thường được xác định một cách tùy tiện, hơi khác nhau giữa các quốc gia và thường dựa vào giới hạn pháp lý và ranh giới hành chính. Ngoài ra còn có những sai khác về địa văn (physiography), sinh thái và kinh tế giữa các vùng khác nhau, do đó không có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều định nghĩa bổ sung phục vụ cho những mục đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề ranh giới cần được xem xét. Ví dụ ở một số nước Châu Âu, vùng ven bờ mở rộng ra tới vùng lãnh hải, một số nước khác thì lấy đường đẳng sâu làm giới hạn. Còn về ranh giới đất liền thì cũng rất mơ hồ do tác động của biển vào khí hậu có thể vào đến vùng nội địa bên trong cũng như vùng đồng bằng ngập lụt rộng lớn. Trong đề tài KC.09.27/0610: “Nghiên cứu cơ sở khoa học, pháp lý và phân vùng quản lý tổng hợp vùng ven bờ biển Việt Nam” thuộc Chương trình Khoa học Công nghệ Biển phục vụ Phát triển Kinh tế xã hội, các tác giả đã nêu khái niệm Đới bờ và vùng bờ như sau: Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 8
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững “Đới bờ (coastal zone) và vùng bờ (coastal area) là các mảng không gian nằm chuyển tiếp giữa lục địa và biển (đại dương), luôn chịu tác động tương hỗ giữa quá trình lục địa (chủ yếu là sông) và biển (chủ yếu là sóng, dòng chẩy và thuỷ triều), giữa các hệ thống tự nhiên (coastal system) và hệ nhân văn (tâm điểm là hoạt động của con người), giữa các ngành và những người sử dụng tài nguyên vùng bờ (hoặc tài nguyên bờ coastal resources) theo cả cấu trúc dọc (trung ương xuống địa phương) và cấu trúc ngang (các ngành trên cùng địa bàn), giữa cộng đồng dân địa phương với các thành phần kinh tế khác”. Vì thế, đới bờ/vùng bờ còn được gọi là đới tương tác, nhưng trong thực tế khi quản lý vùng bờ người ta thường rất ít quan tâm đến mối quan hệ bản chất này [3]. Trong đề tài KT.06.07:“Nghiên cứu xây dựng phương án quản lý tổng hợp vùng bờ biển Việt Nam, góp phần bảo đảm an toàn môi trường và phát triển bền vững” thuộc Chương trình điều tra nghiên cứu biển giai đoạn 1996 2000 do Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng thực hiện (1996 2000), các tác giả đã đưa ra một khái niệm tổng quát về đới bờ biển (hay dải ven biển) như sau: Đới bờ biển là một khu vực chuyển tiếp giữa lục địa và biển, một đới động và nhạy cảm, và là một hệ thống tự nhiên đặc trưng bởi các quá trình tương tác; một khu vực có tiềm năng tài nguyên phục vụ phát triển đa ngành và là nơi chịu tác động mạnh của các hoạt động của con người [24]. Để thuận tiện cho việc đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, tác giả luận văn đồng ý với quan niệm Dải ven biển (hay vùng ven biển) Việt Nam chạy dài theo 3200 km bờ biển với ranh giới trùng với địa giới hành chính của các quận, huyện ven biển. Dải ven biển ĐBSH chạy dài gần 300 km bờ biển thuộc địa giới hành chính của 11 quận, huyện của 4 tỉnh như sau: Thủy Nguyên, Hải An, Đồ Sơn, Kiến Thụy, Tiên Lãng (Hải Phòng); Giao Thủy, Hải Hậu, Nghĩa Hưng (Nam Định), Thái Thụy, Tiền Hải (Nam Định); Kim Sơn (Ninh Bình). Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 9
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 1.1.2. Phát triển bền vững 1.1.2.1. Khái niệm Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ báo cáo Brundtland (báo cáo Our Common Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." 1. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế xã hội môi trường [12]. Báo cáo này cũng đã nhấn mạnh 8 nội dung của PTBV: 1. Quan niệm lại khái niệm tăng trưởng; 2. Thay đổi chất lượng của sự tăng trưởng; 3. Đáp ứng các nhu cầu cốt yếu về việc làm, lương thực, năng lượng, nước sạch và vệ sinh; 4. Đảm bảo sự bền vững về dân số; 5. Bảo tồn và phát triển tài nguyên; 6. Định hướng công nghệ và quản lý rủi ro; 7. Tích hợp công tác bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế trong quá trình ra quyết định; Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 10
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 8.Định hướng quan hệ quốc tế trong phát triển kinh tế. Định nghĩa của WCED về PTBV được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Một định nghĩa khác cũng được nhiều người nhắc tới là trong cuốn sách “Hãy cứu lấy Trái Đất” (IUCN, UNDP, WWF, 1991) trong đó định nghĩa: PTBV là “sự nâng cao chất lượng đời sống con người trong lúc đang tồn tại, trong khuôn khổ đảm bảo của các hệ sinh thái”, còn tính bền vững là “một đặc điểm đặc trưng của một quá trình hoặc một trạng thái có thể duy trì mãi mãi”. Nội hàm về PTBV được tái khẳng định ở Hội nghị Rio 92 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại Hội nghị Johannesburg 2002: “PTBV là quá trình phát triển cớ sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là phát triển kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” [12]. 1.1.2.2. Các mô hình phát triển bền vững Nói một cách khái quát, PTBV là sự phát triển hài hòa về cả ba mặt: kinh tế, xã hội, và môi trường nhằm không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của con người không những cho thế hệ hiện tại mà còn cho thế hệ mai sau. Có một số mô hình/sơ đồ PTBV với những sai khác nhất định về sự hài hòa giữa các lĩnh vực khác nhau của hoạt động kinh tế xã hội, chính trị và môi trường. Tất cả các mô hình trên đều có điểm chung là chú ý tới phúc lợi lâu dài của con người và đều bao hàm những yêu cầu về sự phối hợp, lồng ghép một cách hài hòa ít nhất là ba mặt: tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. PTBV về kinh tế: là sự tiến bộ về mọi mặt của nền kinh tế thể hiện ở quá trình tăng trưởng kinh tế ổn định và sự thay đổi về chất của nền kinh tế, gắn với quá trình tăng năng xuất lao động, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường theo hướng tiến bộ. Mục tiêu của PTBV về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của người dân, tránh được sự suy thoái hoặc đình trệ trong tương Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 11
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững lại, tránh để lại gánh nặng nợ nần cho các thế hệ mai sau. Để đạt được sự PTBV về kinh tế, điều kiện tiên quyết là phải có: Tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Tăng trưởng kinh tế phải dựa trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Tăng trưởng kinh tế phải dựa vào năng lực nội sinh là chủ yếu và phải làm tăng năng lực nội sinh. Mô hình PTBV của Jacobs và Sadler, 1990 Hình 1. Mô hình PTBV của WCED, 1987 Hình 2. Mô hình PTBV của Jacob, 1990 Mục tiêu kinh tế Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường Mục tiêu Mục tiêu 12 xã hội sinh thái
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững PTBV Hình 3. Mô hình PTBV của World Bank PTBV về xã hội: Là quá trình phát triển đạt được kết quả ngày càng cao trong việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đảm bảo chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe cho người dân, mọi người đều có cơ hội trong giáo dục, có việc làm, giảm tình trạng đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho mọi thành viên của xã hội. Để PTBV về xã hội cần chú ý những nội dung sau: Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết việc làm cho người lao động. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo ổn định xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. PTBV về môi trường: Là khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý và kiểm soát có hiệu quả ô nhiễm môi trường. Trong PTBV người ta còn đề cập tới khía cạnh đạo đức của vấn đề: Đó là mọi người đều có các quyền cơ bản như nhau, như quyền được sống, quyền được tự do, quyền được hưởng tài nguyên và môi trường của trái đất. Các thế hệ đều có quyền như nhau trong việc thỏa mãn các nhu cầu phát triển của mình. Các loài sinh vật tạo nên sinh quyển nằm trong khối thống nhất của các hệ tự nhiên của Trái đất phải được đảm bảo quyền tồn tại cho dù nó có ý nghĩa như thế nào đối với con người. Mọi người đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau trong việc bảo vệ tài nguyên và môi trường Trái đất, cũng như việc bảo vệ con người vượt lên trên mọi ranh giới địa lý, xã hội, tư tưởng, văn hóa [23]. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 13
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Đối với Việt Nam, mô hình phát triển bền vững được sử dụng hiện nay là mô hình có sự lồng ghép giữa mô hình của WCED với mô hình của Jacob và Sadler, nhưng chủ yếu vẫn là mô hình của Jacob và Sadler. Trong định hướng chiến lược phát triển thế kỷ 21 của Việt Nam (Agenda 21) ba trụ cột cơ bản kinh tế, xã hội và môi trường được thể hiện rất rõ ràng với những chỉ tiêu cụ thể [12,17]. 1.1.2.3. Nông nghiệp phát triển bền vững a. Trên thế giới Theo định nghĩa của TAC/CCIARC (Ban c ố vấn k ỹ thu ật thu ộc nhóm chuyên gia quốc tế về nghiên cứu nông nghiệp của Liên hợp quốc): Nông nghiệp bền vững phải bao hàm sự quản lý thành công tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người đồng thời cải tiến chất lượng môi trường và gìn giữ đượ c tài nguyên thiên nhiên. Năm 1991, nhóm hoạt động về vấn đề lương thực thuộc Uỷ ban Hợp tác của các tổ chức phát triển Phi chính phủ (NGDOs) ở Cộng đồng châu Âu thống nhất đưa ra định nghĩa: Nông nghiệp bền vững được thiết lập nhằm đáp ứng cả nhu cầu của người dân cũng như các mặt hạn chế về tự nhiên và điều kiện sinh thái ở một vùng xác định. Mục đích là đưa năng suất cây trồng lên mức cao trên cơ sở bền vững và lâu dài mà không hủy hoại môi trường sống. Theo tổ chức về môi trường sinh thái thế giới (WOED) đã định nghĩa nông nghiệp bền vững như sau: nông nghiệp bền vững là nền nông nghiệp thỏa mãn được các nhu cầu của thế hệ hiện nay mà không làm giảm khả năng ấy đối với các thế hệ mai sau [16]. b. Việt Nam Các nghiên cứu về phát triển bền vững bắt đầu được nghiên cứu từ khoảng cuối thập niên 80 đầu thập nhiên 90 của thế kỷ XX. Thể hiện cụ thể nhất là quyết định số 153/2004/QĐTTg ngày 1782004 của Thủ tướng chính phủ ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 14
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững trình nghị sự 21 của Việt nam). Trong 8 nội dung chính của chương trình hành động thì nội dung thứ 4 đã đề cập đến các nội dung về phát triển nông nghiệp bền vững ở Việt Nam. Đối với Việt Nam, trong chiến lược phát triển bền vững quốc gia, thời gian tới ngành Nông nghiệp và PTNT sẽ tập trung vào các lĩnh vực then chốt sau đây: Về kinh tế: Đẩy mạnh quá trình chuyển đổi ruộng đất ở những vùng ruộng đất manh mún, phân tán bằng biện pháp dồn điền đổi thửa; tiến tới xây dựng các mô hình sản xuất có quy mô lớn hơn phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hóa, phù hợp cho chuyển giao kỹ thuật, công nghệ. Phát triển sản xuất gắn với tăng cường hệ thống chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ nông lâm thủy sản; đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi và cơ cấu lại kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chú trọng nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Giải quyết tốt quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch bố trí khu công nghiệp và phát triển ngành nghề, bố trí cấp nước và xử lý chất thải sản xuất và chất thải sinh hoạt ở nông thôn để ngăn chặn ô nhiễm. Về xã hội: Tiếp tục tăng cường hệ thống hạ tầng nông thôn, tập trung củng cố hệ thống tưới tiêu, tăng cường hệ thống đê sông, đê biển và các công trình phòng chống thiên tai. Nâng cấp cải tạo hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thông tin và các dịch vụ xã hội khác đáp ứng nhu cầu tiếp cận đến các dịch vụ sản xuất, dịch vụ xã hội của người dân nông thôn. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 15
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực ở nông thôn, trước hết tăng cường đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn kỹ thuật, kinh tế cho vùng nông thôn có đủ năng lực đáp ứng cho tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế. Về môi trường: Tăng cường biện pháp chống suy thoái đất; sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả bền vững tài nguyên đất trên cơ sở áp dụng các mô hình canh tác hợp lý trên từng loại địa hình, loại đất và từng vùng sinh thái. Rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng: phòng hộ, đặc dụng và sản xuất cho từng địa phương và cho cả nước theo hướng phát triển bền vững. Tăng cường biện pháp bảo vệ và phát triển rừng để đảm bảo tăng độ che phủ lên 43% vào năm 2010. Nâng cao nhận thức về giá trị đầy đủ của rừng bao gồm lợi ích kinh tế, lợi ích sinh thái và các giá trị phi sử dụng khác. Bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước, có biện pháp khai thác và quản lý nguồn nước hợp lý để hạn chế tình trạng thất thoát lãng phí cũng như nguy cơ ô nhiễm và cạn kiệt nguồn nước. Tăng cường công tác nghiên cứu thu thập và bảo tồn nguồn gen giống cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và các vật nuôi ở các địa phương nhằm tăng tính đa dạng sinh học. Tập trung thay đổi chất lượng giống cây trồng, vật nuôi, áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến, để hạn chế dư lượng các hóa chất nông nghiệp, thuốc phòng trừ sâu bệnh trong sản phẩm nông nghiệp và trong môi trường đất, nước [16]. Từ việc kế thừa những thành tựu nghiên cứu trước đó và căn cứ vào điều kiện thực tiễn của Việt nam, tác giả đưa ra kết luận như sau: Phát triển nông nghiệp bền vững (bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp) là quá trình sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, giải quyết tốt các vấn đề xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái trên cơ sở đảm bảo thỏa mãn các nhu cầu của con người trong hiện tại và tương lai và được xã hội chấp nhận. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 16
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 1.2. Các nghiên cứu về điều kiện tự nhiên – kinh tế, xã hội dải ven biển ĐBSH Ở nước ta, khái niệm về dải ven biển cũng được đề cập từ lâu và dưới nhiều góc độ khác nhau và trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Đặc biệt từ giữa những năm 70 của thế kỷ trước đến nay, trong những công trình khoa học liên quan đến biển và dải ven biển nước ta, các nhà khoa học Việt Nam đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về dải ven biển và các phương án khác nhau để xác định ranh giới của dải ven biển khác. Sau đây là một số công trình tiêu biểu. 1.2.1. Từ năm 1954 đến 1975 Gồm các công trình đơn lẻ tản mạn, đề cập tới tình chất bồi tụ của châu thổ như các công trình của Lê Bá Thảo (1964) về một vài vấn đề động học của bãi phù sa châu thổ Bắc Bộ; Huỳnh Ngọc Hương và Nguyễn Đức Chính (1966) về tam giác châu thổ hay đồng bằng hạ lưu sông Hồng. Ngoài ra, trong những năm 1961, 1964 1965, 1967 1969, Tổng cục Thủy sản kết hợp với các viện nghiên cứu của Liên Xô cũ và Viện nghiên cứu biển đã tiến hành điều tra vùng triều bờ Tây vịnh Bắc Bộ đã xác định được thành phần loài động vật đáy, thành phần loài, trữ lượng và diện tích phân bố của các loài đặc sản, các giống tôm cua cá trên bãi triều và tại các cửa sông (Ba Lạt, Lạch Giang, Đáy). Năm 1974 1976 Viện nghiên cứu biển tiến hành điều tra động vật vùng triều Hải Phòng. Nhiều loài được xác định thuộc nhóm giun nhiều tơ, giáp xác, thân mềm, sâu đất, da gai, tay cuốn. Về thảm thực vật, đặc biệt có công trình: “ Đặc điểm sinh thái, phân bố của hệ thực vật và thảm thực vật ven biển miền Bắc Việt Nam” luận án PTS Sinh học của Phan nguyên Hồng (1970), trong công trình này, các nhân tố sinh thái vùng triều được phân tích khá toàn diện, kể cả việc hình thành, phân bố của hệ và thảm thực vật rừng ngập mặn. trong những năm 1970 1975, trạm nghiên cứu Vịnh Bắc Bộ đã khảo sát, nghiên cứu địa mạo và trầm tích đáy ven bờ Hải Phòng đến Quảng Ninh đặt nền móng cho nghiên cứu địa mạo biển tiếp theo [26]. Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 17
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững 1.2.2. Từ năm 1975 đến nay Trong giai đoạn này có hàng loạt các công trình nghiên cứu về biển và dải ven biển được thực hiện. Tiêu biểu là các nghiên cứu sau: Từ 1976 đến 1979, Trạm nghiên cứu Vịnh Bắc Bộ và Viện nghiên cứu Hải sản tiến hành điều tra thành phần và phân bố trầm tích hiện đại tầng mặt vùng biển nông ven bờ từ Đồ Sơn đến Nghệ Tĩnh, xác định phạm vi phân tán bồi tích được đưa ra từ các cửa sông đến phạm vi vùng sườn bờ ngầm nhằm mục đích tim kiếm khoáng sản ven bờ. Cũng trong thời gian này bản đồ địa chất địa mạo tỷ lệ 1: 200.000 tờ Hải phòng Nam định được đoàn địa chất 204 tiến hành đo vẽ và thành lập (tờ bản đồ địa chất này đã được cục địa chất và khoáng sản VN chỉnh biên). Từ năm 1980 đến 1985 có các công trình: “Điều tra môi trường vùng cửa sông” do trường Đại học Tổng hợp Hà Nội chủ trì kết hợp với phân viện Hải Dương học tại Hải Phòng. Các số liệu điều tra của chương trình được tiến hành khá đồng bộ theo mặt cắt chuẩn trên các bãi triều và vùng cửa sông. Tuy nhiên số liệu còn ít, việc quan trắc còn chưa được tuân thủ theo đặc trưng động lực thành tạo bãi triều. Đề tài 48 B.06.14: “Nghiên cứu đặc điểm tự nhiên và nguồn lợi dải ven biển Việt Nam, đề xuất biện pháp sử dụng hợp lý và bảo vệ nguồn lợi”. Trong đề tài này có công trình của Trần Đức Thạch và Nguyễn Đức Cự nghiên cứu về Địa chất địa mạo dải ven bờ phía Bắc Việt Nam là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm tìm hiểu bản chất thành tạo của vùng cửa sông Hồng hiện đại [26]. Cũng trong thời gian này, còn có các công trình của Phạm Đình Trọng (1984) nghiên cứu về khu hệ động vật đáy và đặc trưng sinh thái của chúng trong vùng ngập mặn Hải Phòng Quảng Yên. Phạm Đình Trọng và nnk (1985) nghiên cứu về nguồn lợi tôm giống trên đảo Đình Vũ và khả năng sống sót của chúng sau khu vớt bắt được. Đó là các công trình nghiên cứu theo chuyên ngành sinh thái Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 18
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững học và là những tư liệu khá quan trọng để tìm hiểu bản chất sinh thái trong ngiên cứu về phân hóa cảnh quan sau này. Từ 1985 1990, đề tài 48B.05.02: “Nghiên cứu sử dụng hợp lý các bãi triều lầy cửa sông ven biển Việt Nam”. Nguyễn Chu Hồi và đồng nghiệp đã tiến hành nghiên cứu đề tài trong phạm vi phía Bắc Việt Nam. Các đặc trưng về động lực hình thành xu thế tiến hóa bãi triều, đặc trưng các hệ sinh thái tại khu vực ven bờ đã được đề cập một cách tổng quan. Các tư liệu trên cạn và dưới nước đã được khớp nối một cách có hệ thống. Từ 1990 đến 1995 là giai đoạn nghiên cứu khá quan trọng nhằm tìm hiểu các đặc trưng cơ bản về hệ sinh thái cửa sông châu thổ sông Hồng. liên quan đến vấn đề này các các đề tài: KT.03.11:“Sử dụng hợp lý hệ sinh thái trên biển ven bờ Việt Nam” lấy hệ sinh thái vùng triều cửa sông Hồng làm vùng nghiên cứu trọng điểm; “Hệ sinh thái vùng triều miền bắc Việt Nam” của Nguyễn Xuân Dục (1994); “sinh thái thảm thực vật rừng ngập mặn VN”(Luận án tiến sĩ Sinh học) của Phan Nguyên Hồng (1991); “Nghiên cứu về đồng vật đáy trong hệ sính thái rừng ngập mặn và đánh giá nguồn lợi sinh vật đáy” của Phạm Đình trọng (1991, 1992, 1994, 1995). Giai đoạn này cũng được đánh dấu bởi loạt công trình nghiên cứu dải ven bờ trên quan điểm động lực của Nguyễn Văn Cư: “Động lực vùng ven biển và cửa sông Việt Nam” phần nghiên cứu cửa sông thuộc đề tài 48B.02.01(1992); “Đặc điểm các quá trình động lực hiện trạng bồi xói ven biển ĐBSH” thuộc đề tài VIE 89/034(1994). Với quan điểm hiện đại và những phương pháp nghiên cứu định lượng, cơ chế thành tạo bãi bồi cửa sông ven biển ĐBSH dần dần được làm sáng tỏ. Có thể nói quan điểm này rất phù hợp quan điểm nghiên cứu CQST và là tiền đề phân tích cấu trúc động lực của các đơn vị phân tích CQST [26]. Bên cạnh các công trình nghiên cứu theo hướng sinh thái và hướng động lực như đã nêu trên, giai đoạn này còn có các công trình nghiên cứu về địa chất và Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 19
- Đánh giá tổng hợp điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội dải ven biển Đồng bằng sông Hồng làm cơ sở cho phát triển nông nghiệp bền vững địa mạo rất đáng trân trọng. Đó là sơ đồ cấu trúc kiến tạo, tân kiến tạo và kiến tạo hiện đại của Nguyễn Cẩn (1992); Môi trường trầm tích và lịch sử tiến hóa trầm tích Holoxen vùng cửa sông Nam Triệu của Trần Đức Thạnh (1993); Hình thái động lực dải ven bờ delta sông Hồng của Nguyễn Thế Tiệp (1993) đã phân chia bờ ra các đới hình thái – động lực theo cấu trúc ngang vùng cửa sông châu thổ. Những tài liệu này là tiền đề để phân tích các yếu tố tạo nền và các yếu tố xác định độ bền vững lãnh thổ của các đơn vị CQST hiện đại [26]. Một điểm nữa cần đáng lưu ý ở trong thời kỳ này là các công trình nghiên cứu tổng hợp phục vụ cho mục đích sử dụng cụ thể: nghiên cứu và đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên vùng ven biển Nghĩa Hưng của Lại Huy Anh và nnk (1990), trước đó một năm có công trình của Nguyễn Kiêm Sơn và đồng nghiệp (1989) luận chứng khoa học kỹ thuật cho việc sử dụng hợp lý vùng bãi bồi huyện Kim Sơn tỉnh Hà Nam Ninh. Trong các công trình này, các yếu tố thành tạo CQST như chế độ sóng gió, chế độ dao động mực nước ven bờ, chế độ thủy triều, dòng triều dòng trôi do gió, dòng chảy lũ, dòng chảy ven bờ, yếu tố nhiệt độ, lượng bốc hơi, độ ẩm không khí, độ mặn, độ pH, thảm thực vật, động vật, thổ nhưỡng, trầm tích đáy, .. địa hình, địa mạo… được nghiên cứu có hệ thống và là những luận cứ khoa học cho việc sử dụng hợp lý bãi bồi. Tuy nhiên, các định hướng sử dụng chưa mang tính chất hợp lý cao do chưa đặt vùng nghiên cứu trong sự phân hóa chung của toàn dải ven biển ĐBSH [25]. Từ năm 1995 đến nay là giai đoạn thăng hoa của các công trình khoa học mà trong đó quan điểm tổng hợp là nhân tố chủ đạo xuyên suốt ở trong mỗi một công trình. Với đề án:“ Điều tra cơ bản tài nguyên môi trường nhằm khai thác hợp lý đất hoang hóa các bãi bồi ven cửa sông Việt Nam”, Nguyễn Văn Cư và đồng nghiệp đã tiến hành điều tra nghiên cứu các bãi bồi ven biển cửa sông từ Quảng Ninh đến Ninh Bình trong giai đoạn từ 1996 đến 1998. Kết quả quan trọng của đề án là đã xây dựng được một bộ tư liệu khá đồng bộ các hợp phân thành tạo CQST từ địa chất, địa mạo, trầm tích hiện đại tầng mặt, thủy văn, hải Nguyễn Thị Thu Hà – K17 – Cao học Môi Trường 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 411 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 234 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn