intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá bước đầu về thành phần loài, cấu trúc và động thái tái sinh của các ô tiêu chuẩn định vị trong rừng lá rộng thường xanh vườn quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

23
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nhằm góp phần nghiên cứu và khẳng định thêm một số kiến thức về đặc điểm lâm học (thành phần loài và đa dạng thực vật, cấu trúc lâm phần và động thái tái sinh) của rừng lá rộng thường xanh tại Vườn Quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh). Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Đánh giá bước đầu về thành phần loài, cấu trúc và động thái tái sinh của các ô tiêu chuẩn định vị trong rừng lá rộng thường xanh vườn quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh)

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP * * * NGUYỄN THỊ THUÝ ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, CẤU TRÚC VÀ ĐỘNG THÁI TÁI SINH CỦA CÁC Ô TIÊU CHUẨN ĐỊNH VỊ TRONG RỪNG LÁ RỘNG THƯỜNG XANH VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG (HÀ TĨNH) LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, Năm 2009
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP * * * NGUYỄN THỊ THUÝ ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI, CẤU TRÚC VÀ ĐỘNG THÁI TÁI SINH CỦA CÁC Ô TIÊU CHUẨN ĐỊNH VỊ TRONG RỪNG LÁ RỘNG THƯỜNG XANH VƯỜN QUỐC GIA VŨ QUANG (HÀ TĨNH) Chuyên ngành: Lâm Học LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Trần Văn Con Hà Nội, Năm 2009
  3. Lêi c¶m ¬n Để đánh giá kết quả sau 3 năm đào tạo cao học lâm nghiệp 2007 – 2009, được sự nhất trí của Trường Đại học lâm nghiệp, tôi thực hiện Luận văn tốt nghiệp “Đánh giá bước đầu về thành phần loài, cấu trúc và động thái tái sinh của các ô tiêu chuẩn định vị trong rừng lá rộng thường xanh vườn quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh)”. Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ tận tình, chu đáo của Ban giám hiệu, Khoa Đào tạo Sau Đại học Trường Đại học Lâm nghiệp, Phòng nghiên cứu kỹ thuật Lâm sinh- Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS. Trần Văn Con đã tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn Khoa Đào tạo Sau đại học Trường Đại học Lâm nghiệp, Phòng nghiên cứu kỹ thuật Lâm sinh-Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp nơi tôi đang công tác đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Do hạn chế về trình độ, thời gian và kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu, bản luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, tháng 10 năm 2009 Tác giả Nguyễn Thị Thuý
  4. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Vốn được mệnh danh là "lá phổi " của trái đất, rừng có vai trò rất quan trọng trong việc duy trì cân bằng sinh thái và sự đa dạng sinh học trên hành tinh chúng ta. Bởi vậy, bảo vệ rừng và nguồn tài nguyên rừng luôn trở thành một nội dung, một yêu cầu không thể trì hoãn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới nhằm bảo vệ môi trường sống đang bị huỷ hoại ở mức báo động mà nguyên nhân chủ yếu là do chính hoạt động của con người gây ra. Trên phạm vi toàn thế giới, chỉ tính riêng trong vòng 4 thập niên trở lại đây, 50% diện tích rừng đã bị biến mất do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo tính toán của các chuyên gia của Tổ chức nông - lương thế giới (FAO) thì hàng năm có tới 11,5 triệu hecta rừng bị chặt phá và bị hoả hoạn thiêu trụi trên toàn cầu, trong khi diện tích rừng trồng mới chỉ vỏn vẹn 1,5 triệu hecta. Rừng nguyên sinh bị tàn phá, đất đai bị xói mòn dẫn tới tình trạng sa mạc hoá ngày càng gia tăng. Nhiều loài động - thực vật, lâm sản quý bị biến mất trong danh mục các loài quý hiếm, số còn lại đang phải đối mặt với nguy cơ dần dần bị tuyệt chủng. Nghiêm trọng hơn, diện tích rừng thu hẹp trên quy mô lớn đã làm tổn thương "lá phổi" của tự nhiên, khiến bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng, mất cân bằng, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ con người và đời sống động, thực vật.v.v... Là một quốc gia đất hẹp người đông, Việt Nam hiện nay có chỉ tiêu rừng vào loại thấp, chỉ đạt mức bình quân khoảng 0,14 ha rừng, trong khi mức bình quân của thế giới là 0,97 ha/ người. Các số liệu thống kê cho thấy, Ở Việt Nam, độ che phủ rừng giảm đáng kể so với trước đây: Năm 1943, diện tích rừng nước ta vào khoảng 14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 43%, năm 1993 còn 28%. Đến năm 1999, theo số liệu thống kê chỉ còn 10,9 triệu ha, trong đó 9,4 triệu ha là rừng tự nhiên; 1,5 triệu ha là rừng trồng với độ che phủ tương ứng là 33,2%. Nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng tài nguyên rừng không hợp lý trong khoảng thời gian dài và kiến thức cơ bản về các đặc điểm cấu trúc và động thái của rừng tự nhiên vẫn còn rất hạn chế.
  5. 2 Nghiên cứu thành phần loài, cấu trúc và động thái của rừng tự nhiên là một công việc rất cần thiết để nắm bắt được các qui luật phát triển của rừng nhằm đưa ra các quyết định và biện pháp điều chỉnh hợp lý, kịp thời trong từng giai đoạn phát triển của rừng, nhằm duy trì rừng như một hệ sinh thái ổn định, có sự hài hoà của các nhân tố cấu trúc, lợi dụng tối đa mọi tiềm năng của điều kiện lập địa và phát huy bền vững các chức năng có lợi của rừng về kinh tế, xã hội và môi trường. Theo định nghĩa thì lâm học nghiên cứu các đặc trưng sinh học của cây rừng với tư cách là những cá thể và với tư cách là cả quần thụ của chúng. Lâm học nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa các thành phần của hệ sinh thái rừng và giữa chúng với môi trường. Nói tóm lại, lâm học đã truyền tải các kiến thức khoa học thành các thông tin thực tiễn về nhu cầu lập địa để một lâm phần rừng và các loài cây cấu thành nên nó tái sản xuất và sinh trưởng có hiệu quả nhất. Hay nói cách khác, lâm học chính là lý thuyết và thực tiễn của việc thiết lập các hệ sinh thái rừng có các đặc trưng cấu trúc, động thái và chức năng đáp ứng tốt nhất một hoặc nhiều mục tiêu của xã hội loài người. Xuất phát từ thực tiễn đó, trong khuôn khổ của một luận văn cao học, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá bước đầu về thành phần loài, cấu trúc và động thái tái sinh của các ô tiêu chuẩn định vị trong rừng lá rộng thường xanh vườn quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh)”. Đây là một trong những nội dung nghiên cứu thuộc đề tài “Nghiên cứu các đặc điểm cấu trúc và động thái của một số kiểu rừng chủ yếu ở Việt Nam” do nhóm nghiên cứu của TS. Trần Văn Con, Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam thực hiện.
  6. 3 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Khái quát về cấu trúc rừng Cấu trúc rừng là quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần thể thực vật rừng theo không gian và thời gian (Phùng Ngọc Lan, 1986) [10]. Cấu trúc rừng bao gồm: cấu trúc sinh thái (tổ thành, dạng sống, tầng phiến), cấu trúc hình thái (tầng thứ, mật độ, mạng hình phân bố) và cấu trúc thời gian (N/D). Công trình nghiên cứu có hệ thống nhất về cấu trúc rừng tự nhiên Việt Nam cần được tham khảo là của Nguyễn Văn Trương, (1983). Cấu trúc sinh thái: Rừng tự nhiên nhiệt đới là các kiểu rừng có cấu trúc sinh thái phức tạp nhất về thành phần loài, tầng phiến và dạng sống thể hiện sự phong phú về đa dạng sinh học. Các chỉ tiêu để chỉ sự đa dạng về loài của rừng tự nhiên là hệ số hỗn loài (số loài/số cây). Trong rừng tự nhiên ở Việt Nam hệ số này biến động từ 1/5 đến 1/13. Tổ thành là nhân tố diễn tả số loài tham gia và số cá thể của từng loài trong thành phần cây gỗ của rừng. Hiểu một cách khác,tổ thành cho biết sự tổ hợp và mức độ tham gia của các loài cây khác nhau trên cùng đơn vị thể tích. Tổ thành của các khu rừng nhiệt đới thường phong phú về các loài hơn là tổ thành các loài cây của rừng ôn đới. Cấu trúc tổ thành loài nghiên cứu về tầm quan trọng sinh thái của mỗi loài trong quần thụ, các chỉ tiêu để định lượng về tổ thành thường được dùng là giá trị IV (Important Value) tính bằng %. Giá trị này được tính cho tỷ trọng số cây của một loài so với tổng quần thụ, hay tỷ trọng tiết diện ngang G, hoặc tổng của hai chỉ tiêu này. Các loài có giá trị IV%> 5 được xếp vào các loài ưu thế. Phục vụ mục tiêu quản lý, người ta cũng nghiên cứu các quan hệ tương hỗ giữa các loài (nhóm sinh thái); nhóm các loài mục đích, các loài phù trợ và các loài phi mục đích. Sự phân chia này là tương đối vì loài phi mục đích hôm nay có thể trở thành loài kinh tế trong tương lai và ngược lại. Việc khai thác rừng sẽ làm thay đổi cấu trúc tổ thành loài. Nghiên cứu ở Lâm Trường Ba Rền cho thấy, trong khi nhóm loài cây mục đích ở rừng giàu và trung bình chiếm 30-50% thì ở rừng nghèo sau khai thác nhiều lần chỉ chiếm 13-25%. Ở Hương Sơn có những vùng Chẹo và Ngát chiếm 32%, các loài
  7. 4 khác chiếm 41% nghĩa là 73% ưu thế là các loài kém giá trị kinh tế. Tại Kon Hà Nừng cũng nhận thấy tổ thành các loài có giá trị kinh tế ở rừng giàu (Giổi, Sữa, Xoay, Re, Xoan đào, Thông nàng...) chiếm 20% trong khi ở rừng nghèo chỉ có 13%. Cấu trúc thời gian (N/D): Cấu trúc về mặt thời gian, trạng thái tuổi tác của các loài cây tham gia hệ sinh thái rừng, sự phân bố này có mối liên quan chặt chẽ với cấu trúc về mặt không gian. Trong nghiên cứu và kinh doanh rừng người ta thường phân tuổi lâm phần thành các cấp tuổi. Thường thì mỗi cấp tuổi có thời gian là 5 năm, nhiều khi là các mức 10, 15, hoặc 20 năm tùy theo đổi tượng và mục đích. Phân bố số cây theo cấp kính là một trong những cơ sở quan trọng nhất của kết cấu lâm phần. Đường kính là thành phần tham gia chủ yếu trong việc tính toán thể tích cây, từ đó xác định trữ lượng của rừng. Phân bố đường kính cũng là cơ sở cho các biện pháp xử lý lâm sinh, đặc biệt là khai thác và điều chế. Đối với rừng tự nhiên lá rộng thường xanh, các nghiên cứu của nhiều tác giả đều cho thấy dạng phân bố nói chung là giảm dần và chia làm 3 kiểu: (i) Giảm đều; (ii) Đường cong giảm có một đỉnh lệch trái (ở cấp kính 12-16cm) và (iii) Đường cong giảm có hai đỉnh (ở d=16cm và d=80cm). Các dạng phân bố N/D đều có thể mô tả bằng toán. Các kết quả nghiên cứu của Lê Sáu (1996), Nguyễn Văn Đoan/Trần Văn Con (1998) ở Kon Hà Nừng; Lê Minh Trung (1991) ở Gia nghĩa; Đào Công Khanh ở Hương Sơn, Đỗ Đình Sâm và cộng sự (2006) đều cho thấy rừng tự nhiên ít bị tác động (trạng thái IV) đều có cấu trúc N/D ở dạng một đỉnh lệch trái và có thể mô phỏng được bằng hàm Weibull. Cấu trúc thẳng đứng (tầng thứ): Phân bố số cây theo chiều cao cũng được các nhà lâm học quan tâm để xác định tầng thứ của rừng. Sự phân bố theo không gian của tầng cây gỗ theo chiều thẳng đứng, phụ thuộc vào đặc tính sinh thái học, nhu cầu ánh sáng của các loài tham gia tổ thành. Cấu trúc tầng thứ của các hệ sinh thái rừng nhiệt đới thường nhiều tầng thứ hơn các hệ sinh thái rừng ôn đới. Phân bố mật độ theo đường kính: Biểu đồ và hàm toán học phân bố mật độ cây rừng theo chỉ tiêu đường kính.
  8. 5 Phân bố mật độ theo chiều cao: Tương tự như với đường kính chỉ khác là căn cứ theo chiều cao. 1.2. Khái quát về động thái tái sinh rừng Hệ sinh thái rừng với những đặc trưng riêng, luôn vận động và biến đổi không ngừng. Quá trình này được gọi chung là động thái rừng. Những nghiên cứu về động thái rừng được xoay quanh những vấn đề chính là: quá trình diễn thế rừng, quá trình sinh trưởng, phát triển rừng và tái sinh rừng. Muốn tìm hiểu về các quá trình của động thái tái sinh rừng ta cần hiểu rõ quan điểm và quy luật của các quá trình sau: (1) Tái sinh rừng: là việc xuất hiện một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng hoặc mất nhưng chưa lâu. Như vậy, tái sinh rừng (việc xuất hiện lớp cây con tái sinh) đánh dấu cho sự ra đời của một thế hệ rừng mới. Tái sinh tự nhiên là quá trình chủ yếu để phục hồi rừng qua các pha diễn thế. Có hai cách tái sinh tự nhiên: (i) Cách tái sinh liên tục dưới tán kín rậm của những loài chịu bóng thường thưa thớt và yếu ớt vì thiếu ánh sáng nên chỉ có một số ít cây thoát khỏi giai đoạn nguy hiểm, ức chế kéo dài để chờ cơ hội vươn lên tầng cao có đủ nhu cầu về sinh thái; (ii) Cách tái sinh theo vệt để hàn gắn những lỗ trống trong tán rừng do cây già đổ rụi hay gió bão làm đổ gãy. Trên lỗ trống, trước hết mọc lên các loài cây tiên phong ưa sáng, mọc nhanh. Dưới tán của các cây tiên phong, các loài cây định vị trong thành phần quần thụ cũ thường đòi hỏi che bóng trong 1-2 năm đầu sẽ mọc sau và dần dần vươn lên thay thế những loài tiên phong tạm thời có tuổi thọ ngắn. (2) Quá trình sinh trưởng và phát triển: là một trong những biểu hiện quan trọng của động thái rừng, kết quả của quá trình này quyết định tới sản lượng rừng, do vậy, nó có ảnh hưởng quyết định đến mục tiêu kinh doanh của ngành lâm nghiệp. Sinh trưởng được coi là sự tăng lên về kích thước và trọng lượng của cây (quá trình biến đổi về lượng).
  9. 6 Phát triển là tiến trình có tính quy luật của những biến đổi về chất lượng đã đạt đến điểm ngoặt để chuyển sang biến đổi về chất, nó thể hiện các giai đoạn phát triển của rừng (ví dụ: rừng non, chuyển sang rừng sào, rừng trung niên và cuối cùng là rừng thành thục). Xét về mặt thảm thực vật rừng (hay quần thụ cây gỗ) thì động thái là kết quả của các quá trình cụ thể sau: Tái sinh bổ sung (Recruitment): nẩy chồi, sản xuất hạt giống, phát tán hạt, nẩy mầm, hình thành cây mạ và phát triển cây con cho đến khi đạt kích thước bổ sung vào tầng cây cao (theo quan niệm điều tra). Sinh trưởng (Growth): sự tăng lên về dường kính và chiều cao của cây. Cạnh tranh không gian (Geometric competition): sự tương tác về không gian sinh trưởng giữa các cây cá thể liên quan đến cấu trúc hình học của cây, nhìn chung thì các cây có kích thước hình học lớn có lợi thế hơn trong cạnh tranh không gian (quá trình phân hoá cây theo kích thước). Cạnh tranh tài nguyên (Resource competition): các nhân tố lập địa có thể hạn chế sinh trưởng và phát triển của một số loài nhất định. Chết (Mortality): sự chết của các cây cá thể. Tóm lại: Cấu trúc và động thái rừng là khái niệm rất rộng và bao gồm nhiều quá trình rất phức tạp. Nghiên cứu cấu trúc, động thái tái sinh rừng là một công việc hết sức khó khăn và càng đặc biệt khó khăn hơn đối với rừng tự nhiên nhiệt đới bởi tính phức hợp của nó. Các công trình nghiên cứu về cấu trúc, động thái rừng tự nhiên nhiệt đới ở trên thế giới và ở Việt Nam đã dược công bố cho đến nay là rất lớn. Sau đây, chỉ cập nhật một số công trình nghiên cứu quan trọng nhất liên quan đến vấn đề nghiên cứu của đề tài. 1.3. Các nghiên cứu trên thế giới 1.3.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng trên thế giới Để góp phần xây dựng những nguyên lý, và đề cập đến nhiều biện pháp kỹ thuật về kinh doanh rừng mưa nhiệt đới đã có nhiều tác giả nước ngoài dày công nghiên cứu về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng, tiêu biểu như: Richard (1960) với
  10. 7 công trình Rừng mưa nhiệt đới; Catinot (1965) với công trình Lâm sinh học nhiệt đới; Baur (1970) với tác phẩm Cơ sở sinh thái của kinh doanh rừng mưa, Lampard (1989) với công trình Lâm sinh học nhiệt đới..., Baur G.N (1964) và Odum E.P (1971) đã tập trung nghiên cứu các vấn đề sinh thái nói chung và cơ sở sinh thái cho kinh doanh rừng mưa nói riêng. Qua đó làm sáng tỏ khái niệm về hệ sinh thái rừng, đây là cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan điểm sinh thái học. Catinot (1965) [25], Plaudy J [30] đã biểu diễn cấu trúc hình thái rừng bằng các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả phân loại về dạng sống, tầng phiến,... của quần xã thực vật rừng. Odum E.P (1971) [29] đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái của Tansley A.P, năm 1935. Các công trình nghiên cứu này đã chỉ ra rằng rừng nhiệt đới rất đa dạng phong phú về thành phần loài, trong rừng thường phân hoá thành một số tầng nhất định. Đồng thời các tác giả đã nghiên cứu, thảo luận và đề xuất nhiều vấn đề lý luận, kỹ thuật và cả kinh tế xã hội có vai trò quan trọng trong kinh doanh hệ sinh thái rừng tự nhiên. Richards P.W (1952) [31] đã phân biệt tổ thành thực vật của rừng mưa thành hai loại rừng mưa hỗn hợp có tổ thành loài cây phức tạp và rừng mưa đơn ưu có tổ thành loài cây đơn giản, trong những lập địa đặc biệt, rừng mưa đơn ưu chỉ bao gồm một vài loài cây. Cũng theo tác giả này, rừng mưa thường có nhiều tầng (thường có 3 tầng, trừ tầng cây bụi và tầng cây thân cỏ). Trong rừng mưa nhiệt đới, ngoài cây gỗ lớn, cây bụi và các loài thân cỏ còn có nhiều loài cây leo đủ hình dáng và kích thước, cùng nhiều thực vật phụ sinh trên thân hoặc cành cây hình thành nên nhóm thực vật ngoại tầng. Như vậy nghiên cứu về cấu trúc tầng thứ của các tác giả trên mới chỉ đưa ra nhận xét mang tính định tính, phân chia tầng thứ dựa vào cấp chiều cao mang tính cơ giới nên phần nào chưa phản ánh đúng tính phức tạp của cấu trúc rừng nhiệt đới.
  11. 8 Xuất phát từ những hạn chế đó, để có cái nhìn toàn diện hơn về cấu trúc rừng nhiệt đới các nghiên cứu cấu trúc rừng được chuyển dần từ mô tả định tính sang định lượng với sự hỗ trợ của thống kê toán học và tin học, trong đó việc mô hình hoá cấu trúc rừng, xác lập mối quan hệ giữa các nhân tố cấu trúc rừng đã được nhiều tác giả nghiên cứu có kết quả. Vấn đề về cấu trúc không gian và thời gian của rừng được các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều nhất. Tiêu biểu là các tác giả với các công trình nghiên cứu cùng vấn đề được giải quyết trong công trình như: Richards (1939) phân chia rừng ở Nigeria thành 5 – 6 tầng. B.Rollet (1971) đã biểu diễn các quan hệ chiều cao- đường kính ngang ngực, đường kính tán - đường kính ngang ngực bằng các hàm hồi quy; phân bố đường kính tán, đường kính thân cây dưới dạng các phân bố xác suất. Về phân bố số cây theo cỡ đường kính (N/D1,3): đã được nhiều nhà lâm học, điều tra rừng quan tâm. Meyer (1934) đã mô tả phân bố N/D1,3 bằng phương trình toán học có dạng đường cong giảm liên tục. Balley (1973) [24] sử dụng hàm Weibull, Schiffel biểu thị đường cong cộng dồn phần trăm số cây bằng đa thức bậc ba. Prodan. M và Patatscase (1964), Bill và Kem K.A (1964) đã tiếp cận phân bố này bằng phương trình logarit. Diatchenko, Z.N sử dụng phân bố Gamma biểu thị phân bố số cây theo đường kính lâm phần Thông ôn đới. Đặc biệt để tăng tính mềm dẻo, một số tác giả hay dùng các hàm khác, như Loetsch (1973) dùng hàm Beta để nắn các phân bố thực nghiệm, J.L.F Batista và H.T.Z Docouto (1992) trong khi nghiên cứu 19 ô tiêu chuẩn với 60 loài của rừng nhiệt đới ở Maranhoo - Brazin đã dùng hàm Weibull mô phỏng phân bố N/D. Nhiều tác giả khác dùng hàm Schumacher, hyperbol, hàm mũ, Poisson, Charlier,... để mô hình hoá cấu trúc rừng (theo TS. Trần Văn Con, 2001). Bên cạnh đó phải kể đến một vấn đề vô cùng quan trọng có liên quan đến nghiên cứu cấu trúc rừng đó là việc phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo hay ngoại mạo sinh thái. Tiêu biểu cho hệ thống phân loại rừng theo hướng này có Humbold (1809), Schimper (1903), Aubreville (1949), UNESCO (1973)... Trong nhiều hệ thống phân loại rừng theo xu hướng này khi nghiên cứu ngoại mạo của
  12. 9 quần xã thực vật đã không tách rời khỏi hoàn cảnh của nó và do vậy hình thành một hướng phân loại theo ngoại mạo sinh thái. Khác với xu hướng phân loại rừng theo cấu trúc và ngoại mạo chủ yếu mô tả rừng ở trạng thái tĩnh. Trên cơ sở nghiên cứu rừng ở trạng thái động Melekhov đã nhấn mạnh sự biến đổi của rừng theo thời gian, đặc biệt là sự biến đổi của tổ thành loài cây trong lâm phần qua các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát sinh và phát triển của rừng. Cùng với những nghiên cứu cơ bản để mở rộng và hoàn thiện các hiểu biết về hệ sinh thái rừng tự nhiên, các nỗ lực để bảo vệ tài nguyên rừng trên tầm vĩ mô trên thế giới đang được quan tâm ngày càng cao nhằm mục đích quản lý bảo vệ và sử dụng bền vững rừng nhiệt đới. Vì vậy, cần có các nghiên cứu bổ sung để quản lý rừng bền vững, góp phần vào nỗ lực chung đó. 1.3.2. Nghiên cứu về động thái tái sinh rừng trên thế giới 1.3.2.1. Các nghiên cứu về tái sinh Quá trình tái sinh của rừng tự nhiên là những vấn đề hết sức quan trọng trong nghiên cứu sinh thái rừng nhiệt đới. Tái sinh rừng là một quá trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái rừng, biểu hiện của nó là sự xuất hiện của một thế hệ cây con của những loài cây gỗ ở những nơi còn hoàn cảnh rừng: dưới tán rừng, chỗ trống trong rừng, đất rừng sau khai thác, đất rừng sau nương rẫy. Vai trò lịch sử của lớp cây con này là thay thế thế hệ cây già cỗi. Vì vậy tái sinh từng hiểu theo nghĩa hẹp là quá trình phục hồi thành phần cơ bản của rừng, chủ yếu là tầng cây gỗ. Các nhà nghiên cứu đều có chung một quan điểm: Hiệu quả tái sinh rừng được xác định bởi mật độ, tổ thành loài cây, cấu trúc tuổi, chất lượng cây con, đặc điểm phân bố và độ dài của thời kỳ tái sinh rừng. Sự tương đồng hay khác biệt giữa tổ thành lớp cây tái sinh và tầng cây gỗ lớn đã được nhiều nhà khoa học quan tâm (Mibbread, 1930; Richards, 1933; 1939; Aubresville, 1938; Beard, 1946; Lebrun và Gilbert, 1954; Jones, 1955 – 1956; Schultz, 1960; Baur, 1964; Rollet, 1969) [32]. Do tính chất phức tạp về tổ thành loài cây, trong đó chỉ có
  13. 10 một số loài cây có giá trị nên trong thực tiễn lâm sinh người ta chỉ tập trung khảo sát những loài cây có ý nghĩa nhất định. Về phương pháp điều tra tái sinh, nhiều tác giả đã sử dụng cách lấy ô mẫu hình vuông theo hệ thống do Lowdermilk (1972) đề nghị, với diện tích ô dạng bản thông thường từ 1 : 4m2. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác giả đề nghị sử dụng phương pháp điều tra dải hẹp với các ô đo đếm có diện tích biến động từ 10  100m2. Phổ biến nhất là bố trí theo hệ thống trong các diện tích nghiên cứu từ 0,25  1,0 ha (Povarnixbun, 1934; Yurkevich, 1938). Phương pháp này trong điều kiện tái sinh sẽ khó xác định được quy luật phân bố hình thái của lớp cây tái sinh trên mặt đất rừng. Để giảm sai số trong khi thống kê, Barnard (1950) [34] đã đề nghị phương pháp “Điều tra chẩn đoán”, theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của cây tái sinh ở các trạng thái rừng khác nhau. Phương pháp này được áp dụng nhiều hơn vì nó thích hợp cho từng đối tượng rừng cụ thể. Quá trình tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới vô cùng phức tạp và còn ít được nghiên cứu. Phần lớn tài liệu nghiên cứu về tái sinh tự nhiên của rừng mưa thường chỉ tập trung vào một số loài cây có giá trị kinh tế dưới điều kiện rừng đã ít nhiều bị biến đổi. Vansteenis (1956) [33] khi nghiên cứu về rừng mưa đã nhận xét, đặc điểm hỗn loài của rừng mưa nhiệt đới là nguyên nhân dẫn đến đặc điểm tái sinh phân tán liên tục. Ngược lại, tái sinh phân tán liên tục ở rừng mưa lại là tiền đề để tạo thành một rừng mưa hỗn loài khác tuổi. Tổ thành những loài cây tái sinh mọc ở lỗ trống là những loài cây ưa sáng mọc nhanh, đời sống ngắn, không có mặt trong tổ thành rừng, mà nguồn gốc có thể là do chim, những động vật từ xa mang tới … Tỷ lệ cây ưa sáng tỷ lệ thuận với kích thước lỗ trống, tức là kích thước lỗ trống càng lớn, thì tỷ lệ cây ưa sáng càng nhiều. Đây là loài cây tiên phong làm nhiệm vụ hàn gắn các lỗ trống ở trong rừng. Sau khi các loài cây ưa sáng tạo ra bóng, cây tái sinh của những loài cây chịu bóng có trong thành phần của rừng nguyên sinh xuất hiện, vươn lên thay thế các loài cây ưa sáng. Khi nghiên cứu rừng nhiệt đới ở Châu Á, tác giả cho thấy có hai đặc điểm tái sinh phổ biến, đó là tái sinh vệt và tái sinh phân tán liên tục.
  14. 11 Khi nghiên cứu ở rừng nhiệt đới Châu Phi A.Obrevin (1938) nhận thấy, cây con của những loài cây ưu thế trong rừng có thể cực hiếm hoặc vắng hẳn. Đây là hiện tượng không sinh con đẻ cái của cây mẹ trong rừng mưa. Mặt khác trong rừng mưa tổ thành rừng thường thay đổi theo không gian và thời gian, ngay cả trong cùng một địa điểm, cùng một thời gian nhất định, tổ hợp các cây sẽ được thay thế bằng tổ hợp loài cây khác hẳn. Nếu xét trên diện tích nhỏ, tổ hợp loài cây tái sinh không mang tính chất kế thừa. Nhưng nếu xét trên một phạm vi rộng, thì tổ hợp các loài cây sẽ thừa kế nhau theo phương thức tuần hoàn. Thành công của A. Obrevin đã khái quát được hiện tượng bức khảm tái sinh. Ông coi đó là “Hiện tượng thuần tuý ngẫu nhiên”. Nhưng phần lý giải các hiện tượng đó còn bị hạn chế chưa đưa ra được những đề xuất cụ thể. Vì vậy, lý luận của ông còn ít sức thuyết phục, chưa giúp ích cho thực tiễn sản xuất để điều khiển tái sinh rừng theo những mục tiêu kinh doanh đã đề ra. Tuy nhiên, những kết quả quan sát của Davit và P.W Risa (1933), Bơt (1946), Sun (1960), Role (1969) ở rừng nhiệt đới Nam Mỹ lại khác hẳn với nhận định của A.Obrevin. Đó là hiện tượng tái sinh tại chỗ và liên tục của các loài cây và tổ thành loài cây có khả năng giữ nguyên không đổi trong một thời gian dài. Bernard Rollet (1974) tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố tái sinh đã nhận xét. Trong các ÔTC có kích thước nhỏ (1 x 1m); (1 x 1,5m) cây tái sinh có dạng phân bố cụm, một ít có dạng phân bố Poisson. Ở Châu Phi, trên cơ sở các số liệu thu thập, Taylor (1954), và Bernad (1955) cho thấy số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới bị thiếu hụt, cần phải bổ sung thêm bằng trồng nhân tạo. Đặc điểm tái sinh rừng cũng được nhiều nhà khoa học quan tâm, đặc biệt là thế hệ cây tái sinh có tổ thành giống khác biệt với tổ thành tầng cây cao. (Mibbread – 1940; Richard – 1944, 1949, 1965; Baur – 1964; Rollet …) Các công trình nghiên cứu về phân bố tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới đáng chú ý là công trình nghiên cứu của Richards, P.W (1952), Bernard Rollet (1974), tổng kết các kết quả nghiên cứu về phân bố số cây tái sinh tự nhiên đã nhận xét: trong các ô có kích thước nhỏ (1 x 1m, 1 x 1.5m) cây tái sinh tự nhiên có dạng phân bố cụm, một số ít
  15. 12 có phân bố Poisson. Ở Châu Phi trên cơ sở các số liệu thu thập Tayloer (1954), Barnard (1955) xác định số lượng cây tái sinh trong rừng nhiệt đới thiếu hụt cần thiết phải bổ sung bằng trồng rừng nhân tạo. Các tác giả nghiên cứu về tái sinh tự nhiên rừng nhiệt đới Châu Á như Budowski (1956), Bava (1954), Atinot (1965) lại nhận định dưới tán rừng nhiệt đới nhìn chung có đủ số lượng cây tái sinh có giá trị kinh tế, do vậy các biện pháp lâm sinh đề ra cần thiết để bảo vệ và phát triển cây tái sinh có sẵn dưới tán rừng (dẫn theo Nguyễn Duy Chuyên, 1995) [2]. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố với các nội dung phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đến tái sinh rừng. Trong đó nhân tố được đề cập nhiều nhất là ánh sáng (thông qua độ tàn che của rừng), độ ẩm của đất, kết cấu quần thụ, cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sinh rừng. Trong rừng nhiệt đới, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến phát triển của cây con còn đối với sự nảy mầm và phát triển của cây mầm, ảnh hưởng này thường không rõ ràng (Baur G.N, 1962). Khi nghiên cứu tái sinh rừng tự nhiên, các tác giả nhận định: Thảm cỏ, cây bụi có ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây tái sinh. Ở những quần thụ kín tán, thảm cỏ và cây bụi kém phát triển nhưng cạnh tranh dinh dưỡng và ánh sáng của chúng chúng vẫn có ảnh hưởng đến cây tái sinh. Những lâm phần đã qua khai thác, thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh là nhân tố ảnh hưởng xấu đến tái sinh rừng. Ghent, A.W (1969) [26] nhận xét: thảm mục, chế độ nhiệt, tầng đất mặt quan hệ với tái sinh rừng cũng cần được làm rõ. Nhìn chung ở rừng nhiệt đới, tổ thành và mật độ cây tái sinh thường khá lớn. Nhưng số lượng loài cây có giá trị kinh tế thường không nhiều và được chú ý hơn, còn các loài cây có giá trị kinh tế thấp thường ít được nghiên cứu, đặc biệt là đối với tái sinh ở các trạng thái rừng phục hồi sau nương rẫy. H. Lamprecht (1989) [27] căn cứ vào nhu cầu ánh sáng của các loài cây trong suốt quá trình sống để phân chia cây rừng nhiệt đới thành nhóm cây ưa sáng, nhóm cây bạn chịu bóng và nhóm cây chịu bóng. Kết cấu của quần thụ lâm phần có ảnh hưởng đến tái sinh rừng. I.D.Yurkevich (1960) đã chứng minh độ tàn che tối ưu cho sự phát triển bình thường của đa số các loài cây gỗ là 0,6 - 0,7.
  16. 13 Độ khép tán của quần thụ ảnh hưởng trực tiếp đến mật độ và sức sống của cây con. Trong công trình nghiên cứu mối quan hệ qua lại giữa cây con và quần thụ, V.G.Karpov (1969) đã chỉ ra đặc điểm phức tạp trong quan hệ cạnh tranh về dinh dưỡng khoáng của đất, ánh sáng, độ ẩm và tính chất không thuần nhất của quan hệ qua lại giữa các thực vật tuỳ thuộc đặc tính sinh vật học, tuổi và điều kiện sinh thái của quần thể thực vật (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [17]. Trong nghiên cứu tái sinh rừng người ta nhận thấy rằng: tầng cỏ và cây bụi qua thu nhận ánh sáng, độ ẩm và các nguyên tố dinh dưỡng khoáng của tầng đất mặt đã ảnh hưởng xấu đến cây con tái sinh của các loài cây gỗ. Những quần thụ kín tán, đất khô và nghèo dinh dưỡng khoáng do đó thảm cỏ và cây bụi sinh trưởng kém nên ảnh hưởng của nó đến các cây gỗ tái sinh không đáng kể. Ngược lại, những lâm phần thưa, rừng đã qua khai thác thì thảm cỏ có điều kiện phát sinh mạnh mẽ. Trong điều kiện này chúng là nhân tố gây trở ngại rất lớn cho tái sinh rừng (Xannikov, 1967; Vipper, 1973) (dẫn theo Nguyễn Văn Thêm, 1992) [17]. Như vậy, các công trình nghiên cứu được đề cập ở trên đã phần nào làm sáng tỏ các đặc điểm tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới. Đó là cơ sở để xây dựng các phương thức lâm sinh hợp lý. Kết quả nghiên cứu tái sinh tự nhiên của thảm thực vật rừng trên thế giới cho chúng ta những hiểu biết các phương pháp nghiên cứu, quy luật tái sinh tự nhiên ở một số nơi. Đặc biệt, sự vận dụng các hiểu biết về quy luật tái sinh để xây dựng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh nhằm quản lý tài nguyên rừng bền vững. Tuy nhiên vì rừng mưa nhiệt đới luôn tồn tại những quy luật hết sức phức tạp, do vậy việc nghiên cứu về tái sinh rừng nhiệt đới nói chung vẫn chưa thật đầy đủ và hệ thống cho từng loại rừng cụ thể. 1.3.2.2. Các nghiên cứu về sinh trưởng rừng Có nhiều cách để mô tả sinh trưởng của cây rừng và sản lượng lâm phần. Cách truyền thống mà các nhà lâm học cổ điển thường dùng là bảng sản lượng. Từ những năm 1960, ngày càng xuất hiện nhiều công trình dùng mô hình toán để nghiên cứu quá trình sinh trưởng của cây rừng. Ngày nay, hàng loạt các hàm sinh
  17. 14 trưởng có thể diễn tả chính xác đường cong sinh trưởng của cây rừng phụ thuộc vào thời gian. Vấn đề là ở chỗ bằng cách nào hiểu sâu hơn cơ sở lý thuyết của quá trình sinh trưởng ? có nhiều cách để tìm hiểu chúng, ví dụ: - Mô tả quá trình sinh trưởng thông qua mô hình điều khiển. - Mô tả quá trình sinh trưởng như là sự kiện ngẫu nhiên (Wenk, 1978). Clutter (1963) đã dùng phương trình vi phân để dự báo năng suất của rừng thuần loài đều tuổi. Ek (1974) đã dùng hệ phương trình phi tuyến để nghiên cứu nhiều lâm phần rừng lá rộng khác tuổi. Còn Moser và Hau (1962) thì dùng phương pháp này để nghiên cứu rừng lá rộng khác tuổi. Các nghiên cứu về sau đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới. Moser (1972) đã định lượng ba thành phần chủ yếu của quá trình sinh trưởng: Tái sinh (ingrowth); chết (mortality); tăng trưởng cây sống (Survior growth), ông đã phát triển một mô hình gồm các hệ phương trình phi tuyến để dự báo sinh trưởng của rừng cho các cấp đất và cỡ đường kính khác nhau. Backman (1962) đã chỉ ra rằng: Suất tăng trưởng của một lâm phần là một hàm phụ thuộc vào tuổi, loài cây, lập địa và mật độ. Leary (1970) cũng tiến hành những nghiên cứu tương tự, ông đã thảo luận sâu hơn về các luận điểm lý thuyết của các mô hình mô phỏng sinh trưỏng và đưa ra những nguyên tắc, để ước lượng các tham số. Ngoài ra, có thể dùng các quá trình ngẫu nhiên để mô tả sinh trưởng của lâm phần. Các nhà nghiên cứu như: Burner và Moser (1973) đã dùng quá trình Markov để mô phỏng sự chuyển hoá cấp kính theo thời gian. Stephen và Waggoner (1970) cho rằng có thể dùng mô hình Markov để mô phỏng sự biến đổi thành phần loài của một lâm phần trong vòng 40 năm. Suzuki và Umemura (1974). Kouba, J. (1976) đã dùng chuỗi Markov để dự báo phân bố số cây theo cấp kính trong tương lai và quá trình thay đổi cấu trúc tuổi trong khi điều chế. Bên cạnh mô hình lâm phần, ngày nay việc xây dựng các mô hình trên cơ sở của từng cây cá thể đang được sử dụng phổ biến hơn cả do các ưu điểm mà phương pháp đem lại. Về phương pháp luận thì cách làm này dễ và chính xác hơn phương pháp mô tả chung cho lâm phần; tuy nhiên nó đòi hỏi một khối lượng thông tin và
  18. 15 tính toán lớn hơn rất nhiều. Ưu điểm nổi bật của mô hình từng cây riêng lẻ là có thể dễ dàng kết hợp với quá trình đào thải (tự nhiên, nhân tạo) hoặc sự tái sinh thêm; và cũng thích hợp hơn để mô tả rừng hỗn loài. Do đó xu hướng sử dụng mô hình từng cây riêng lẻ đang ngày càng phổ biến. Cho dù sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả thực nghiệm, phương pháp biểu đồ hay phương pháp mô hình hoá toán, thì điều quan trọng nhất vẫn phụ thuộc vào phương pháp thu thập số liệu. Phương pháp thu thập số liệu chính xác nhất là thiết lập một hệ thống ô tiêu chuẩn định vị để theo dõi lâu dài các nhân tố tạo thành cấu trúc của rừng. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu lâu dài và tốn nhiều công sức để theo dõi định kỳ. Trong nhiều trường hợp, người nghiên cứu cần phải rút ngắn thời gian nghiên cứu để đưa ra những cơ sở khoa học nhằm đề xuất hay quyết định các biện pháp phù hợp, đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất. Do yêu cầu thực tiễn đòi hỏi, các nhà nghiên cứu lâm học đã đưa ra giải pháp là sử dụng hệ thống các ô tiêu chuẩn tạm thời được thiết lập theo các cách rút mẫu khác nhau tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu. Các cách rút mẫu chủ yếu là: hệ thống, ngẫu nhiên, điển hình hoặc phối hợp giữa các phương pháp rút mẫu với nhau. Tuy việc mô hình hoá quá trình sinh trưởng của cây rừng được tiến hành bằng nhiều hướng khác nhau, nhưng tóm lại có hai xu hướng chính: (i) Tập trung mô tả sinh trưởng chung của lâm phần có chú ý đến các đặc trưng động thái như quá trình sinh trưởng, tái sinh và quá trình chết tự nhiên, hướng này về sau đã chi tiết đến các cấp kích thước và nhóm loài. (ii) Mô hình từng cây riêng lẻ, là những mô hình rất chi tiết với một khối lượng tính toán lớn, phức tạp, tuy nhiên nó đã trở thành đơn giản thông qua việc sử dụng các phần mềm chuyên dụng như Excel, SPSS,.... 1.4. Các nghiên cứu trong nước 1.4.1. Nghiên cứu về cấu trúc rừng ở trong nước Theo Phùng Ngọc Lan, (1986) [10] Cấu trúc rừng là một khái niệm dùng để chỉ quy luật sắp xếp tổ hợp của các thành phần cấu tạo nên quần xã thực vật rừng theo không gian và thời gian.
  19. 16 Cấu trúc rừng là một vấn đề có nội dung phong phú và đa dạng. Những đặc trưng này thường được mô tả theo đơn vị lâm phần của Đồng Sỹ Hiền (1974) [6]. Theo tác giả, đó là “Tổng thể những cây hình thành một khoảnh rừng thuần nhất nhiều hay ít. Vì thế trong thực tiễn, rừng tự nhiên nhiệt đới nước ta, chỉ cần có những cây, dù khác loài, khác tuổi, mọc thành rừng, nghĩa là cùng nhau sinh trưởng trên một diện tích nào đó với một mật độ nhất định, hình thành một đơn vị sinh vật học, một lâm phần có quy luật xác định”. Luận điểm này đã được các nhà nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên nước ta vận dụng trong các công trình khoa học của mình. Trên quan điểm hệ sinh thái, khi nghiên cứu cấu trúc rừng tự nhiên ở Việt nam, Thái Văn Trừng (1978) [20] đã dựa trên số lượng và sinh khối nhóm loài ưu thế trong rừng nhiệt đới ẩm Việt Nam để phân định các đơn vị phân loại sau: quần hợp, ưu hợp và phức hợp. Quần hợp: đó là một quần thể thực vật trong đó cá thể của 1-2 loài cây chiếm 90% tổng số cá thể trong lập quần. Ưu hợp: nhóm loài ưu thế trong các ưu hợp không quá 10 loài, tỉ lệ cá thể của mỗi loài ưu thế chiếm khoảng 4-5% và tổng số cá thể của 10 loài ưu thế đó phải chiếm 40-50% tổng số cá thể cây của các tầng lập quần trong quần thể trên đơn vị diện tích điều tra. Trường hợp độ ưu thế các loài cây không rõ ràng gọi là các phức hợp. Thái Văn Trừng (1963, 1970, 1978) đã mô tả cấu trúc tầng thứ gồm: Tầng vượt tán (A1), tầng ưu thế sinh thái (A2), tầng dưới tán (A3), tầng cây bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Trần Ngũ Phương (1970) [13] đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Nguyễn Văn Trương (1983) [18] khi nghiên cứu cấu trúc rừng hỗn loài đã xem xét sự phân tầng theo hướng định lượng, phân tầng theo cấp chiều cao một cách cơ giới. Đào Công Khanh (1996) [9] đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng lá rộng thường xanh ở Hương Sơn, Hà Tĩnh làm cơ sở đề xuất một số biện pháp lâm sinh phục vụ khai thác và nuôi dưỡng rừng. Nguyễn Anh Dũng (2000) [4]
  20. 17 đã tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc tầng cây gỗ cho hai trạng thái rừng là IIA và IIIA1 ở lâm trường Sông Đà, Hoà Bình. Vũ Đình Phương, Đào Công Khanh [12] thử nghiệm phương pháp nghiên cứu một số quy luật cấu trúc, sinh trưởng phục vụ điều chế rừng lá rộng, hỗn loại thường xanh ở Kon Hà Nừng - Gia Lai cho rằng đa số loài cây có cấu trúc đường kính và chiều cao giống với cấu trúc tương ứng của lâm phần, đồng thời cấu trúc của loài cũng có những biến động. Về nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng thì việc mô hình hoá cấu trúc đường kính D1.3 được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu và biểu diễn chúng theo các dạng hàm phân bố xác suất khác nhau, nổi bật là các công trình của các tác giả sau: Đồng Sĩ Hiền (1974) [6] dùng hàm Meyer và hệ đường cong Poisson để nắn phân bố thực nghiệm số cây theo cỡ đường kính cho rừng tự nhiên làm cơ sở cho việc lập biểu độ thon cây đứng ở Việt Nam. Nguyễn Văn Trương (1983) [18], đã thử nghiệm dùng các hàm mũ, logarit, phân bố Poisson và phân bố Pearson để biểu thị cấu trúc số cây - cấp đường kính của rừng tự nhiên hỗn loại. Trần Văn Con (1991) [3], dùng phân bố Weibull để mô phỏng cấu trúc đường kính cho rừng khộp ở Tây Nguyên. Lê Minh Trung (1991) [16] thử nghiệm mô phỏng phân bố N/ D rừng tự nhiên ở Gia Nghĩa - Đắc Nông bằng bốn dạng hàm: Poisson, Weibull, Hyperbol và Meyer. Bảo Huy (1993) [5] thử nghiệm mô phỏng phân bố thực nghiệm N/ D cho rừng ưu thế bằng lăng ở Đắc Lắc theo các dạng phân bố: Poisson, khoảng cách, hình học, Weibull và Meyer. Lê Sáu (1996) [14] đã sử dụng hàm Weibull để mô phỏng các quy luật phân bố đường kính, chiều cao tại khu vực Kon Hà Nừng, Tây Nguyên, Bùi Văn Chúc (1996) [1] đã nghiên cứu cấu trúc rừng phòng hộ đầu nguồn Lâm trường sông Đà ở các trạng thái rừng IIA, IIIA1 và rừng trồng, làm cơ sở cho việc lựa chọn loài cây,... Về phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N/H): Theo nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) [6], phân bố số cây theo chiều cao (N/H) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều đỉnh, phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn. Thái Văn Trừng (1978) [20] trong nghiên cứu của mình đã đưa ra các kết quả nghiên cứu cấu trúc của tầng cây gỗ rừng loại IV. Bảo Huy (1993) [5], Đào Công
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2