Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2011
lượt xem 5
download
Mục tiêu nghiên cứu của luân văn là đánh giá được kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm 3 đơn vị thực hiện tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2011. Phân tích được những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức và bài học kinh nghiệm trong việc triển khai xây dựng các mô hình khuyến lâm ở tỉnh Phú Thọ. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Đánh giá kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2011
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------- NGUYỄN ĐỨC HẢI ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ MÔ HÌNH KHUYẾN LÂM TẠI TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2006 - 2011 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI - 2012
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện tại ở nước ta có gần 100 triệu dân, trong đó 25 triệu dân và 6 triệu hộ gia đình sống tại vùng miền núi. Các xã nghèo miền núi có diện tích chiếm khoảng 50 % tổng diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó 66 % là rừng và đất rừng. Người dân và các cộng đồng ở miền núi chủ yếu sống phụ thuộc vào rừng. Họ chủ yếu là các dân tộc thiểu số và có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất trong cả nước. Hiện nay, đứng trước thách thức lớn về biến đổi khí hậu vai trò của ngành lâm nghiệp ở nước ta ngày càng được đề cao, không ngừng hướng đến sản xuất bền vững. Các chương trình phát triển nông thôn miền núi, phát triển ngành lâm nghiệp đã và đang được nhà nước đầu tư nhằm thu hút người dân và các tổ chức tham gia vào phát triển lâm nghiệp, do vậy việc đẩy mạnh hoạt động khuyến lâm ở Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng. Phát triển khuyến lâm là một trong những nhiệm vụ chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 5/2/2007 là: - Nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý, bảo vệ rừng cho 80% hộ nông dân; - Thu hút 50% thành phần kinh tế khu vực tư nhân và các tổ chức đoàn thể tham gia các hoạt động khuyến lâm; - Bố trí ít nhất một cán bộ khuyến lâm chuyên trách hoặc kiểm lâm cho mỗi xã nhiều rừng và tăng cường năng lực cho hệ thống khuyến lâm tự nguyện; - Cải tiến và cập nhật nội dung, phương pháp khuyến lâm để phù hợp với trình độ của nông dân, đặc biệt hộ nghèo và dân tộc ít người; - Xây dựng mối liên kết giữa hệ thống khuyến lâm và đào tạo với các chủ rừng và doanh nghiệp chế biến lâm sản. Từ những nhiệm vụ trong Chiến lược Phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2020, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phê duyệt Đề án phát triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến năm 2020 với mục tiêu trung hạn là: Phát triển nguồn nhân lực cho đội ngũ làm công tác khuyến lâm từ trung
- 2 ương đến thôn bản, ưu tiên cho khuyến lâm cơ sở; thúc đẩy quá trình chuyển giao các kết quả nghiên cứu cho nông dân; Tăng cường đào tạo, huấn luyện và nâng cao nhận thức cho các chủ rừng; Phát triển tổ chức và tăng cường xã hội hoá công tác khuyến lâm. Trong những năm qua Nhà nước có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội, có liên quan đến phát triển lâm nghiệp như các chương trình 327, 661, 135, 134, 30a,… với mục tiêu xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững cho miền núi, thông qua nhiều phương pháp tiếp cận chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật khác nhau, trong đó nhiều mô hình khuyến lâm đã được triển khai xây dựng ở các địa phương. Kinh phí cho hoạt động khuyến lâm ngày càng tăng, tính từ 2006 - 2011 đã có trên 98 tỷ đồng từ kinh phí khuyến lâm Trung ương được đầu tư triển khai cho các mô hình khuyến lâm tại địa phương, trong đó tỉnh Phú Thọ được đầu tư với kinh phí khoảng trên 6 tỷ đồng cho các mô hình khuyến lâm được xây dựng do các đơn vị như Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phú Thọ, Viện Khoa học Nông lâm nghiệp Miền núi phía Bắc, Trung tâm Đào tạo và Phát triển nông thôn Phù Ninh thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nghiên cứu đánh giá nào một cách có hệ thống và đầy đủ về các mô hình khuyến lâm đã được xây dựng cũng như những tác động của nó, những khó khăn, bất cập trong quá trình chuyển giao là gì? Qua đó, cung cấp cho các nhà quản lý những thông tin đầu đủ, khách quan để hoạch định những chính sách, kế hoạch khuyến lâm phù hợp cho giai đoạn 2012 - 2020. Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài “Đánh giá kết quả và tác động của một số mô hình khuyến lâm tại tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006 - 2011” được thực hiện là cần thiết và có ý nghĩa cả về khoa học và thực tiễn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của việc xây dựng các mô hình khuyến lâm tại tỉnh Phú Thọ.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới Trên thế giới khuyến nông ra đời từ rất sớm và ở hầu khắp các nước. Hoạt động khuyến nông gắn liền với sự phát triển của nông nghiệp, lâm nghiệp. Khởi đầu là giáo sư người Pháp Rabelais, từ năm 1530 ông đã cải tiến phương pháp giảng dạy, đưa quan điểm giáo dục nông nghiệp “Học đi đôi với hành” vào giảng dạy. Ngoài việc giảng dạy lý thuyết ở lớp ông đã cho học trò tiếp xúc với sản xuất và tự nhiên. Ông đã chỉ cho họ biết cách phân biệt giống cây và giống con (dẫn theo Nguyễn Văn Long, 2006 [7]). Đến năm 1777, giáo sư người Thụy Sĩ là Heirich Dastalozzi thấy rằng muốn mở mang nhanh nền nông lâm nghiệp giúp nông dân nghèo cải thiện được cuộc sống thì phải đào tạo chính con em họ có trình độ và nắm bắt được kỹ thuật tiến bộ, biết làm thành thạo mốt số công việc như quay sợi bông, dệt vải, cày bừa. Tuy nhiên, phải đến năm 1843 hoạt động khuyến nông lâm mới có tính phổ rộng và biểu hiện rõ rệt. Đó là hoạt động của Uỷ ban nông nghiệp của hội đồng thành phố NewYork (Mỹ). Uỷ ban này đã đề nghị các giáo sư giảng dạy ở các trường đại học nông nghiệp và các viện nghiên cứu thường xuyên xuống cơ sở để hướng dẫn giúp nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp (dẫn theo Nguyễn Văn Long, 2006 [7]). 1.1.1. Tại Mỹ Theo Alfred Charles True (1928) [17] viết trong cuốn Lịch sử khuyến nông nước Mỹ thì hoạt động khuyến nông, khuyến lâm nước Mỹ được hình thành từ năm 1843. Khởi đầu tại New York nhà nước cấp kinh phí cho Hội đồng bang thuê những nhà khoa học nông nghiệp có kỹ năng thực hành tốt làm giảng viên khuyến nông xuống các thôn xã đào tạo những kiến thức về khoa học và thực hành nông lâm nghiệp cho nông dân.
- 4 Năm 1907 ở Mỹ đã có 42 trường trên 39 bang đào tạo khuyến nông, khuyến lâm và có bộ môn, khoa khuyến nông - khuyến lâm (dẫn theo Nguyễn Văn Long, 2006 [7]). Năm 1845 tại Ohio, N.S. Townshned Chủ nhiệm khoa khuyến nông, khuyến lâm đề xuất việc tổ chức những câu lạc bộ nông dân tại các quận huyện. Những câu lạc bộ này sinh hoạt định kỳ hàng tháng, nghe giảng về những chủ đề khoa học kỹ thuật về nông lâm nghiệp, nghe báo cáo đi tham quan thực tế tại những trang trại. Đây là tiền thân của giáo dục sơ đẳng về khuyến nông, khuyến lâm tại Mỹ. Năm 1891 Bang New York dành 10.000 đôla cho khuyến nông, khuyến lâm đại học. Năm 1892 Trường Đại học Chicago, Trường Wicosin bắt đầu tổ chức chương trình khuyến nông, khuyến lâm học đại học. Năm 1907, 42 Trường đại học trong 39 bang đã thực hiện công tác khuyến nông, khuyến lâm. Năm 1910, 35 trường Đại học đã có Bộ môn khuyến nông, khuyến lâm. Năm 1914 Tổ chức khuyến nông, khuyến lâm được hình thành chính thức ở Mỹ, có 1861 hội nông dân với 3.050.150 hội viên. Thuật ngữ Extension Education đã được sử dụng để chứng tỏ rằng đối tượng giáo dục của trường đại học không nên chỉ hạn chế ở những sinh viên do nhà trường quản lý, mà nên mở rộng tới những người đang sống ở khắp nơi trên đất nước Mỹ. 1.1.2. Tại Pháp Thế kỷ XV-XVI đánh dấu một mốc đầu tiên trong lịch sử phát triển khoa học Pháp, vì một số công trình đã được bắt đầu ở thời kỳ này như tác phẩm Ngôi nhà nông thôn của Enstienne và Liebault nghiên cứu về kinh tế nông thôn và khoa học nông nghiệp. Tác phẩm Diễn trường nông nghiệp của Oliver de Serres đề cập đến nhiều vấn đề trong nông nghiệp như cải tiến giống cây trồng vật nuôi. Thế kỷ 18, cụm từ phổ cập nông nghiệp (Vulgazigation Argicole), hoặc chuyển giao kỹ thuật đến người nông dân (Transfert des Technologies Agricoles au Payan) được sử dụng phổ biến. Giai đoạn từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến nay (1914- 1918). Trung tâm CETA (Centre d’Etuder Techniques Agricoles) nghiên cứu kỹ thuật
- 5 nông nghiệp đầu tiên được tổ chức do sáng kiến của nông dân vùng Pari hoạt động với nguyên tắc: - Người nông dân có trách nhiệm và chủ động trong công việc . - Sáng kiến từ cơ sở. - Hoạt động nhóm rất quan trọng, Đây là một phương pháp hết sức độc đáo thời bấy giờ, người nông dân được quyền tham gia tích cực vào công việc của nông trại, họ chủ động tìm ra các giải pháp thích hợp với sự hỗ trợ của các kỹ sư nông nghiệp (dẫn theo Nguyễn Văn Long, 2006 [7]). 1.1.3. Tại Anh Năm 1661 GS. Hartlib (Anh) đã viết cuốn sách “ Tiểu luận về những tiến bộ học tập trong nông nghiệp ” đề cập rất sâu về học với hành trong nông nghiệp. Ngày 01/9/1919, Luật Lâm nghiệp đã có hiệu lực và Ủy ban Lâm nghiệp (Khuyến lâm) được thành lập, chịu trách nhiệm về rừng ở Anh, Scotland, Wales và Ireland. Toàn bộ tổ chức thành mười phòng với 29 nhân viên cấp trung ương và cấp huyện và 110 kiêm lâm viên. Sau 10 năm đã có 152 khu rừng được quản lý với diện tích khoảng 600.000 mẫu Anh và hơn 138,000 mẫu Anh đã được trồng. Năm 1939, Ủy ban Lâm nghiệp tách thành Cục Kiểm lâm, và Cục Khuyến lâm. Sau 90 năm hệ thống khuyến lâm được thành lập, hoạt động khuyến lâm đã góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng của toàn nước Anh lên 5%, hiện có khoảng 2.982.000 ha, chiếm 13% diện tích đất của nước Anh (dẫn theo Forestry Commission [18]). 1.1.4. Tại Ấn Độ Hội khuyến nông Ấn Độ được thành lập năm 1820 (William Carey khởi sướng) và đề xuất cải tiến ngành Nông nghiệp. Cục Lâm nghiệp Hoàng gia được thành lập ở Ấn Độ vào năm 1864. Lâm luật được thông qua năm 1865, lúc đó Luật này chỉ đơn giản là thiết lập ranh giới chủ rừng, đến 1878 nó được bổ sung và hoàn thiện. Hệ thống khuyến nông lâm Ấn Độ được thành lập tương đối sớm vào năm 1960. Trong những năm 1970, Ấn Độ tuyên bố chiến lược dài hạn cho phát triển
- 6 lâm nghiệp với mục tiêu: giảm xói mòn đất và lũ lụt, cung cấp cho nhu cầu ngày càng tăng của các sản phẩm ngành công nghiệp gỗ trong nước và cung cấp các nhu cầu chất đốt của dân cư nông thôn, gỗ nhỏ, rừng sản xuất. Ủy ban Quốc gia về Lâm nghiệp được thành lập năm 1976, các sở lâm nghiệp được tổ chức lại. Thành lập Ủy ban lâm nghiệp xã hội, với mục tiêu thúc đẩy các hoạt động lâm nghiệp truyền thống và phát triển rừng cộng đồng thông qua các hoạt động của cơ quan lâm nghiệp cộng đồng chịu trách nhiệm các trang trại lâm nghiệp, quản lý gỗ, khuyến lâm, trồng rừng. Trong những năm 1980, lâm nghiệp xã hội được khuyến khích bởi các cơ quan lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp quốc gia được phê duyệt năm 1988. một trong những chính sách đó là Chương trình quản lý rừng, trong đó gắn trách nhiệm cụ thể cho Bộ Lâm nghiệp, từ quản lý các lô rừng cụ thể. Đặc biệt, việc bảo vệ rừng là trách nhiệm của người dân. Đến năm 1992, mười bảy tiểu bang của Ấn Độ tham gia vào quản lý rừng. Năm 2006, Luật chủ rừng được ban hành (dẫn theo Wikipe [20]). 1.1.5. Tại Cămpuchia Công tác khuyến nông của Campuchia do Cục Khuyến nông (DAE) thuộc Tổng cục Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (MAFF) đảm nhiệm. DAE có chức năng quản lý nhà nước về khuyến nông, phát triển hệ thống khuyến nông từ Trung ương đến cấp huyện, phù hợp với nhu cầu của Campuchia. Một mục tiêu chiến lược trong phát triển khuyến nông là xây dựng một hệ thống khuyến nông tới các xã và thôn bản. DAE triển khai, thúc đẩy và điều phối các hoạt động khuyến nông thông qua các bộ phận kỹ thuật và các tổ chức, cơ quan nghiên cứu, cơ quan cấp tỉnh, phi chính phủ và khu vực tư nhân với mục tiêu là lợi ích tốt nhất của các nhà sản xuất, người nông dân. Hoạt động khuyến nông tại Campuchia sử dụng phương pháp tiếp cận phát triển hệ thống canh tác qui mô trang trại, đào tạo và khuyến nông có sự tham gia và cách tiếp cận mở rộng. Trong đó tập trung vào (i) Lập kế hoạch và đánh giá có sự tham gia, (ii) Phát triển công nghệ có sự tham gia; (iii) Đào tạo và mở rộng; (iv) Phát triển mở rộng và phổ biến tài liệu; (v) Phát triển
- 7 các tổ chức nông dân (dẫn theo Hà Thanh Tùng, 2011 [12]). 1.1.6. Tại Inđônêsia Hệ thống khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1955 gồm 4 cấp: cấp quốc gia có hội đồng khuyến nông quốc gia, cấp tỉnh có diễn đàn khuyến nông cấp 1, huyện có diễn đàn khuyến nông cấp 2, cấp xã và liên xã có cơ quan khuyến nông cơ sở. Tại đó có bộ phận dịch vụ khuyến nông và trung tâm thông tin phục vụ cho nhu cầu của nông dân. Ngày nay Inđonêxia thường xuyên được chọn là nơi tổ chức đào tạo CBKN cho các nước trong khu vực Là một nước có nền nông nghiệp tương đối phát triển trong khu vực. Trung tâm khuyến lâm (thuộc Bộ Lâm nghiệp) quản lý các vấn đề liên quan đến hoạt động khuyến lâm từ các dịch vụ đến phát triển lâm nghiệp bền vững. Theo tác giả Nur Hidayat (2009) [19] hiện nay Inđônêsia có trên 30.000 cán bộ khuyến nông, trong đó có trên 5.200 khuyến lâm viên (dẫn theo Hà Thanh Tùng, 2011 [12]. 1.1.7. Tại Myanmar Là đất nước nông nghiệp đóng góp 45,1% GDP, hoạt động khuyến nông lâm được xem là giải pháp hàng đầu để phát triển nông lâm nghiệp bền vững. Các hoạt động chủ yếu ở nước này là xây dựng mô hình trình diễn, tập huấn, và thông tin tuyên truyền. Tại Myanmar đặc biệt quan tâm hệ thống nhóm 10 hộ nông dân, trong đó có 1 nhóm trưởng thường xuyên liên hệ với cán bộ khuyến nông và chuyên gia. Hệ thống tổ chức khuyến nông lâm của Myanmar được tổ chức ở Trung ương và 5 trung tâm ở 5 vùng lãnh thổ, các cán bộ khuyến nông lâm chủ yếu trực thuộc 5 trung tâm vùng này. Các hoạt động xây dựng mô hình, tập huấn cũng được tổ chức tại các trung tâm vùng (dẫn theo Nguyễn Văn Long, 2006 [7]). Năm 2010, nông lâm nghiệp đóng góp 33,8% GDP, hoạt động khuyến nông được xem là giải pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp bền vững. Các hình thức hoạt động chủ yếu ở nước này là thành lập các trạm tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn quy mô lớn, trường học tại trang trại, chương trình năng suất cao đặc biệt, vùng sản xuất cây trồng tập trung, phát triển công nghệ với sự tham gia của nông dân và phương pháp chuyển giao công nghệ dựa trên nhu cầu của nông dân. Về nội
- 8 dung hoạt động khuyến nông của Miama đang tập trung chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông nghiệp theo tiêu chuẩn ASEAN GAP (dẫn theo Hà Thanh Tùng, 2011 [12]). 1.1.8. Tại Lào Lào có mô hình khuyến lâm tương tự như mô hình khuyến lâm của Việt Nam. Mọi hoạt động khuyến lâm của Lào được điều hành bởi bộ Lâm nghiệp Lào. Cán bộ khuyến lâm của Lào được đào tạo chủ yếu tại khoa Lâm nghiệp trường Đại học quốc gia Viêng Chăn (dẫn theo Bách khoa toàn thư Wikipe [14]), các cán bộ cấp cao đều được sự hỗ trợ đào tạo tại Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, Viện khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. 1.1.9. Tại Thái Lan Thái Lan là quốc gia nông nghiệp với trên 60% dân số sống bằng nghề nông nghiệp. Điều kiện đất đai, khí hậu nóng ẩm gần tương đồng Việt nam. Thái Lan là quốc gia hoạt động khuyến nông lâm khá tiêu biểu. Hệ thống khuyến nông nhà nước được thành lập năm 1967. Hiện Thái lan có 3 tổ chức chính hoạt động có liên quan đế khuyến lâm, đó là Cục lâm nghiệp Hoàng gia, Hội nông dân, Hội phát triển cộng đồng. Hoạt động khuyến lâm được thực hiện và chỉ đạo bởi các Phòng lâm nghiệp Quốc gia, bao gồm 21 cơ quan cấp vùng và 72 cơ quan cấp tỉnh (dẫn theo Đinh Đức Thuận, 2002 [8]). Cán bộ khuyến lâm của Thái lan chủ yếu được đào tạo từ Trường Đại học Kasetsart và Trung tâm Đào tạo Lâm nghiệp cộng đồng RECOFTC. Năm 2007, tổng số cán bộ khuyến nông hiện nay là 12.936 người. Khuyến nông có 2 vai trò chính là (i) giúp nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp nâng cao tiêu chuẩn cuộc sống và bảo đảm thu nhập của họ, (ii) giúp nông dân giải quyết vấn đề của họ. Từ năm 2009, hình thức triển khai các chương trình hoạt động khuyến nông của Thái Lan mang tính đặc thù riêng thông qua chương trình đăng ký và quản lý dữ liệu nông dân. Nông dân muôn tham gia các chương trình khuyến nông trước hết phải đăng ký dự liệu với cơ quan khuyến nông. Các thông tin về nông dân bao gồm: Số lượng và tên, số CMTND, Ngày sinh, giới tính và nghề nghiệp của từng thành viên trong hộ gia đình, thông tin về sản xuất nông nghiệp và
- 9 phi nông nghiệp, thành viên của tổ chức đặc biệt (nếu có). Các thông tin này sẽ được cơ quan khuyên nông tỉnh quản lý bằng máy tính và hàng năm sẽ được cập nhật thông tin, các thông tin về các hộ nông dân sẽ được kiểm chứng bằng cách chọn ngẫu nhiên 10% bao gồm các cán bộ của cơ quan khuyến nông tỉnh và các cơ quan liên quan khác bao gồm cả tổ chức chính quyền địa phương tiến hành cuộc điều tra công khai ở mỗi làng để rà soát tất cả các thông tin thu thập (dẫn theo Hà Thanh Tùng, 2011 [12]). 1.1.10. Tại Philippin Hoạt động khuyến nông của Philippin do Viện đào tạo nông nghiệp trực thuộc Cục Nông nghiệp đảm nhiệm và triển khai các hoạt động về khuyến nông. Tại các vùng có 17 trung tâm đào tạo, không tổ chức theo địa danh hành chính. Hoạt động khuyến nông của Philippin được gọi là “khuyến nông điện tử” với hình thức chuyển tải thông tin và chuyển giao công nghệ chủ yếu thông qua các phương tiện điện tử như Internet, đài, báo điện tử, truyền hình, băng video và cát-sét. Hầu hết các nội dung hoạt động khuyến nông đều tập trung vào sản xuất nông nghiệp hữu cơ, giảm thiểu biến đổi khí hậu và phát triển sinh kế bền vững. Về chính sách khuyến nông, Chính phủ chi phí xây dựng, vận hành hệ thống thông tin, băng đĩa hình, internet phục vụ khuyến nông. Trong xây dựng mô hình, Chính phủ chỉ hỗ trợ 50% chi phí con giống, (dẫn theo Hà Thanh Tùng, 2011 [12). 1.1.11. Tại Cộng hòa Brunei Darussalam Hệ thống tổ chức khuyến nông bao gồm ở Trung ương có 1 Phòng thuộc Vụ Nông nghiệp và thực phẩm (Bộ Công nghiệp và nguồn lợi) và 4 Trung tâm đào tạo tại hiện trường tại 4 vùng lãnh thổ. Về nội dung hoạt động khuyến nông, Brunei tập trung vào lĩnh vực IPM trên lúa và an toàn thực phẩm với sự trợ giúp của các chuyên gia đến từ các nước ASEAN. Hình thức hoạt động khuyến nông chủ yếu là đào tạo cán bộ khuyến nông và nông dân (dẫn theo Hà Thanh Tùng, 2011 [12]).
- 10 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1 Trước năm 1993 Cùng với sự phát triển khuyến nông trên thế giới, khuyến nông Việt Nam cũng được hình thành và phát triển trong những năm qua. Nguyễn Chí Hải khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ phong kiến cho biết với tư tưởng trọng nông là tư tưởng chủ đạo và chính sách khuyến nông của nhà nước phong kiến các triều đại phong kiến Việt Nam đã có nhiều biện pháp để khuyến khích nông nghiệp phát triển, từ việc khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích, thực hiện chính sách "Ngụ binh ư nông", miễn giảm thuế cho nông dân những năm mất mùa hay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh giữ nước để nuôi dưỡng sức dân, cho đến việc nhà vua cày ruộng "tịch điền", làm lễ trừ sâu, lễ tế côn trùng, xem gặt lúa,... Tất cả đều nói lên sự quan tâm thường trực của nhà nước phong kiến đối với việc phát triển nông nghiệp. Có thể nói, chính sách khuyến nông chính là một trong những chuẩn mực cơ bản để đánh giá năng lực và sự thịnh suy của các triều đại phong kiến Việt Nam (dẫn theo Nguyễn Chí Hải [16]).. Theo Cổng thông tin điển tử tỉnh Hà Nam (dẫn theo [15]) và Đào Xuân Ánh (2008) [1] khẳng định năm 987, Lê Hoàn là ông vua đầu tiên dưới chế độ phong kiến Việt Nam tiến hành lễ cày tịch điền, nhằm mục đích khuyến khích sản xuất nông nghiệp. Ruộng tịch điền thuộc quyền quản lý trực tiếp của triều đình, giống lúa cấy trên ruộng được chọn để cho loại gạo ngon dùng vào việc tế lễ, đặc biệt là tế thần nông và thần xã tắc. Cày tịch điền dưới thời phong kiến là một trong những biện pháp khuyến nông. Ở thời kỳ nhà Trần (năm 1226) lập ra các chức quan để trong coi việc phát triển nông nghiệp như: Hà đê sứ, đồn điền sứ, khuyến nông sứ,... Nhờ đó nông nghiệp Việt Nam lúc bấy giờ phát triển tương đối mạnh, có thể nói đây là thời kỳ hưng thịnh của nông nghiệp Việt Nam lúc đó (dẫn theo Vũ Thị Lan, 2007 [6]). Năm 1475, bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý các biện pháp phát triển kinh tế, sửa đổi chế độ thuế khóa, điền địa, khuyến khích
- 11 nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi, mở đồn điền, khai khẩn đất hoang. Những nỗ lực nhằm xây dựng phát triển đất nước của Lê Thánh Tông đã được phản ánh khá rõ qua các bài chiếu, chỉ dụ do ông ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu lập đồn điền, Chiếu định quan chế,... Cùng năm, ông đặt ra chức quan Hà đê để trông coi đê điều và chức quan Khuyến nông để đôn đốc nhân dân việc cày cấy. Năm 1789 vua Quang Trung ban bố "Chiếu khuyến nông" với những nội dung rất cụ thể như kêu gọi nhân dân tích cực sản xuất, không được bỏ ruộng hoang, người đi phiêu tán phải trở về quê cũ,… Điểm độc đáo trong chính sách kinh tế của Quang Trung là "trọng nông" nhưng không "ức thương". Sau 3 năm có "chiếu khuyến nông", ruộng bỏ hoang đã được phục hoá, mùa màng bội thu, nông nghiệp được phục hồi và nông dân an cư lạc nghiệp (dẫn theo Bách khoa toàn thư [14]). Vua Gia Long (1802 – 1820), sau khi thống nhất đất nước, đã sửa sang việc triều chính, định binh chế, quan chế, tài chính, đinh điền nông nghiệp, công vụ, pháp luật, học hành, ngoại giao,… Gia Long là một vị vua coi trọng khá toàn diện đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Ông đã khoan thư sức dân (giảm thuế); giữ gìn và mở rộng diện tích, cải tạo đất canh tác nông nghiệp (cấm bán công điền, công thổ; đào sông, thuỷ lợi, trị thuỷ, khai hoang phục hoá); có chiến lược an ninh lương thực (lập kho dự trữ để cấp phát cho dân khi mất mùa, đói kém),… Từ 1820 - 1840, triều đại của Minh Mạng, năm 1821 dựng lại Quốc Tử Giám, mở thi hội và thi đình. Thực thi các chính sách khuyến nông, tìm hiểu kỹ thuật đóng tàu của châu Âu. Lê Sỹ Trung (2010) [10] cho biết vào tháng 4 năm 1945, Hồ Chủ Tịch trong lễ bế giảng khóa chỉnh huấn cán bộ tại Việt Bắc, Người đã căn dặn: “Các chú ra về phải làm tốt công tác khuyến nông, ra sức phát triển nông nghiệp, chống giặc đói, diệt giặc dốt”. Năm 1955-1956 chúng ta thực hiện cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”. Đây là cuộc cách mạng lớn chưa từng có trong lịch sử nông nghiệp nước ta. Chúng ta đã tịch thu hơn 81 vạn ha ruộng đất của địa chủ…, 106.448 trâu bò cùng với 1.846.000 nông cụ chia cho 2.104.158 hộ nông dân và
- 12 nhân dân lao động (72,8% hộ nông thôn miền Bắc). Kết quả này đã tạo điều kiện và khích lệ nông dân ra sức tăng gia sản xuất. Năm 1960 ở miền Bắc thành lập các Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp (HTX) bậc thấp, năm 1968 HTX bậc cao, năm 1974 HTX toàn xã. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp vào giai đoạn này có một ý nghĩa lịch sử lớn lao. Tổ chức HTX sản xuất nông nghiệp nông dân “Cùng làm cùng hưởng” đã giúp cho Đảng và Nhà nước huy động được mức độ tối đa sức người, sức của phục vụ cho công cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Công tác khuyến nông giai đoạn này chủ yếu triển khai đến HTX. Phương pháp khuyến nông chủ yếu đưa TBKT vào sản xuất, xây dựng các mô hình HTX sản xuất tiến bộ như: HTX Tân Phong, HTX Vũ Thắng -Thái Bình. Dưới chế độ Sài Gòn cũ (1960) có Nha khuyến nông chuyên lo phát triển nông nghiệp, phát triển nông thôn. Từ năm 1964-1980 nhìn chung nông nghiệp trì trệ kém phát triển, đời sống nông dân gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân có nhiều nhưng chủ yếu do chiến tranh. Chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực cho công cuộc đấu tranh giải phóng miềm Nam, giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Mặt khác sau giải phóng miền Nam năm 1975 đến 1980 miền Bắc vẫn còn duy trì HTX sản xuất nông nghiệp là một thực tế bất cập mất cân đối giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản suất. Trước thực trạng sản xuất nông nghiệp trì trệ và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, tháng 1 năm 1981, Chỉ thị 100 của Ban CHTW Đảng: “Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động”, còn gọi là “Khoán 100” được ra đời. Sau 7 năm thực hiện “Khoán 100” Đảng ta xem xét rút kinh nghiệm: “Khoán 100” có nhiều ưu điểm thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: Nông dân chưa thực sự chủ động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Trên đồng ruộng, ao hồ, chuồng trại chăn nuôi người nông dân chưa có thể chủ động sản xuất kinh doanh vì những khâu then chốt như giống, phân bón nông dân vẫn phải phụ thuộc vào sự quản lý của HTX. Có nhiều hộ nông dân cuộc sống vẫn không khỏi đói nghèo do bởi nguồn lực sản xuất thiếu lao động, thiếu vốn; do gặp rủi ro trong cuộc sống; do
- 13 trình độ dân trí thấp sản xuất không có hiệu quả đã dẫn đến nợ sản nhiều vụ, nhiều năm,… Chính vì vậy ngày 5/4/1988, Bộ chính trị, Ban CHTW Đảng khóa V ra Nghị quyết 10: “Cải tiến quản lý kinh tế trong nông nghiệp”, còn gọi là “Khoán 10”. Nghị quyết 10 được thực hiện và hoàn thiện vài năm sau đó đã chuyển đổi hẳn cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp. Ruộng đất giao cho nông dân quản lý lâu dài 20 năm đối với đất nông nghiệp, 50 năm đối với đất lâm nghiệp. Chuyển đổi từ cơ chế sản xuất tập thể tự cung tự cấp, sản xuất theo kế hoạch hóa Nhà nước sang sản xuất kinh tế hộ gia đình và trang trại. Người nông dân chủ động sản xuất kinh doanh trên mảnh đất, ao hồ, chuồng trại của mình theo hướng nông nghiệp hàng hóa có sự điều tiết của Nhà nước. Nông nghiệp của đất nước có cơ hội ngày càng phát triển mạnh. Năm 1992, Để điều phối và lãnh đạo công tác khuyến nông trên toàn quốc, Bộ Nông nghiệp thành lập “Ban điều phối Khuyến nông”. Do nhu cầu bức xúc từ thực tế sản xuất, ngày 2/3/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/NĐ-CP về việc thành lập hệ thống Khuyến nông, Khuyến lâm, Khuyến ngư. 1.2.2. Sau năm 1993 Ngày 02 tháng 3 năm 1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13/NĐ-CP về công tác khuyến nông (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp). Hệ thống khuyến nông - khuyến ngư Việt Nam chính thức hình thành. Ở Bộ NN & PTNT, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước vừa làm nhiệm vụ khuyến nông về lĩnh vực trồng trọt và chăn nuôi. Việc một đơn vị đồng thời làm nhiệm vụ quản lý nhà nước và dịch vụ công tỏ ra nhiều bất cập. Chính vì vậy, ngày 18 tháng 7 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định 86/NĐ-CP, cho phép tách Cục Khuyến nông - Khuyến lâm thành hai đơn vị trực thuộc Bộ NN & PTNT là Cục Nông nghiệp và Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Đến năm 2007, trên cơ sở Chính phủ hợp nhất Bộ NN & PTNT với Bộ Thuỷ sản thành Bộ NN & PTNT và theo Nghị định số 01/2008/NĐ-CP, ngày 03/01/2008 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ NN & PTNT đã cho phép thành lập Trung tâm KNKNQG trên cơ sở hợp nhất giữa
- 14 Trung tâm KNQG và Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia theo Quyết định số 236/QĐ- BNN-TCCB ngày 28/01/2008 của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm KNKNQG thực hiện theo Quyết định số 43/2008/QĐ-BNN ngày 11/3/2008 của Bộ trưởng Bộ NN & PTNT. Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về Khuyến nông quy định tổ chức khuyến nông Trung ương đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ NN & PTNT với tên gọi là Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Ngày 28/6/2010, Bộ NN & PTNT đã có Quyết định số 1816/QĐ-BNN-TCCB quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Trung tâm KNQG. Trung tâm KNQG là đơn vị sự nghiệp, có các nhiệm vụ chủ yếu là tham gia đề xuất và ban hành các chính sách, cơ chế về khuyến nông, khuyến ngư; các định mức kinh tế - kỹ thuật; chỉ đạo, tổ chức và hướng dẫn thực hiện công tác chuyển giao tiến bộ kỹ thuật thông qua xây dựng mô hình trình diễn, thông tin tuyên truyền, huấn luyện đào tạo, công tác dịch vụ và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khuyến nông, khuyến ngư. Tính đến tháng 11/2010, hệ thống khuyến nông Việt Nam có 33.260 cán bộ khuyến nông, trong đó có 5.638 cán bộ có trình độ đại học, chiếm 16,7%. Hệ thống khuyến nông ở địa phương được tổ chức thành 4 cấp: Tỉnh - Huyện - Xã và Thôn bản: Ở cấp tỉnh, Sở NN & PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là cơ quan quản lý nhà nước về khuyến nông. Sau 15 năm hoạt động, 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đều đã thành lập Trung tâm Khuyến nông, Khuyến ngư tỉnh với tổng số 2.754 người. Ở cấp huyện: hầu hết các huyện trên cả nước có Trạm Khuyến nông huyện trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh hoặc UBND huyện với tổng số 4.600 người. Ở cấp xã: Đa số các xã nông nghiệp có cán bộ khuyến nông xã với tổng số 10.543 người. Ở cấp thôn, bản: Hiện cả nước có 15.749 khuyến nông viên thôn, bản. Một số tỉnh có lực lượng khuyến nông viên thôn, bản tương đối đầy đủ như Hà Giang, Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu.
- 15 1.2.3. Hệ thống khuyến nông Phú Thọ 1.2.3.1. Cấp tỉnh Trung tâm khuyến nông trực thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện tại có 31/33 cán bộ biên chế. Về trình độ : cán bộ có trình độ trên đại học 4 người, đại học 23 người, trung cấp 4 người, sơ cấp 1 người. Về chuyên môn: Trồng trọt 1 người, Chăn nuôi thú y: 6 nguời, Lâm nghiệp 3 người, Khuyến nông và PTNT 01 người, sư phạm kỹ thuật nông nghiệp 01 người, kinh tế 5 người, còn lại là khác. 1.2.3.2. Cấp huyện Phú Thọ có 11 trạm khuyến nông và 2 bộ phận khuyến nông nằm trong phòng kinh tế TP. Việt Trì và TX Phú Thọ. Tổng số 71 người, trong đó: Trong biên chế 64 người, hợp đồng 7 người. Về trình độ: Đại học 68 người (chiếm 95,8%), Trung cấp 3 người (chiếm 4,2%). Về chuyên môn: Trồng trọt 22 người (chiếm 31%), Chăn nuôi – Thú y 13 người (chiếm 18,3%), Lâm nghiệp 12 người (chiếm 16,9%), Thuỷ sản 3 người (chiếm 4,2%), Kinh tế 18 người (chiếm 25,4%), các ngành khác 3 người ( chiếm 4,2%). 1.2.3.3. Cấp xã Toàn tỉnh đã thành lập 277 tổ khuyến nông cơ sở và tuyển chọn được 680/695 nhân viên khuyến nông cơ sở, thiếu 15 người so với quy định. Về trình độ: Đại học 116 người (chiếm 17%), Trung cấp 550 người (chiếm 80,9%), Sơ cấp 14 người (2,1%). Về chuyên môn: Trồng trọt 207 người (chiếm 30,4%), Chăn nuôi - Thú y 317 người (chiếm 46,6%), Lâm nghiệp 23 người (chiếm 3,4%), Thuỷ sản 33 người (chiếm 4,9%), Kinh tế 81 người (chiếm 11,9%), các ngành khác 19 người (chiếm 2,8%). Đối với cộng tác viên khuyến nông ở khu dân cư: có 2.722 người/2.875 khu dân cư. Về trình độ: có 143 người có trình độ từ trung cấp trở lên (chiếm 5,2%), 168 người có trình độ sơ cấp (chiếm 6,2%), 2.410 người có trình độ tốt nghiệp trung học phổ thông (chiếm 88,6%) (dẫn theo trung tâm khuyến nông Phú Thọ [11]). 1.2.4. Hoạt động khuyến lâm Từ năm 1993 - 1995, ở Trung ương bộ phận khuyến lâm được thành lập
- 16 thuộc Vụ Lâm sinh thuộc Bộ Lâm nghiệp, từ năm 1996 đến năm 2000 thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Cục Khuyến nông Khuyến lâm. Từ năm 2001 đến năm 2004 thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Cục Phát triển lâm nghiệp (dẫn theo [3]), từ năm 2005 đến năm 2010 thành lập Phòng Khuyến lâm thuộc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Ở địa phương: trong 63 tỉnh thành, chỉ có một số tỉnh thành lập phòng Khuyến lâm trực thuộc Trung tâm Khuyến nông tỉnh. Mỗi Trung tâm chỉ có từ 1-2 cán bộ được đào tạo lâm nghiệp trong tổng số 20-25 cán bộ khuyến nông. Theo số liệu báo cáo (2011) ở trung ương chỉ có 4 người/73 người, cấp tỉnh có 96/1431 người, cấp huyện 295/2813 người, khuyến nông viên xã 1.942/15.362 người được đào tạo về lâm nghiệp. Xét về mặt số lượng cán bộ khuyến lâm chỉ chiếm khoảng 10% tổng số cán bộ khuyến nông chuyên trách. Do vậy hệ thống khuyến lâm vừa thiếu về số lượng và yếu về chất lượng do cán bộ khuyến lâm đa phần được đào tạo sâu về chuyên ngành, thiếu kiến thức liên ngành và các kiến thức khuyến lâm cơ bản. Kinh phí hoạt động cho hoạt động khuyến lâm nằm trong kinh phí cấp theo các chương trình khuyến nông được phê duyệt hằng năm. Giai đoạn 1993-2005: khi mới thành lập (1993) đã được Chính phủ đầu tư hỗ trợ 1,268 tỷ đồng, con số này tăng lên 97,8 tỷ (2005), bình quân năm sau tăng hơn năm trước 8,04 tỷ đồng tương đương trên 12%. Tính đến năm 2005, kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuến nông là 542,931 tỷ đồng trong đó kinh phí hỗ trợ cho hoạt động khuyến lâm là 66,6 tỉ đồng (chiếm khoảng 12,6%). Đã triển khai trên tổng diện tích xây dựng mô hình là 19.940 ha với 20.804 hộ tham gia. Nổi bật là một số chương trình như: Chương trình trồng tre lấy măng; Chương trình trồng cây nguyên liệu giấy; Chương trình trồng cây đặc sản và chương trình trồng cây gỗ lớn [2]. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn năm 2008 [5] đã xây dựng Đề án phát triển khuyến lâm giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến năm 2020. Với các mục tiêu sau:
- 17 a) Mục tiêu dài hạn. ( đến năm 2020) - Góp phần nâng cao trình độ chuyên môn về quản lý, xây dựng bảo vệ rừng cho 80% chủ rừng (tương đương khoảng 800.000 chủ rừng) - Tăng cường tổ chức khuyến lâm ở cấp tỉnh, huyện. Bố trí có ít nhất 1 cán bộ khuyến lâm chuyên trách cho mỗi xã có nhiều rừng và tăng cường năng lực cho hệ thống khuyến lâm tự nguyện (5.985 xã nhiều rừng có cán bộ khuyến lâm chuyên trách). - Xây dựng mạng lưới liên kết giữa hệ thống khuyến lâm, nghiên cứu và đào tạo với các chủ rừng và doanh nghiệp chế biến lâm sản, thu hút 50% số lượng doanh nghiệp lâm nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và các tổ chức đoàn thể tham gia các hoạt động khuyến lâm. b) Mục tiêu trung hạn. (2008-2010) - Phát triển nguồn nhân lực cho đội ngũ làm công tác khuyến lâm từ Trung ương đến thôn bản, ưu tiên cho khuyến lâm cơ sở. - Thúc đẩy quá trình chuyển giao các kết quả nghiên cứu cho nông dân. - Tăng cường đào tạo, huấn luyện và nâng cao nhận thức cho chủ rừng. - Phát triển tổ chức và tăng cường xã hội hoá công tác khuyến lâm. Chỉ tiêu phát triển: - 50% cán bộ kiểm lâm địa bàn xã và 50% cán bộ khuyến lâm cấp tỉnh và huyện được đào tạo (tương đương 2.321 cán bộ khuyến lâm được đào tạo). - 14 loại tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao cho nông dân, 21.250 ha mô hình rừng trình diễn về tiến bộ kỹ thuật được xây dựng, trong đó có 42.500 nông dân được huấn luyện, 14.166 nông dân được tham quan học tập các mô hình. - Tăng gấp 5 lần khối lượng thông tin, tuyên truyền so với thời điểm năm 2007. - Mạng lưới nghiên cứu - đào tạo - khuyến lâm với các doanh nghiệp được thiết lập và đi vào hoạt động. - Thực hiện hỗ trợ khuyến lâm cho 450.000 ha rừng sản xuất từ Dự án 661. - Xây dựng được 15.000 ha mô hình rừng thử nghiệm thuộc dự án 661.
- 18 - Chính sách khuyến khích phát triển tổ chức khuyến lâm tự nguyện được xây dựng. - 2 phương pháp và công cụ khuyến lâm có sự tham gia được thể chế hoá. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (2011) [9] đã xây dựng các Phương pháp khuyến nông để làm tại liệu tập huấn cho các khuyến nông viên. Theo Bộ NN & PTNT (2011)[4] cho biết trong 6 năm (2006-2011), chương trình khuyến lâm đã triển khai ở 55 tỉnh, với 52.575 hộ tham gia mô hình, tổng kinh phí: 96 tỷ đồng trên tổng số 843,880 tỷ đồng cấp cho toàn bộ hoạt động khuyến nông (chiếm 9%), với một số chương trình như: Trồng rừng thâm canh cây nguyên liệu; trồng rừng thâm canh cây gỗ lớn; trồng rừng thâm canh cây lâm sản ngoài gỗ; và chương trình tập huấn nghiệp cho cán bộ kiểm lâm làm công tác khuyến lâm. Từ nguồn ngân sách của địa phương, đã huy động được 4.365 hộ tham gia xây dựng mô hình, trồng được 4.488 ha rừng trình diễn, tập huấn 4.765 hộ nông dân. Công tác khuyến lâm được nhiều tổ chức quốc tế và phi chính phủ quan tâm trong các dự án phát triển lâm nghiệp. Nhiều cách tiếp cận và phương pháp khuyến lâm mới đã được áp dụng và bước đầu được thể chế hoá ở một số địa phương. 1.3. Nhận xét và đánh giá chung Điểm qua tình hình phát triển khuyến nông, khuyến lâm ở trên thế giới và ở Việt Nam có thể rút ra nhận xét như sau: Trên đây là hoạt động khuyến nông của một số quốc gia trên thế giới. Nó cho thấy khuyến nông đang được các nước ngày càng chú trọng, quan tâm hơn để phục vụ cho phát triển nông lâm nghiệp và nhằm mục đích nâng cao đời sống người nông dân. Bằng chứng là năm 1700 mới có 1 nước, năm 1800 có 8 nước, năm 1950 có 69 nước, năm 1992 có 199 nước có tổ chức khuyến nông. Đến năm 1993 Việt Nam cũng chính thức thành lập tổ chức khuyến nông. Ở Việt Nam, công tác khuyến nông, khuyến lâm đã có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng các mô hình trình diễn, hướng dẫn nông dân sản xuất và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, từng bước chuyển từ sản xuất tự túc, tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá đa dạng và có hiệu quả, hướng mạnh xuất khẩu,
- 19 phát triển ngành nghề nông thôn mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo và phát triển rừng bền vững. Trong các loại mô hình khuyến lâm được xây dựng thì có mô hình xây dựng bởi các đơn vị Trung ương như: Viện nghiên cứu, Trung tâm đào tạo... và đơn vị thuộc tỉnh như: Trung tâm khuyến nông tỉnh. Hàng năm chính phủ đã đầu tư nhiều tỷ đồng cho công tác khuyến lâm nói chung và xây dựng mô hình khuyến lâm nói riêng. Tuy vậy, liệu có phải tất cả các mô hình khuyến lâm được xây dựng bởi các tổ chức đều mang lại kết quả tốt? Những bất cập trong quá trình chuyển giao xây dựng những mô hình này là gì? Và tác động của những mô hình này ra sao?,… Việc trả lời những câu hỏi này có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng phát triển khuyến lâm trong giai đoạn tiếp theo. Xuất phát từ thực tiễn đó, đề tài được thực hiện là rất cần thiết.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 203 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn