Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu bảo tồn các loài cây thuộc ngành Thông (Pinophyta) tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai
lượt xem 4
download
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xây dựng được cơ sở dữ liệu về đặc điểm sinh học, sinh thái học, phân bố và hiện trạng bảo tồn của một số loài cây thuộc ngành Thông tại Vườn quốc gia Hoàng Liên. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu bảo tồn các loài cây thuộc ngành Thông (Pinophyta) tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------- HOÀNG XUÂN CHUNG NGHIÊN CỨU BẢO TỒN CÁC LOÀI CÂY THUỘC NGÀNH THÔNG (PINOPHYTA) TẠI VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN, LÀO CAI Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG VĂN SÂM Hà Nội, 2011
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học có ý nghĩa chiến lược trong thời đại hiện nay. Hội nghị thượng đỉnh Rio De Janeiro ngày 05 tháng 06 năm 1992 là tiếng chuông thức tỉnh toàn thế giới “Hãy cứu lấy trái đất” vì sự đa dạng sinh vật liên quan đến sự sống của trái đất (ghi theo Richard B. Primack, 1999). Việt Nam là một trong những trung tâm đa dạng sinh học của thế giới, trong những năm qua tài nguyên đa dạng sinh vật bị khai thác quá mức và tàn phá nặng nề, nên vấn đề bảo tồn đa dạng sinh vật là một yêu cầu cấp bách ở nước ta hiện nay. Vườn quốc gia (VQG) Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai nằm trong hệ thống các VQG của Việt Nam, được thành lập từ tháng 07 năm 2002 trên cơ sở chuyển Khu bảo tồn thiên nhiên (KBTTN) Hoàng Liên Sa Pa thành VQG Hoàng Liên. Đây là một trong những VQG có vị trí rất đặc biệt của Việt Nam, có dãy núi Hoàng Liên Sơn là phần kéo dài của núi Ailao Shan từ Trung Hoa, bắt nguồn từ dãy núi Himalaya. VQG Hoàng Liên nằm ở phía Đông của dãy núi Hoàng Liên, gồm hầu hết các đỉnh núi có độ cao trên 1.000m, trong đó có đỉnh Phan Si Păng cao tới 3.143m so với mặt nước biển, được ví như nóc nhà của Đông Dương nói chung và của Việt Nam nói riêng. Đồng thời dãy núi Hoàng Liên còn là nơi giao thoa của hai tiểu vùng khí hậu ôn đới núi cao và á nhiệt đới. Vì vậy, VQG Hoàng Liên được các nhà khoa học xác định là một trong những trung tâm đa dạng sinh vật vào bậc nhất của Việt Nam, là nơi còn sót lại nhiều loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam và Sách Đỏ thế giới. Dãy Hoàng Liên Sơn cũng là nơi phân bố chính của một số loài thực vật thuộc ngành Thông. Tại đây, các loài thuộc ngành Thông xuất hiện tương đối nhiều như Kim giao núi đá (Nageia fleuryi), Pơ mu (Fokienia hodginsii), Thiết sam (Tsuga dumosa), Thông tre (Podocarpus neriifolius), Thông tre lá ngắn (Podocarpus pilgeri), Sa mộc (Cunninghamia lanceolata)… Và đặc biệt có loài Vân sam Phansipăng là loài đặc hữu của đỉnh Phan Si Păng, Thiết sam
- 2 núi đất là loài của dãy núi Himalaya mọc thành quần thể nhỏ ở độ cao trên 2.400m và một quần thể duy nhất của loài Bách Đài Loan đã được tìm thấy tại đây. Như vậy, dãy Hoàng Liên Sơn khá đa dạng về các loài thực vật ngành Thông, là nơi còn sót lại một số loài đặc hữu quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam cũng như Sách Đỏ thế giới. Hầu như các loài cây thuộc ngành Thông ở đây đều bị đe dọa ở mức độ nhất định. Phần lớn các loài này cho gỗ quý rất thích hợp cho sử dụng làm đồ mỹ nghệ (Pơ mu, Thông tre) hay cho xây dựng (Vân sam phansipăng, Pơ mu), trong khi đó Pơ mu lại có giá trị làm hương liệu quý hoặc dùng làm thuốc trong cả y học truyền thống (Kim giao Nageia fleuryi) hay y học hiện đại (Thông đỏ Taxus). Đe dọa do khai thác trực tiếp còn kèm theo việc biến đổi những diện tích rừng lớn thành đất nông nghiệp, nương trồng Thảo quả. Trong thời gian gần đây mặc dù các cấp, các ngành chức năng, cũng như nhân dân các dân tộc địa phương trong vùng đã rất cố gắng trong việc bảo vệ rừng, bảo vệ tính đa dạng sinh học, song do nhiều nguyên nhân khác nhau và do chưa tìm được giải pháp hữu hiệu nhất nên nguồn tài nguyên thực vật rừng nói chung và thực vật ngành Thông nói riêng ở đây vẫn bị tàn phá nặng nề. Các loài có giá trị kinh tế cao hay có công dụng đặc biệt thường là những loài có nguy cơ lớn. Nhiều vụ đốt rừng làm nương rẫy thường xuyên xảy ra và đặc biệt là tệ nạn khai thác và buôn bán tài nguyên thiên nhiên trái phép với số lượng lớn vẫn diễn ra đã làm suy giảm nghiêm trọng số lượng cũng như nơi sống của các loài này. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu bảo tồn các loài thực vật thuộc ngành Thông ở đây là rất cần thiết, không những có ý nghĩa về mặt khoa học sâu sắc mà còn có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Xuất phát từ những thực tiễn trên, việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu bảo tồn các loài cây thuộc ngành Thông (Pinophyta) tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai” là cần thiết, phù hợp với tình hình, điều kiện thực tiễn ở địa phương, góp phần bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học của tỉnh Lào Cai nói riêng và trên toàn quốc gia, thế giới nói chung.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Nghiên cứu trên thế giới Thế giới thực vâ ̣t thâ ̣t phong phú và đa da ̣ng với khoảng 250.000 loài thực vâ ̣t bâ ̣c cao, trong đó thực vâ ̣t ngành Thông chỉ chiế m có trên 600 loài, mô ̣t con số đáng khiêm tố n [7], [13]. Cây thuộc ngành Thông là những loài cây có nguồn gốc cổ xưa nhất, khoảng trên 300 triệu năm. Các vùng rừng cây ngành Thông tự nhiên nổi tiếng thường được nhắc tới ở Châu Âu với các loài Vân sam (Picea), Thông (Pinus); Bắc Mỹ với các loài Thông (Pinus), Cù tùng (Sequoia, Sequoiadendron) và Thiết sam (Pseudotsuga); Đông Á như Trung Quốc và Nhật Bản với các loài Tùng bách (Cupressus, Juniperus) và Liễu sam (Cryptomeria). Các loài cây thuộc ngành Thông đã đóng góp một phần không nhỏ vào nền kinh tế của một số nước như Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan, New Zealand... Lịch sử lâu dài của Trung Quốc cũng đã ghi lại nguồn gốc các cây ngành Thông cổ thụ hiện còn tồn tại đến ngày nay mà có thể dựa vào nó để đoán tuổi của chúng. Chẳ ng hạn trên núi Thái Sơn (Sơn Đông) có cây Tùng ngũ đại phu do Tần Thủy Hoàng phong tặng tên; cây Bách Hán tướng quân ở thư viện Tùng Dương (Hà Nam), cây Bạch quả đời Hán trên núi Thanh Thành (Tứ Xuyên); cây Bách nước Liêu (còn gọi là Liêu bách) trong công viên Trung Sơn (Bắc Kinh)... Đồng thời, nhiều nơi khác trên thế giới cũng có một số cây cổ thụ nổi tiếng như cây Cù tùng (Sequoia) có tên “cụ già thế giới” ở California (Mỹ) đã trên 3.000 năm tuổi, cây Tuyết tùng (Cedrus deodata) trên đảo Ryukyu (Nhật Bản) qua máy đo đã 7.200 năm tuổi. Tại Li Băng hiện còn một đám rừng gồm 400 cây Bách Libăng (Cedrus) nổi tiếng từ thời tiền sử, trong đó có 13 cây cổ địa có hàng nghìn năm tuổi [17].
- 4 Cây trong ngành Thông là một trong những nhóm cây quan trọng nhất trên thế giới. Các khu rừng cây ngành Thông rộng lớn của Bắc bán cầu là nơi lọc khí cacbon, giúp làm điều hòa khí hậu thế giới. Rất nhiều dãy núi trên thế giới gồm rừng các loài cây ngành Thông chiếm ưu thế đóng một vai trò quyết định đối với việc điều hòa nước cho các hệ thống sông ngòi chính. Những trận lụt lội khủng khiếp gần đây ở các vùng thấp như ở các nước Trung Quốc và Ấn Độ có quan hệ trực tiếp tới việc khai thác quá mức rừng cây ngành Thông phòng hộ đầu nguồn. Rất nhiều loài thực vật, động vật và nấm phụ thuộc vào cây ngành Thông để tồn tại, do đó không có cây ngành Thông thì những loài này sẽ bị tuyệt chủng. Ngành Thông cung cấp một phần chính gỗ cho xây dựng, ván ép, bột và các sản phẩ m giấy của thế giới. Nhiều loài còn cho gỗ quí với những công dụng đặc biệt như dùng đóng tàu hay làm đồ mỹ nghệ. Phần lớn cây thuộc ngành Thông có gỗ dễ gia công, bền. Ở Chi Lê cây Fitzroya cupressoides là một loài cây ngành Thông rừng ôn đới có chiều cao đạt tới trên 50m và tuổi trên 3.600 năm. Thân cây này được tìm thấy từ các đầm lầy nơi chúng đã bị chôn vùi từ trên 5.000 năm trước nhưng gỗ vẫn có giá trị sử dụng tốt. Loài cây được dùng trồng rừng nhiều nhất trên thế giới là Thông Pinus radiata, là nguyên liệu cơ bản cho công nghiệp rừng của châu Úc, Nam Mỹ và Nam Phi, với tổng diện tích lớn hơn cả diện tích Việt Nam. Tại sinh cảnh nguyên sản của cây ở California loài chỉ có ở 5 đám nhỏ còn sót lại và đang bị đe do ̣a nghiêm trọng. Cây thuộc ngành Thông còn là nguồn cung cấp nhựa quan trọng trên toàn thế giới. Hạt của nhiều loài còn là nguồn thức ăn quan trọng cho dân địa phương ở các vùng xa như ở Chi Lê, Mexico, Úc và Trung Quốc. Phần lớn các cây thuộc ngành Thông có chứa các hoạt chất sinh hoá mà đang ngày càng được sử dụng làm thuốc chữa các căn bệnh thế kỷ như ung thư hay HIV. Cây thuộc ngành Thông còn có vai trò quan trọng trong các nền văn hoá
- 5 cả ở phương Đông và phương Tây. Các dân tộc Xen-tơ và Bắc Âu ở châu Âu thờ cây Thông đỏ Taxus baccata như một biểu tượng của cuộc sống vĩnh hằng. Người Anh Điêng ở Pehuenche, Chi Lê tin rằng các cây đực và cây cái loài Bách tán (Araucaria araucana) mang các linh hồn tạo nên thế giới của họ [7], [17]. Hiện tại có trên 200 loài cây thuộc ngành Thông được xếp là bị đe dọa tuyệt chủng ở mức toàn thế giới [17]. Rất nhiều loài khác bị đe dọa trong một phần phân bố tự nhiên của loài. Những đe do ̣a hay gặp nhất là việc khai thác quá mức lấy gỗ hay các sản phẩm khác, phá rừng làm bãi chăn thả gia súc, trồng trọt và làm nơi sinh sống cho con người cùng với sự gia tăng tần suất của các đám cháy rừng. Tầm quan trọng đối với thế giới của cây thuộc ngành Thông làm cho việc bảo tồn chúng trở nên có ý nghĩa đặc biệt. Sự phức tạp trong các yếu tố đe dọa gặp phải đòi hỏi cần có một loạt các chiến lược được thực hành để bảo tồn và sử dụng bền vững các loài cây này. Bảo tồn tại chỗ thông qua các cơ chế như hình thành các Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên là một giải pháp tốt, có hiệu quả đối với những khu vực lớn còn rừng nguyên sinh. Công tác bảo tồn đòi hỏi sự cộng tác của mọi người từ các ngành nghề và tổ chức khác nhau. Những người làm công tác này đều phụ thuộc vào việc định danh chính xác loài cây mục tiêu hay các sinh vật khác có liên quan và vào các thông tin cập nhật ở các mức độ địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế. 1.2. Nghiên cứu tại Việt Nam Hiện tại có khoảng 29 loài cây thuộc ngành Thông ở Việt Nam. Mặc dù chỉ dưới 5% số loài cây trong ngành Thông đã biết trên thế giới được tìm thấy ở Việt Nam nhưng ngành Thông Việt Nam lại chiếm đến 27% số các chi và 5 trong số 8 họ đã biết [17] (xem bảng 1.1).
- 6 Bảng 1.1. Cây thuộc ngành Thông ở Việt Nam trong so sánh với thế giới Số các chi / loài Số chi ở Số loài / loài đặc Họ trên thế giới Việt Nam hữu ở Việt Nam Bách tán (Araucariaceae) 3/ 41 0 0/0 Đỉnh tùng (Cephalotaxaceae) 1/5-11 1 1/0 Hoàng đàn (Cupressaceae) 30/135 7 7/2 Phyllocladaceaae 1/4 0 0/0 Thông (Pinaceae) 11/225 5 10/1-2* Kim giao (Podocarpaceae) 18/190 4 6/1-3** Sciadopityaceae 1/1 0 0/0 Thông đỏ (Taxaceae) 5/23 2 6/2 Tổng số 70/635 19 29-30/5 * một loài Thông mới vừa mới phát hiện ở Việt Nam và có thể là loài đặc hữu; ** số lượng các loài Thông tre ở miền Bắc Việt Nam chưa được xác định chắc chắn – có thể có 2-3 loài chưa được mô tả và những loài này có thể là loài đặc hữu. Tất cả các loài cây ngành Thông ở Việt Nam đều có ý nghĩa lớn. Hai chi đơn loài Bách vàng (Xanthocyparis) và Thuỷ tùng (Glyptostrobus) cũng là các chi đặc hữu của Việt Nam. Chi Bách vàng mới chỉ được phát hiện vào năm 1999 trong khi chi Thuỷ tùng chỉ còn 2 quần thể nhỏ với tổng số cây ít hơn 250 cây thuộc tỉnh Đắk Lắk. Loài này là đại diện cuối cùng cho một dòng giống các loài cây cổ. Hoá thạch của những cây này đã được tìm thấy ở những nơi cách rất xa như ở nước Anh. Năm 2001 một quần thể nhỏ gồm hơn 100 cây của chi đơn loài Bách tán Đài Loan (Taiwania cryptomerioides) được tìm thấy ở tỉnh Lào Cai. Trước đây chi này chỉ được biết có ở Đài Loan, Vân Nam và Đông Bắc Myanma. Những quần thể lớn loài Sa mộc dầu Cunninghamia konishii, một chi cổ khác chỉ gồm 2 loài, vừa được tìm thấy ở Nghệ An và các vùng phụ cận của Lào. Bốn trong số 6 loài Dẻ tùng (Amentotaxus) được biết (họ Thông đỏ - Taxaceae) đã thấy có ở Việt Nam. Hai loài trong số đó là cây đặc hữu (Dẻ tùng pô lan A. poilanei và Dẻ tùng
- 7 sọc nâu A. hatuyenensis) và những quần thể chính của hai loài khác cũng nằm ở Việt Nam (Dẻ tùng sọc trắng A. argotaenia và Dẻ tùng Vân Nam A. yunnanensis). Thậm chí những loài cây không phải là đặc hữu của Việt Nam nhưng vẫn có ý nghĩa lớn. Thông ba lá (Pinus kesiya) gặp từ Đông Bắc Ấn Độ qua Philippin nhưng các xuất xứ ở Việt Nam lại cho thấy có năng suất cao nhất trong các khảo nghiệm ở châu Phi và châu Úc. Những thực tế này thể hiện tầm quan trọng của các loài thuộc ngành Thông Việt Nam đối với thế giới [7], [17]. Tầm quan trọng của ngành Thông Việt Nam được xác định bởi tính ổn định tương đối về địa chất và khí hậu của Việt Nam trong vòng hàng triệu năm, kết hợp với địa mạo đa dạng hiện tại của đất nước và nhiều kiểu dạng sinh cảnh kèm theo. Nhìn chung, khí hậu trái đất đã trở nên khô và lạnh hơn, nhiều loài cây trong ngành Thông vốn thích nghi với điều kiện ấm và ẩm bị tuyệt chủng. Tuy vậy, một số loài đã di cư được đến các vùng thích hợp hơn như ở Tây Nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam. Sa mô ̣c (Cunninghamia), Bách tán Đài Loan (Taiwania) và Dẻ tùng (Amentotaxus) là những ví dụ của những chi trước đây có phân bố rất rộng trên thế giới. Phạm vi vĩ độ của Việt Nam (8o - 24o) gồm các nơi từ gần xích đạo cho đến vùng cận nhiệt đới cùng với phạm vi độ cao của các hệ núi chính có nghĩa là các sinh cảnh thích hợp vẫn còn tồn tại và các loài như vậy có khả năng sống sót. Các thay đổi khí hậu trên Bắc bán cầu có ảnh hưởng đến các nhóm cây ngành Thông rất khác nhau. Một số bị tuyệt chủng hay phải di cư tới các vùng mà còn có khí hậu thích hợp, trong khi đó một số loài khác tiến hoá và đã có thể sống được ở những sinh cảnh đã thay đổi trong điều kiện khí hậu mới. Các loài Thông ở Việt Nam là ví dụ cho cả hai hình thức này. Loài Thông lá dẹt (Pinus krempfii) được coi là một loài cây cổ tàn dư còn lại mà không có loài nào có quan hệ gần gũi còn sống sót, trong khi đó Thông ba lá (P. kesiya) là loài mới tiế n hóa gầ n đây. Sự gần gũi của Việt Nam về địa lý với vùng nhiệt đới còn có nghĩa là những loài phát tán hạt nhờ chim chóc của một số họ trong ngành Thông ở Nam bán cầu như
- 8 họ Kim giao (Podocarpaceae) đã có khả năng di cư lên phía Bắc. Hệ thực vật ngành Thông Việt Nam do đó chứa đựng một sự pha trộn kỳ lạ giữa các loài cây thuộc ngành Thông cả Bắc và Nam bán cầu. Ngành Thông Việt Nam gặp ở 4 vùng chính sau: Hình 1.1: Các vùng phân bố 2 1 chính của Thông ở Việt Nam 3 1: Đông Bắc 2: Hoàng Liên Sơn 3: Tây Bắc và Bắc Trung bộ 4: Tây Nguyên 4 (Nguồn: Cây lá kim Việt Nam) Hầu như tất cả các loài Thông tự nhiên của Việt Nam đều bị đe doạ ở những mức độ nhất định. Phần lớn các loài này cho gỗ quí rất thích hợp cho sử dụng làm đồ mỹ nghệ (Pơ mu Fokienia, Bách vàng Xanthocyparis) hay cho xây dựng (phần lớn các loài Thông Pinus, Du sam Keteleeria, Pơ mu Fokienia, Sa mộc dầu Cunninghamia), trong khi đó các loài khác lại có giá trị làm hương liệu quí (Hoàng đàn Cupressus, Pơ mu Fokienia, Bách xanh Calocedrus) hoặc được dùng làm thuốc cả trong y học truyền thống (Kim giao Nageia) hay y học hiện đại (Thông đỏ Taxus). Một số loài chỉ được sử dụng tại địa phương nhưng thường đây là những loài có phân bố hạn chế (ví
- 9 dụ như Bách vàng Xanthocyparis). Đe dọa do khai thác trực tiếp còn kèm theo việc biến đổi những diện tích rừng lớn thành đất nông nghiệp, đặc biệt ở các vùng núi có độ cao khoảng 800 đến 1.500m nơi mà các loài cây trong ngành Thông như Du sam (Keteleeria) và Bách xanh (Calocedrus) thường sinh sống. Việc chia cắt rời rạc các cánh rừng là một vấn đề có liên quan khác. Các đám rừng nhỏ còn sót lại dễ bị cháy hơn và dễ bị ảnh hưởng do tính di truyền suy giảm, các loài có các quần thể tự nhiên nhỏ đặc biệt rất nhạy cảm với những đe dọa này. Những loài có các quần thể phân bố rộng (ví dụ như phần lớn các loài thuộc họ Kim giao - Podocarpaceae), trong một số trường hợp còn phân bố cả ở nước khác (như Du sam Keteleeria), có thể tạo ra cảm tưởng rằng loài ít bị đe dọa hơn so với thực tế vì việc khai thác quá mức và nạn phá rừng là những vấn đề của tất cả các nước ở Đông Nam Á. Loài cây trong ngành Thông bị đe dọa nhất ở Việt Nam có lẽ là Hoàng đàn (Cupressus funebris) ở vùng Đông Bắc. Hiện tại trong vòng 5 năm qua mới chỉ tìm thấy được 1 cây còn lại trong tự nhiên. Các cây khác đều đã bị chặt lấy gỗ và bị đào rễ làm hương. Thuỷ tùng (Glyptostrobus pensilis) là loài chỉ được biết ở hai khu bảo tồn nhỏ của tỉnh Đắk Lắk. Phần lớn những cây còn lại (số này ít hơn 250 cây) đều đã bị ảnh hưởng của lửa rừng. Hầu như toàn bộ sinh cảnh của loài trên đầm lầy đã bị chuyển thành vườn cà phê và không thấy có cây tái sinh, hai loài này đang đứng trước sự tuyệt chủng. Tình trạng của một loạt các loài khác (Bách tán Đài Loan Taiwania cryptomerioides và Bách vàng Xanthocyparis vietnamensis) có thể sẽ trở nên ở mức tương tự nếu không có những hành động bảo tồn toàn diện được tiến hành. Trong vòng 15 năm qua có nhiều Vườn quốc gia và khu bảo tồn đã được thiết lập ở Việt Nam. Một số nơi này có các quần thể cây trong ngành Thông bị đe dọa. Bên ngoài các khu vực này các qui định pháp luật được ban hành nhằm ngăn chặn việc khai thác trái phép. Mặc dù vậy, việc khai thác tại
- 10 địa phương, cả hợp pháp và trái phép vẫn còn là vấn đề nan giải. Các loài có giá trị kinh tế cao hay có công dụng đặc biệt thường là những loài có nguy cơ lớn. Vì vậy, bảo tồn tại chỗ cần được bổ sung bởi bảo tồn chuyển vị và các chương trình lâm sinh chung. Những chương trình này cần gồm cả kế hoạch về giáo dục cũng như thu hái và bảo quản hạt giống, trồng phục hồi và làm giàu rừng trong và xung quanh các khu bảo tồn. Các loài cây dẫn nhập có thể có vai trò trong việc hỗ trợ cho bảo tồn tại chỗ. Như vậy đã có 2 loài cây trong ngành Thông đang trên bờ vực tuyệt chủng và việc ngăn chặn những loài cây khác tiếp tục nhập vào danh sách này là mối quan tâm của tất cả mọi người. Nhiều loài Thông có ý nghĩa kinh tế và khoa học đã được nghiên cứu phục vụ công tác bảo tồn và trồng rừng. Trong số 30 loài Thông được biết ở Việt Nam đã có hơn một nửa số loài được thử nghiệm nhân giống bằng giâm hom. Hai tác giả Nguyễn Hoàng Nghĩa, Trần Văn Tiến cho thấy tại Lâm Đồng đã tiến hành thử nghiệm nhân giống bằng hom cho các loài Bách xanh (Calocedrus macrolepis), Pơ mu (Fokienia hodginsii) và Thông đỏ (Taxus wallichiana) với vật liệu hom Bách xanh thu hái từ cây 2 tuổi và 7-8 tuổi, Pơ mu cây non 1 tuổi và Thông đỏ từ cây lớn tuổi trong rừng tự nhiên và các hom được xử lý với nhiều loại chất điều hòa sinh trưởng với các nồng độ khác nhau.[10] Huỳnh Văn Kéo, Lương Viết Hùng, Trương Văn Lung đã nghiên cứu giâm hom loài Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum) đã sử dụng IBA với các nồng độ khác nhau làm chất điều hòa sinh trưởng cho thấy với loài Hoàng đàn giả có khả năng nhân giống bằng hom và tỷ lệ ra rễ của hom thu hái từ cây trưởng thành thấp hơn cây non [11]. Đã có nhiều nghiên cứu về thực vật ngành Thông tại Việt Nam như: Bộ thực vật chí Đông Dương do H. Lecomte chủ biên (1907-1952) các tác giả người Pháp đã thu mẫu và định tên, lập khoá mô tả các loài thực vật có mạch trên toàn lãnh thổ Đông Dương trong đó các loài ngành Thông đã được giới thiệu và mô tả khá rõ tại đây.
- 11 Trên cơ sở bộ thực vật chí Đông Dương, gần đây bộ thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam do Aubréville khởi xướng và chủ biên (1960- 1997) cùng với nhiều tác giả khác đã công bố rất nhiều các loài cây có mạch. Trong đó các loài ngành Thông đã được giới thiệu. Trong thời gian gần đây, hệ thực vật Việt Nam đã được thống kê lại bởi các nhà thực vật Liên Xô và Việt Nam trong kỳ yếu cây có mạch của thực vật Việt Nam – Vassular Plants Synopiss of Vietnamese Flora tập 1-2 (1996) và tạp chí Sinh học số 4 chuyên đề (1994 và 1995). Đáng chú ý nhất là phải kể đến bộ Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Bộ (1991-1993) xuất bản tại Canada và được tái bản có bổ xung tại Việt Nam trong 2 năm (1999-2000). Đây là bộ sách khá đầy đủ và dễ sử dụng góp phần đáng kể cho khoa học thực vật ngành Thông Việt Nam. Gần đây nhất là cuốn sách: Cây lá kim Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn (2004), hay cuốn Thông Việt Nam nghiên cứu hiện trạng bảo tồn 2004 Nguyễn Tiến Hiệp cùng các cộng sự. Đây chính là các cuốn sách nghiên cứu, mô tả sâu sắc tỉ mỉ một số loài cây lá kim, cũng như đưa ra được hiện trạng và công tác bảo tồn một số loài cây thuộc ngành Thông tại Việt Nam. 1.3. Nghiên cứu tại Vườn quốc gia Hoàng Liên Giai đoạn trước khi miền Bắc giải phóng (1955), những nghiên cứu thực vật để xây dựng bộ Thực vật chí đại cương Đông Dương phải kể đến nhà thực vật người Pháp Pê-tê-lô (Petelot) đã có nhiều đóng góp trong việc thu thập và định tên hầu hết các loài đã thu được. Có thể nói đây là những sưu tập có giá trị và vẫn được bảo quản một cách nguyên vẹn tại Bảo tàng Pari (Pháp), Bảo tàng của Viện sinh học nhiệt đới ở thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng thực vật của Trường Đại học Tổng hợp trước đây nay là Trường Đại học KHTN – ĐHQGHN. Sau thời kì miền Bắc được giải phóng, vừa xây dựng lại đất nước vừa tập trung sức lực cho giải phóng miền Nam cho nên việc nghiên cứu chưa được
- 12 quan tâm nhiều và chỉ có một số nghiên cứu lẻ tẻ. Cuộc thám hiểm đầu tiên phải kể đến do Khoa Địa lý Trường ĐHSP Hà Nội tổ chức từ 12/1964 – 1966. Một số nhà thực vật học như Dương Hữu Thời, Thái Văn Trừng, Võ Văn Chi, Nguyễn Văn Diễn đã tham gia trong cả hai đợt 1964 – 1966. Trong thời gian đó cùng với các nhà thực vật Việt Nam, một số nhà thực vật nước ngoài như Ngô Chính Dật (Trung Quốc), Karen và Takhtajan (Nga), Kooc Nát (Ba Lan) cũng đã nghiên cứu ở núi Hoàng Liên. Năm 1968 một nhóm nghiên cứu của Khoa Sinh, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội bao gồm Võ Văn Chi, Trịnh Tam Kiệt, Nguyễn Nghĩa Thìn, Trần Ninh đã tiến hành nghiên cứu Nấm hương của Hoàng Liên. Đáng chú ý năm 1970, Võ Văn Chi đã tổng kết và xây dựng Tập danh lục các loài thực vật đầu tiên của núi Hoàng Liên. Năm 1992 cuộc khám phá đỉnh Phansipăng do GS. Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Văn Trừu Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Sa Pa dẫn đầu cùng nhóm chuyên gia người Anh, Úc, Nhật, Ailen do TS. Keith Rushforth đại diện đã mở đầu một giai đoạn mới. Nhóm nghiên cứu trên tiếp tục các cuộc khám phá của mình trên các hướng khác nhau đến năm 1995. Các kết quả nghiên cứu từ 1992 đến 1994 đã được Nguyễn Nghĩa Thìn cùng Nguyễn Thị Thời tổng kết và công bố vào năm 1998. Đây là tài liệu đầu tiên có tính hệ thống và được công bố chính thức. Tiếp theo một số tác giả như Trần Đình Lý, Đỗ Hữu Thư, Lê Đồng Tấn, Trịnh Minh Quang thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật đã nghiên cứu thảm thực vật núi cao Sa Pa (1992 – 1994), năm 1994, Kemp, Lê Mộng Chân, Đin Jơ thuộc tổ chức Frontier đã cùng tập thể tiến hành nghiên cứu và công bố kết quả thành phần thực vật và lớp phủ của nó. Năm 1999, Anđơru, Xtivan, Mak và Hana thuộc tổ chức Frontier công bố cuốn sách thứ hai về thảm thực vật Hoàng Liên. Nguyễn Quốc Trị (2007), Tính đa dạng thực vật và sự biến đổi của thực vật theo đai cao ở Vườn Quốc gia Hoàng Liên, tỉnh Lào Cai.
- 13 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu Các loài thuộc ngành Thông hiện có tại Vườn quốc gia Hoàng Liên, Lào Cai. 2.2. Mục tiêu nghiên cứu Xây dựng được cơ sở dữ liệu về đặc điểm sinh học, sinh thái học, phân bố và hiện trạng bảo tồn của một số loài cây thuộc ngành Thông tại Vườn quốc gia Hoàng Liên. Đề xuất được các giải pháp bảo tồn và phát triển các loài thuộc ngành Thông hiện có tại đây. 2.3. Nội dung nghiên cứu Nghiên cứu thành phần và xác định sự phân bố của các loài thuộc ngành Thông (Pinophyta) theo đai cao tại VQG Hoàng Liên. Nghiên cứu hiện trạng bảo tồn các loài cây thuộc ngành Thông ở khu vực nghiên cứu. Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái học một số loài thực vật thuộc ngành Thông ở khu vực nghiên cứu. Đề xuất các giải pháp bảo tồn các loài thuộc ngành Thông. 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Phương pháp lý thuyết Những thông tin, tư liệu về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội khu vực nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu, những văn bản có liên quan của các nhà khoa học đã nghiên cứu về các loài cây thuộc ngành Thông tại Vườn quốc gia Hoàng Liên và ở Việt Nam trong những năm trước đây.
- 14 2.4.2. Phương pháp thực nghiệm 2.4.2.1. Điều tra thu thập số liệu theo tuyến. Tuyến điều tra được thiết kế vạch sẵn trên bản đồ địa hình để kiểm tra các thông tin đã được thảo luận với các chuyên gia địa phương như tình trạng phân bố, bảo tồn. Các tuyến được bố trí điển hình trên các kiểu sinh cảnh được dự đoán có khả năng xuất hiện các loài có mặt trong khu vực.Tuyến điều tra có chiều dài không giống nhau được xác định đảm bảo đi qua tất cả các trạng thái rừng. Tuyến điều tra được đánh dấu trên bản đồ và đánh dấu trên thực địa bằng sơn, phấn hoặc dây có màu dễ nhận biết. Cùng với chuyên gia địa phương và cán bộ Kiểm Lâm của VQG Hoàng Liên tiến hành kiểm tra các thông tin về sự xuất hiện của các loài thuộc ngành Thông trên tuyến điều tra. Dùng máy định vị GPS để xác định phân bố của các loài trên các tuyến điều tra vào bản đồ thảm thực vật rừng của VQG Hoàng Liên. Các tuyến điều tra: - Tuyến số 1: Núi Xẻ - Phansipăng - Tuyến số 2: Bản Cát Cát – Phansipăng - Tuyến số 3: Bản Cát Cát – Xã San Sả Hồ - Tuyến số 4: Bản Sín Chải – Phansipăng - Tuyến số 5: Bản Tả Van Mông – Lao Chải - Tuyến số 6: Tả Van – Séo Mí Tỷ - Tuyến số 7: Tả Van – Bản Hồ - Tuyến số 8: Bãi rác Bản Khoang – Bản Can Hồ A - Tuyến số 9: Thác Bạc – Cầu Mười - Tuyến số 10: Sín Chải – Trạm Tôn - Tuyến số 11: Bản Hồ - Séo Trung Hồ
- 15 - Tuyến số 12: Séo Mí Tỷ - Suối Thâu Trên các tuyến, cứ 200m tiến hành khảo sát ra 4 bên, bán kính khảo sát khoảng 50m. + Khoanh vẽ diện tích của quần thể, xác định số lượng cá thể trong quần thể. Đặt OTC điển hình 2.500m2 trong vùng diện tích phân bố của quần thể (tỉ lệ rút mẫu > 2%). Trong ÔTC tiến hành xác định các cấu trúc của loài cây nghiên cứu, xác định các loài cây cùng tầng thứ với loài nghiên cứu để tính toán mối quan hệ giữa các loài này với loài nghiên cứu. + Trong mỗi ÔTC tiến hành đặt 5 ô dạng bản 4 m2 (2m x 2m) ở giữa và 4 góc để điều tra tái sinh. Chỉ đo đếm, đánh giá các cây tái sinh của các loài nghiên cứu có 0,5 m ≤ H ≤ 2m, đánh giá phẩm chất tốt, trung bình, xấu làm cơ sở xác định cây tái sinh triển vọng, thống kê theo ha. + Tiến hành điều tra phẫu diện đất trong các ÔTC bằng cách đào 01 phẫu diện điển hình trong ÔTC có cây tái sinh và cây trưởng thành của các loài nghiên cứu mọc tương đối tập trung và nhiều. Tiến hành mô tả các phẫu diện (loại đất, độ dày, tỉ lệ đá lẫn). Lấy mẫu đất 03 tầng: từ 0-30cm, 30-60cm và 60- 100cm cho phân tích tại phòng thí nghiệm. 2.4.2.2. Điều tra thu thập số liệu a. Điều tra cá thể tầng cây cao. Điều tra, thu thập tiêu bản, đo tính tất cả các cá thể loài Thông được tìm thấy có đường kính ngang ngực (D1.3) lớn hơn hoặc bằng 6cm Đo D1.3 bằng thước kẹp kính Đo chiều cao vút ngọn (Hvn) và chiều cao dưới cành (Hdc) bằng thước đo cao Blummleiss. Đo đường kính tán (Dt) bằng thước dây theo hai chiều Đông Tây - Nam Bắc. Đối với những cây khó tới gần (do địa hình hiểm trở) sử dụng phương pháp mục trắc theo kinh nghiệm từ những cây đã đo.
- 16 Mẫu biểu 01: Biểu điều tra các cây theo tuyến Tuyến số:…………………………………………………………………… Kiểu rừng chính:…………………………………………………………… Độ cao:……………….Độ dốc:……………….Hướng dốc:………….…… Ngày điều tra:………………..Người điều tra:……………..……………… D1.3 Hvn Ht TT Tên loài Độ cao Sinh trưởng Ghi chú (cm) (m) (m) b. Điều tra, đo đếm cây tái sinh Điều tra các loài Thông tái sinh tự nhiên theo tuyến. Quan sát tình trạng tái sinh trên tuyến điều tra. Bình quân quan sát kỹ lưỡng khoảng 1/3 chiều dài tuyến, đặc biệt chú ý xung quanh gốc cây mẹ. Mẫu biểu 02: Biểu điều tra cây tái sinh tự nhiên theo tuyến Tuyến số:…………………………………………………………………… Trạng thái rừng:……………………………………………………………. Người đo đếm:………………………….Ngày đo đếm:…………………… Nguồn gốc Cấp chiều cao (cm) Sinh trưởng TT Loài cây tái sinh 100 Hạt Chồi Tốt TB Xấu Điều tra các loài Thông tái sinh tự nhiên quanh gốc cây mẹ. Thiết lập các ô dạng bản kích thước 4m2 (2m x 2m) quanh gốc cây mẹ theo bốn hướng, 04 ô trong tán, 04 ô ngoài tán.
- 17 Xác định mật độ cây tái sinh: Mật độ cây (N) được tính theo công thức: N =(N/S)×10.000 (cây/ha) Trong đó: N: số cây đếm được trong diện tích S (cây) S: diện tích đo đếm (ha) c. Xác định sự phân bố theo đai cao Sử dụng định vị toàn cầu (GPS) để xác định độ cao phân bố của từng cá thể thuộc ngành Thông. Căn cứ vào kết quả điều tra sự phân bố của các loài và bản đồ địa hình đã được số hoá theo các độ cao khác nhau để phân chia theo các đai cao phù hợp và chính xác. d. Xác định loài cạnh tranh Sử dụng công thức của Hegyi (1974) áp dụng để tính chỉ số cạnh trạnh cho cây trung tâm: Trong đó: CI là chỉ số cạnh tranh của loài cây j đối với cây trung tâm, CI càng lớn cạnh tranh với cây trung tâm càng mạnh Dj là các đường kính ngang ngực của cây cạnh tranh j Di là đường kính ngang ngực của cây trung tâm Lij là khoảng cách từ cây trung tâm đến cây cạnh tranh j Bán kính của ô = đường kính tán lớn nhất có thể của cây trung tâm 2.4.3. Phương pháp phi thực nghiệm 2.4.3.1. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý trên phần mềm Excel. Tính trị số trung bình của các loài: D1.3(cm), Hvn (m), Hdc (m), Dt (m). Dùng phương pháp so sánh cặp đôi để đánh giá kết quả Sử dụng các cấp đánh giá của Sách đỏ Việt Nam, 2007 (Phần II-Thực vật), các tiêu chuẩn đánh giá của IUCN (2000), quy định của pháp luật Việt Nam tại Nghị định 32/2006/NĐ-CP ngày 30/3/2006 của Chính Phủ và Quyết
- 18 định 74/2008/QĐ-BNN ngày 20/6/2008 của Bộ NN & PTNT ban hành Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp; của Quốc tế tại Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES). 2.4.3.2. Phỏng vấn chuyên gia địa phương - Làm việc với các chuyên gia lâm nghiệp, bảo tồn thiên nhiên, tài nguyên và môi trường ở địa phương, đặc biệt là các cán bộ chuyên môn của VQG Hoàng Liên để thảo luận về: + Thành phần loài có mặt trong VQG Hoàng Liên từ đó sơ bộ xác định phân bố các loài trên bản đồ (bản đồ phân bố lý thuyết). + Phân bố của một số loài trong VQG Hoàng Liên và những điểm quan trọng khác. - Tiến hành phỏng vấn người dân để thu thập thông tin về phân bố quần thể của các loài cây cần nghiên cứu. 2.4.3.3. Nghiên cứu có sự tham gia của cộng đồng và đánh giá nhanh nông thôn thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp người dân địa phương. PRA (Đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân), sử dụng nhiều công cụ (cách) tiếp cận cho phép người dân cùng chia sẻ, nâng cao và phân tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện nông thôn để lập kế hoạch và hành động. Cần phải kết hợp cả phương pháp này để phát huy tối đa năng lực của cộng đồng thông qua sự tham gia tích cực của họ vào hoạt động điều tra trên thực địa, đồng thời phân tích những áp lực lên tài nguyên rừng và tìm các giải pháp bảo tồn và phát triển. RRA (Đánh giá nhanh nông thôn): là quá trình nghiên cứu được coi như là điểm bắt đầu cho sự hiểu biết tình hình địa phương. Sử dụng phương
- 19 pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) với công cụ chính là bảng câu hỏi phỏng vấn bán cấu trúc để phỏng vấn các đối tượng sau: nông dân, dân sống sát rừng; cán bộ quản lý, bảo vệ rừng; cán bộ, lãnh đạo chính quyền địa phương; cán bộ quản lý VQG Hoàng Liên; kiểm lâm; cán bộ khoa học kỹ thuật. - Kết quả điều tra phỏng vấn được xử lý theo phương pháp thống kê, tên các loài được hiệu đính theo các tài liệu: Danh mu ̣c các loài thực vâ ̣t Viêṭ Nam 2001, tâ ̣p I và Tên cây rừng Việt Nam 2000. 2.4.3.4. Tiến hành thống kê, phân tích đánh giá thực trạng tài nguyên thiên nhiên, kinh tế - xã hội vùng nghiên cứu 2.4.3.5. Phương pháp bản đồ, sơ đồ Sử dụng các phần mềm của GIS để xây dựng bản đồ phân bố các loài trong ngành Thông. Các số liệu đầu vào của phân bố các loài được phân tích về tọa độ, độ cao và địa danh.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 411 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 234 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn