Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn
lượt xem 1
download
Đề tài mong muốn đạt được các mục tiêu sau đây: Xác định được cơ sở về chính sách, cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ phát triển rừng xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn; đề xuất, kiến nghị liên quan đến công tác quy hoạch bảo vệ phát triển rừng tại địa phương.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------------------------------- NGUYỄN VIỆT HƯNG NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CHO QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG TẠI XÃ ĐÔN PHONG HUYỆN BẠCH THÔNG TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2008
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Quá trình suy thoái tài nguyên rừng kéo theo những hậu quả nghiêm trọng về môi trường sinh thái đã làm tăng sự quan tâm của các quốc gia và các tổ chức quốc tế lớn. Tại hội nghị thượng đỉnh ở Rio năm 1992, một chính sách toàn cầu về quản lý rừng bền vững (QLRBV) đã được đề xuất. Kể từ đó khái niệm QLRBV đã được thảo luận một cách rộng rãi. Đã có nhiều định nghĩa về QLRBV, nhưng chưa có một định nghĩa nào được tất cả mọi người đồng ý. Tuy nhiên, hầu hết đều thừa nhận QLRBV phải đạt được sự bền vững môi trường, kinh tế và xã hội. Quy hoạch Bảo vệ phát và triển rừng là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng thực chất là quá trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách hiệu quả. Công tác Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng luôn được chú trọng và coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng, đặc biệt là Quy hoạch Bảo vệ phát triển rừng cấp xã. Năm 2004 Luật Bảo vệ và phát triển rừng ra đời và Nghị định số 23/2006/NĐ-CP về thi hành Luật bảo vệ và phát triển rừng của Chính Phủ yêu cầu tỉnh, huyện, xã phải xây dựng quy hoạch và kế hoạch bảo vệ phát triển rừng. Trên cơ sở đó tiến hành sử dụng các biện pháp Quy hoạch Bảo vệ và phát triển rừng nhằm đưa ra phương pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội cho từng địa phương. Theo điều 15 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng nêu rõ nội dung quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng bao gồm: Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích tình hình về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quy hoạch sử dụng đất, hiện trạng tài nguyên rừng; Đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng kỳ trước, dự báo các nhu cầu về rừng và lâm sản; …
- 2 Xã là một đơn vị hành chính thấp nhất và cũng là một trong những cấp có tư cách pháp nhân trong hệ thống quy hoạch, quản lý kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung và kế hoạch phát triển nông lâm nghiệp nói riêng. Dưới góc độ quản lý Nhà nước, xã là cấp có chức năng hành pháp và quản lý Nhà nước về đất đai, sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, là cấp quản lý về kế hoạch sử dụng đất và sản xuất của xã. Do đó việc làm rõ chức năng, nhiệm vụ của xã đối với công tác quy hoạch sử dụng đất nói chung và quy hoạch bảo vệ phát triển rừng nói riêng là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, thực tế việc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của xã thường được xây dựng trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất của xã nói chung, công tác quy hoạch cấp xã vẫn còn nhiều hạn chế về mặt quan điểm, phương pháp tiến hành và các cơ sở lập kế hoạch sử dụng đất. Hệ thống chính sách phức tạp, không thống nhất và khó áp dụng vào điều kiện cụ thể của từng địa phương. Sự phân định ranh giới trên thực địa, tiêu chuẩn phân chia các loại đất, các loại rừng chưa cụ thể gây khó khăn cho công tác quy hoạch bảo vệ phát triển rừng cũng như phân bổ sử dụng đất rừng giữa các ngành sản xuất. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã nói chung và quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng nói riêng chưa có sự thống nhất về mặt quan điểm. Nhiều nơi còn tách biệt giữa công tác quy hoạch và quản lý thực hiện kế hoạch, phân biệt giữa những người quy hoạch và người sản xuất, không cho rằng người sản xuất phải là người tiến hành quy hoạch, vì vậy không phát huy được vai trò và khả năng tham gia của người dân và cộng đồng của họ trong quá trình Quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Những cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lập kế hoạch phát triển rừng chưa được phân tích đánh giá một cách đầy đủ. Việc lập kế hoạch, trình tự nội dung của quy hoạch bảo vệ phát triển rừng dựa trên tiêu chí kinh tế, ít
- 3 quan tâm đến vấn đề xã hội, môi trường, các biện pháp kỹ thuật và các quy định mang tính pháp lý. Chính vì đã không có sự thống nhất về mặt quan điểm nên quy hoạch chưa mang tính bền vững vì xem nhẹ mối quan hệ tổng hòa giữa các yếu tố. Qua quá trình phân tích trình tự và nội dung quy hoạch cho thấy việc lựa chọn phương pháp quy hoạch chỉ chủ yếu dựa vào hiện trạng sử dụng đất mà chưa quan tâm nhiều đến các phương pháp đánh giá tiềm năng đất đai, các cơ sở về chính sách. Từ đó thể hiện rõ việc quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã còn thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn. Hiện nay trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cần có những phương pháp biện pháp phù hợp hơn để xã có thể tự tiến hành quy hoạch. Những yêu cầu này đặt ra là hết sức cấp bách để sau năm 2010 tất cả các xã tiến hành xong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng và xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2010 - 2020. Xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn chưa tiến hành quy hoạch lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Trong khi địa phương vừa mới tiến hành rà soát 3 loại rừng (rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất). Việc quy hoạch lập kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của xã là căn cứ để tiến hành thực hiện các hoạt động bảo vệ phát triển rừng, tổ chức tiến hành kinh doanh sản xuất lâm nghiệp. Xuất phát từ lý do trên việc tiến hành nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn là rất cần thiết cho địa phương. Để góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng theo quan điểm bền vững, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất kinh doanh tại địa phương theo xu thế chung, tác giả thực hiện đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã Đôn Phong Huyện Bạch Thông Tỉnh Bắc Kạn“
- 4 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Thế giới Với những áp lực và hiện trạng sử dụng đất đai như hiện nay cho thấy nguồn tài nguyên đất đai ngày càng khan hiếm và có giới hạn, dân số thế giới gia tăng nhanh. Do đó, đòi hỏi phải có sự đối chiếu hợp lý giữa các kiểu sử dụng đất đai và loại đất đai để đạt được khả năng tối đa về sản xuất ổn định và an toàn lương thực, đồng thời cũng bảo vệ được hệ sinh thái cây trồng và môi trường đang sống. Qui hoạch sử dụng đất đai là nền tảng trong tiến trình này. Đây là một thành phần cơ sở có liên quan đến hệ sinh thái các vùng núi, sa mạc hoang vu, hay các vùng đồng bằng ven biển, đồng thời lại nằm trong mục tiêu phát triển và bảo vệ rừng, đất trồng và tài nguyên ven biển. QHSDĐĐ là yếu tố chính trong tất cả yêu cầu phát triển và bảo vệ các vùng đất đai nông nghiệp. Có những sự mâu thuẫn trong sử dụng đất đai ở hiện tại. Nhu cầu về đất nông nghiệp, đồng cỏ, bảo vệ thiên nhiên, rừng, du lịch và phát triển đô thị lớn hơn nhiều so với nguồn tài nguyên đất đai hiện có. Ở các quốc gia đang phát triển thì nhu cầu này ngày càng cấp bách hơn theo từng năm. Dân số thế giới lệ thuộc vào số lượng/diện tích đất cho ra lương thực, nguyên liệu và việc làm sẽ tăng lên gấp đôi trong vòng 25 đến 50 năm tới. Ngay cả ở một số vùng đất đai đầy đủ, người dân vẫn không đạt đến nhu cầu và lợi nhuận mong đợi trong việc sử dụng đất đai đó. Trong khi đó, sự suy thoái đất đai ở các nông trang, rừng hay nguồn tài nguyên nước ngày càng thấy rõ, nhưng trong từng cá thể của cộng đồng xã hội không thể có biện pháp riêng nào để hạn chế hoặc chấm dứt tình trạng suy thoái này. Sự phát sinh của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển nên khối
- 5 lượng gỗ yêu cầu ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch và lợi nhuận lâu dài. Trên cơ sở như vậy lý luận về quy hoạch lâm nghiệp, bảo vệ phát triển rừng dần hình thành. Quy hoạch lâm nông nghiệp được xác nhận như là một chuyên ngành bắt đầu bằng các quy hoạch vùng ngay từ thế kỷ 17. Theo Olschowy [80, tr.37-44] vào thời gian này quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như là một lĩnh vực phát triển ở mức cao trên cơ sở QHSD đất. Vào thế kỷ 18, theo Behrens [83,tr.80] thì “Lý thuyết về khu nông nghiệp” của Johan H. Thuenen đưa ra năm 1826 đã đánh dấu mốc lịch sử về lợi dụng canh tác nông nghiệp của các diện tích đất đai tại Đức. Lý thuyết này chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế xã hội cho quy hoạch sản xuất nông nghiệp. Ông cho rằng khoảng cách giữa khu sản xuất và nơi tiêu thụ sản phẩm là một tham số kinh tế, các khu sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi cần được quy hoạch xung quanh trung tâm tiêu thụ sản phẩm. Vì vậy, hình thành “Vành đai Thuenen” là cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp. Vào thế kỷ 19, có các giả thuyết về “Vùng đồng nhất”, từ đó hình thành lý thuyết về “Phép vi phân không gian địa lý” để tạo các nhân tố kinh tế trong quy hoạch. Vào đầu thế kỷ 20, lý thuyết về “Phép vi phân không gian địa lý ” được sử dụng để giao đất cho khu công nghiệp. Lần đầu tiên các nhân tố địa thế được Weber đề cập cho quy hoạch vào năm 1909 [89]. Thêm vào đó, Christaller năm 1933 [85] đã xây dựng khung khái niệm về “Các khu vực trung tâm” cho quy hoạch vùng. Có thể cho rằng những ý tưởng của Weber năm 1921 trong tác phẩm “Hình thành các Bang hợp lý” bằng lý thuyết tổ chức với các khái niệm “Lập địa hợp lý” và “Năng suất sử dụng” mở đầu thời
- 6 kỳ quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp [90,tr.185]. Theo lý thuyết trên thì việc phân chia đất đai theo địa lý với vùng sản xuất là nền tảng của quy hoạch vùng cho sản xuất lâm nông nghiệp. Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai vào năm 1929, tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscovin. Kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [79,tr.382]. Hạn chế của quy hoạch này là tạo việc khai thác rừng quảng canh, không kiểm soát lửa rừng và chống xói mòn. Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946 Jacks G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên “Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất” [77,tr.43-90]. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại Đức, tác giả Haber năm 1972 đã xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử dụng đất khác nhau”. Đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử dụng đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh [86, tr.294-298]. Từ năm 1967 Hội đồng nông nghiệp châu Âu đã phối hợp với tổ chức FAO tổ chức nhiều hội nghị về Phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất. Các hội nghị đều khẳng định rằng quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến loại nhỏ . . . phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai [74,tr.487]. Năm 1971 và 1975 các chuyên gia tư vấn họp tại Rome (Italia) và Geneve (Thụy Sỹ) để thảo luận về phương pháp luận quy hoạch nông thôn. Nội dung các cuộc thảo luận đã đề cập đến các phương pháp cùng tham gia trong quy hoạch cấp vĩ mô. Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng
- 7 đất. Theo Purnell năm 1988, mục tiêu của quy hoạch sử dụng đất đựợc các chuyên gia xác định là “Thiết lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng sản xuất quốc gia, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải trí”. Bốn câu hỏi nền tảng của quy hoạch đất đai là [81, tr.9-12]: Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch là gì? Có các phương án sử dụng đất nào? Phương án nào là tốt nhất? Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?. Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh luật pháp. Ông đề nghị “Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích: cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp, yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích xây dựng cơ chế giám sát và cưỡng chế” [82, tr. 160]. Năm 1988, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về quy trình quy hoạch. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng đồng (xã, thôn) [72, tr. 67-76]. Ông còn đề xuất quá trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10 bước. Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính [73, tr. 87]. Trong đó phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch. Năm 1980, Buchwald đề xuất quá trình quy hoạch 8 bước, trong đó những nghiên cứu đánh giá về sinh thái và kinh tế xã hội được đề cập tách biệt ở các bước khác nhau [84, tr. 756]. Điểm hạn chế này tạo nên sự thiếu tính liên ngành trong quy hoạch. Maydell năm 1984 cho rằng 4 điểm chính trong quá trình quy hoạch nông lâm nghiệp tại các nước nhiệt đới là [87, tr. 37]: phân tích xu
- 8 hướng nghĩa là phân tích hiện trạng và phát triển; xác định mục tiêu và nhiệm vụ; phân tích phương pháp và tiến hành đánh giá. Xem xét đến các khía cạnh riêng, có thể dẫn ra đây một số quy trình quy hoạch được nhiều chương trình, dự án áp dụng. Theo Zimmermann năm 1989 tổ chức GTZ của Đức đưa ra và thử nghiệm quy trình quy hoạch tại nhiều nước, trong đó có dự án Lâm nghiệp xã hội Sông Đà của Việt Nam. Quy trình này dựa trên quá trình phân tích tình hình, chuẩn đoán hiện trạng và phân tích mục tiêu. Các kỹ thuật của phương pháp phân tích tối ưu hoá mục tiêu (ZOPP) được sử dụng [91, tr.12-15]. Năm 1987, Spitzer đề xuất các bước quy hoạch sử dụng đất đa mục tiêu, trong đó nhấn mạnh xác định mục tiêu và chọn phương pháp lập kế hoạch như sau: Chuẩn đoán trong thu thập thông tin và dự đoán cơ hội, tư vấn trong đánh giá, lập kế hoạch và điều phối, thực hiện trong điều phối và giám sát[88, tr. 195]. Một vài kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới Tổng kết các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương trên thế giới tác giả có một số kết luận phục vụ cho nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã ở Việt Nam như sau: Mặc dù đã có những nghiên cứu đề xuất và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất nhưng chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cho cấp xã hoặc cấp hành chính thấp nhất tại các nước phát triển. Tuy vậy, những nghiên cứu và quy trình quy hoạch trên thế giới có thể được nghiên cứu và áp dụng trong điều kiện ở Việt Nam theo các hướng sau: - Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã phải lấy quy hoạch sử dụng đất làm nền tảng, kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của cấp trên với nhu cầu của cộng đồng thông qua sự tham gia trực tiếp của người dân.
- 9 - Phân tích được mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cấp quy hoạch lâm nông nghiệp, đặc biệt là cấp địa phương: xã, thôn bản và hộ gia đình để xác định rõ nội dung và phương pháp quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng có tính đặc thù riêng của mỗi cấp. - Các phương pháp đánh giá đất đai của FAO, quy trình lập kế hoạch sử dụng đất cần được áp dụng trong quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã, nhưng đòi hỏi phải điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh của cộng đồng nông thôn Việt Nam. - Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác được coi là công cụ quy hoạch cấp xã cần được vận dụng vào đặc điểm kinh tế văn hoá xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam. 1.2. Việt Nam Đảng và Nhà nước có quan điểm rõ ràng về quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp. Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”. Luật đất đai năm 2003 tại điều 13 quy định rõ có 3 loại đất chính, đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp, đất chưa sử dụng với 6 quyền sử dụng tuỳ theo từng loại đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử dụng. Luật đất đai nêu rõ trong mục 2 quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại điều 23 là lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất đai là một trong những nội dung quản lý Nhà nước đối với đất đai [18]. Luật Đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho quy hoạch nông lâm nghiệp. Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ sở cho quy hoạch lâm nghiệp [19]. Theo biên bản hội thảo quốc gia về “Quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp” năm 1997 nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu tính thống nhất giữa
- 10 2 luật: Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng trong quy hoạch và giao đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp, xác định rõ vai trò của địa phương, đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và giao đất giao rừng [2]. Trong Nghị định 64/CP, điều 15 có nêu một số quyền hạn của cấp xã trong sử dụng đất công ích [36], trong khi văn bản quan trọng nhất về giao đất lâm nghiệp là Nghị định 02/CP lại ít đề cập đến vai trò của cấp xã [37]. Nghị định của Chính phủ số 163/1999/NĐ-CP ra ngày 16 tháng 11 năm 1999 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp có một số điều nói tới nhiệm vụ và quyền hạn cấp xã trong quy hoạch và giao đất lâm nghiệp [40]. Nghị định 01/CP xác định vai trò cấp xã như là cơ quan Nhà nước chứng nhận các hộ nông dân để được nhận khoán đất (điều 3 mục 3) [38]. Như vậy, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa phương, coi quy hoạch sử dụng đất là cơ sở nền tảng cho các quy hoạch khác và là cơ sở cho giao đất, lập kế hoạch sử dụng đất, xây dựng các dự án phát triển. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có các quy định cụ thể về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, đặc biệt là cấp xã. Những điểm liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã chưa được thống nhất. Trên thực tế cấp xã mới có định hướng và mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp. Ngay cả khi xây dựng định hướng phát triển kinh tế - xã hội và sản xuất cũng gặp một số khó khăn khi vận dụng những chính sách có liên quan. Một số vấn đề liên quan đến Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng cần thống nhất, nhất là việc phân định các loại đất trong luật đất đai và phân loại rừng trong luật bảo vệ và phát triển rừng. Các văn bản dưới luật cần cụ thể hoá cho từng điều kiện địa phương đảm bảo tính đa mục đích sử dụng của đất đai, tạo điều kiện cho quy hoạch lâm nông nghiệp tránh chồng chéo và mâu thuẫn.
- 11 Từ xa xưa, rừng tự nhiên đã che phủ phần lớn diện tích mặt đất của trái đất, nhưng do những tác động của con người như khai thác lâm sản, khai phá lấy đất làm nông nghiệp, xây dựng, đô thị hoá.. nên diện tích rừng tự nhiên đã bị giảm đi đáng kể. Chỉ tính riêng giai đoạn 1990 - 1995 ở các nước đang phát triển đã có hơn 65 triệu ha rừng bị mất. Tính đến năm 1995 diện tích rừng toàn thế giới, kể cả rừng tự nhiên và rừng trồng chỉ còn 3.454 triệu ha, tỷ lệ che phủ chỉ khoảng 35%. Hiện nay mỗi tuần trên thế giới có khoảng 500.000 ha rừng tự nhiện bị biến mất hoặc bị thoái hoá. [64, tr. 103] Năm 1963 các vấn đề về quy hoạch sử dụng đất được khởi xướng ở Việt Nam. Trước đây việc quy hoạch sử dụng đất thường dựa vào các đơn vị hành chính (tỉnh, huyện, xã), quy hoạch theo ngành (Nông, lâm, thuỷ sản), hoặc là quy hoạch dựa theo điều kiện tự nhiên theo từng vùng, từng khu vực. Đầu thập kỷ 90, các vấn đề quy hoạch lâm nông nghiệp cấp vi mô được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Các nghiên cứu của Reichenberg (1992) [33] và các nhà nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch nông nghiệp và lâm nghiệp cấp vi mô được xây dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai, vì vậy việc tiến hành quy hoạch lâm nông nghiệp còn thiếu cơ sở thực hiện. Năm 1990 Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ [47]. Nhiều tỉnh đã triển khai thực hiện quy hoạch vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên, khi triển khai gặp những khó khăn về phương pháp chưa thống nhất, ví dụ ở Tuyên Quang không quá 10 xã trên 200 xã thực hiện. Dù sao quy hoạch vi mô cũng là tiền đề để thay đổi cách nhìn về quy hoạch cấp xã trong những năm tiếp theo. Khi khảo sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam Reichenberg năm 1992 cho rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam nên được nghiên cứu để phát triển khái niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh sau [33]:
- 12 - Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là quy hoạch lâm nông nghiệp dựa trên quy hoạch sử dụng đất trên toàn bộ diện tích hành chính trong xã. - Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan quản lý Nhà nước quản lý. - Quy hoạch sử dụng đất phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để sử dụng đất tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng. - Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định. Trong đầu những năm 90, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời năm 1991 được sửa đổi thay thế vào năm 2004, Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 và đặc biệt là các Nghị định 02 năm 1994, Nghị định 01 năm 1995, Nghị định 64 năm 1993 là cơ sở tiền đề cho quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Cùng lúc ra đời của Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, nhiều người cho rằng quy hoạch vĩ mô là quy hoạch phản ánh hiện trạng và phân chia 3 loại đất sử dụng và 3 loại rừng. Hai định nghĩa mới được xác nhận cho quy hoạch quốc gia và cấp tỉnh. Các nhà khoa học trong nước và nước ngoài đều cho rằng quan điểm quy hoạch nông lâm nghiệp cấp địa phương nên theo các hướng sau: Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp quy hoạch lâm nông nghiệp dựa vào chức năng sử dụng của đất với đánh giá tiềm năng của đất. Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của cộng đồng. Gắn 2 quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là 2 bộ phận có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp ở mỗi địa phương, mỗi cộng đồng.
- 13 Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể trong quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã. Sự tham gia của người dân trong quá trình quy hoạch là một khái niệm mới. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 cho rằng "Điểm quan trọng là thu hút người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu. Sự tham gia này tất nhiên sẽ khác nhau về phạm vi và mức độ tuỳ theo nội dung hoạt động và giai đoạn tiến hành" [22]. Ở Việt Nam, những hiểu biết về kinh nghiệm sử dụng đất đã bắt đầu được chú ý và tổng hợp thành tài liệu từ thế kỷ 15, Lê Quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ đậu để tăng năng suất lúa. Trong thời kỳ Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu đánh giá và quy hoạch sử dụng đất đã được các nhà khoa học pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Nguyễn Bá Ngãi, Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994;…). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng đất. Những thành tựu về nghiên cứu đất đai trong giai đoạn trên là cơ sở quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả nước. Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã được thực hiện tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu tỉnh Hoà Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát
- 14 triển lâm nghiệp từ năm 1993. Theo Nguyễn Văn Tuấn năm 1996, quy hoạch sử dụng đất được coi là một nội dung chính và được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản, chính quyền xã [50]. Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy cần phải có một kế hoạch sử dụng đất chi tiết hơn hiện nay thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Đề nghị ở đây là điều chỉnh và thời sự hoá kế hoạch là hết sức cần thiết. Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996 - 2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Toái và Nguyễn Văn Nam năm 1998, tỉnh Lào Cai đã xây dựng mô hình sử dụng PRA để tiến hành quy hoạch sử dụng đất, tỉnh Hà Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp: xã, thôn và hộ gia đình. Đến năm 1998 trên toàn vùng dự án có 78 thôn bản được quy hoạch sử dụng đất theo phương pháp cùng tham gia. Phương pháp quy hoạch sử dụng đất dựa trên PRA căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất, với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn [25]. Tuy nhiên, phương pháp trên cũng bộc lộ một số mâu thuẫn giữa nhu cầu của cộng đồng và định hướng của Nhà nước và các kế hoạch của tỉnh, huyện. Vấn đề này cũng xuất hiện và được phê phán trong trường hợp ở Yên Châu tỉnh Sơn La. Vấn đề nghiên cứu ở đây là có một phương pháp quy hoạch địa phương sao cho kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu của cộng đồng. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh và đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch cấp xã đóng góp vào phát
- 15 triển phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và các nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có của địa phương; Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo phát triển bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp và hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng [22, tr.76 - 86], [23]. Từ kết quả thử nghiệm ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sông Bé, Vũ Văn Mễ cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nguyện vọng của người dân, xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và sử dụng tài nguyên [22, tr.76 - 86], [23]. [50]. Cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy hoạch tổng hợp. Trong 2 năm 1996 và 1997, trong quá trình triển khai dự án Quản lý nguồn nước hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại Hoành Bồ - Quảng Ninh, Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự thử nghiệm phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân để quy hoạch lâm nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ. Phương pháp PRA được sử dụng để quy hoạch lâm nông nghiệp và xây dựng dự án cấp xã, thôn cho 5 lĩnh vực: Quy hoạch lâm nghiệp và cây ăn quả cho quản lý rừng phòng hộ, quy hoạch trồng trọt, quy hoạch chăn nuôi và đồng cỏ, quy hoạch phát triển thuỷ lợi và quy hoạch mạng lưới tín dụng thôn bản [24], [28]. Sau 3 năm thực hiện cho thấy bản quy hoạch phù hợp với tình hình hiện tại. Tuy nhiên, những hạn chế do thiếu nghiên cứu về đất, phân tích hệ thống canh tác dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa hợp lý.
- 16 Nguyễn Bá Ngãi đúc rút giai đoạn I của dự án tại Hoành Bồ - Quảng Ninh, những kết quả nghiên cứu tại 3 điểm nghiên cứu được trình bày trong đề tài nghiên cứu sinh, tác giả đã vận dụng quy hoạch phát triển lâm nông nghiệp cho 4 xã mở rộng của huyện Hoành Bồ bằng phương pháp kết hợp giữa PRA với các phương pháp đối thoại và phối hợp các đối tác, trong đó phương pháp phân tích hệ thống canh tác được sử dụng cho việc xác định cây trồng [31]. Trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi, năm 1996 Cục kiểm lâm cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã” [10, tr.58-79]. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung của tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai Châu) trên cơ sở hướng dẫn của Cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội đối với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt. Sự khác biệt với các chương trình khác là lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch phù hợp với đặc thù vùng cao. Lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch và lập kế hoạch là phù hợp với kết quả nghiên cứu xã hội và cộng đồng của Donovan năm 1997 [14] ở miền Bắc Việt Nam. Năm 1999 và 2000 Nguyễn Bá Ngãi cùng với nhóm tư vấn của Dự án khu vực lâm nghiệp Việt Nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy
- 17 hoạch nông lâm nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiểu dự án lâm nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá, Gia Lai, Phú Yên và Quảng Trị, [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30]. Kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng phương pháp này là: - Việc tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn lực một cách chi tiết và đầy đủ. - QHSD đất là cơ sở quan trọng cho quy hoạch lâm nông nghiệp. - Tiến hành phân tích hệ thống canh tác làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng và phương thức sử dụng đất. - Quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân như PRA. - Tổng hợp và cân đối kế hoạch cho phạm vi cấp xã trên cơ sở: định hướng phát triển chiến lược của huyện, tỉnh; khả năng hỗ trợ từ bên ngoài; đối thoại và thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau, giữa đại diện các cộng đồng với cán bộ tỉnh, huyện và dự án; có sự nhất trí chung của toàn xã thông qua các cuộc họp cộng đồng cấp thôn hoặc xóm. Một vài kết luận rút ra từ nghiên cứu và kinh nghiệm của Việt Nam Tổng kết các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến quy hoạch lâm nông nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương cho phép rút ra một số kết luận phục vụ cho nghiên cứu quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã ở Việt Nam như sau: Hiện tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu đầy đủ về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương, nhìn chung ở cấp xã đã có một vài nghiên cứu thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương được thực hiện ở miền Bắc Việt Nam nhưng chưa đầy đủ, chưa được tổng kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận.
- 18 Ở các chương trình, dự án khác nhau thì áp dụng một phương pháp quy hoạch khác nhau, thiếu sự thống nhất chung về mặt phương pháp một cách toàn diện. Do đặc thù về điều kiện khác nhau của từng vùng nên việc phân biệt giữa quy hoạch sử dụng đất và kế hoạch sử dụng đất cấp xã còn một số điểm chưa được phân biệt rõ. Phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất đai mà ít xem đến tiềm năng của đất đai, nhu cầu, khả năng thích ứng của cây trồng và thị trường. Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân đang được chú ý và thí điểm ở một số nơi. Những kết quả đưa ra tuy đạt được một số thành công nhưng chưa được tổng kết, hiệu quả của quy hoạch chưa được khẳng định. Nội dung của quy hoạch lâm nông nghiệp tuy đã được xác định tương đối rõ ràng ở một số nghiên cứu và chương trình dự án, nhưng vẫn chưa có sự thống nhất về mặt quan điểm giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch lâm nông nghiệp. Mối quan hệ giữa quy hoạch cấp xã với quy hoạch cấp trên, tính thống nhất và tính riêng rẽ giữa quy hoạch cấp xã với cấp thôn bản. Cơ sở khoa học dùng làm căn cứ cho quy hoạch lâm nông nghiệp cấp xã chưa cụ thể, cơ sở thực tiễn về quy hoạch chưa có tổng kết và đánh giá. Vì vậy nhiều vấn đề đang đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. Bên cạnh những hạn chế về việc nghiên cứu đối với quy hoạch lâm nông nghiệp ở Việt Nam, nhiều kết quả nghiên cứu có thể được vận dụng vào trong nghiên cứu của luận văn. Phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân vào quá trình quy hoạch nếu được hoàn thiện sẽ giúp ích nhiều cho nghiên cứu. Phương pháp đánh giá đất đai, phân tích hệ thống canh tác để lựa chọn cây trồng và xác định các phương thức sử dụng đất sẽ được sử dụng trong quá trình nghiên cứu của đề tài.
- 19 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài mong muốn đạt được các mục tiêu sau đây: - Xác định được cơ sở về chính sách, cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ phát triển rừng xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn. - Đề xuất, kiến nghị liên quan đến công tác quy hoạch bảo vệ phát triển rừng tại địa phương. 2.2. Nội dung nghiên cứu Đề tài tập trung vào nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau: - Nội dung có tính chất bao trùm và thể hiện trong toàn bộ các phần của đề tài nghiên cứu là phân tích các cơ chế chính sách hiện hành (Nhà nước, Trung ương, địa phương). Như là cơ sở quan trọng cho Quy hoạch bảo vệ phát triển rừng Xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn - Phân tích được các cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn cho Quy hoạch bảo vệ phát triển rừng Xã Đôn Phong huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn. - Những kiến nghị và đề xuất phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã Đôn Phong huyện Bạch thông tỉnh Bắc Kạn. 2.3. Quan điểm nghiên cứu 2.3.1. Quan điểm duy vật biện chứng Quan điểm này được thể hiện trong nghiên cứu là đề cao tính thống nhất của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội toàn quốc của Đảng và Nhà nước, tính thống nhất của hệ thống kế hoạch từ Trung ương tới địa phương, tính đặc thù của mỗi loại kế hoạch ở mỗi cấp và mối quan hệ biện chứng của chúng, đồng thời thừa kế kết quả và kinh nghiệm của từng thời kỳ phù hợp với xu thế chung để vận dụng vào thực tế của nước ta.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn