Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quy hoạch sử dụng đất làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất bền vững tại xã Mường So huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu giai đoạn 2007 - 2016
lượt xem 2
download
Đề tài nghiên cứu nhằm xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất bền vững; góp phần làm sáng tỏ tác động của một số chính sách, kinh tế - xã hội, tự nhiên và kỹ thuật đến quy hoạch sử dụng đất bền vững tại xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quy hoạch sử dụng đất làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất bền vững tại xã Mường So huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu giai đoạn 2007 - 2016
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN MINH HIẾU NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG TẠI XÃ MƯỜNG SO HUYỆN PHONG THỔ TỈNH LAI CHÂU GIAI ĐOẠN 2007 - 2016. Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học : TS. LÊ SỸ VIỆT Hà Tây- Năm 2007
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN MINH HIẾU NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT BỀN VỮNG TẠI XÃ MƯỜNG SO HUYỆN PHONG THỔ TỈNH LAI CHÂU GIAI ĐOẠN 2007 - 2016. Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học : TS. LÊ SỸ VIỆT Hà Tây- Năm 2007
- LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành chương trình đào tạo cao học tại trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam, gắn việc đào tạo với thực tiễn sản xuất, tôi thực hiện luận văn: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quy hoạch sử dụng đất làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất bền vững tại xã Mường So huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu giai đoạn 2007 - 2016 ”. Trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Lâm nghiệp, Khoa đào tạo Sau đại học, các thầy cô giáo, đặc biệt là thầy giáo - TS. Lê Sỹ Việt, người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt những kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho tôi trong thời gian học tập cũng như trong quá trình thực hiện luận văn. Nhân dịp này, tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban lãnh đạo và cán bộ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Lai Châu, Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lai Châu, Chi cục Phát triển lâm nghiệp tỉnh Lai Châu, Uỷ ban nhân dân huyện Phong Thổ, Phòng Kinh tế huyện Phong Thổ, Hạt Kiểm lâm huyện Phong Thổ, Trạm Khuyến nông huyện Phong Thổ, Phòng Thống kê huyện Phong Thổ, Ban lãnh đạo UBND xã Mường So vv....cùng toàn thể các đồng nghiệp, bạn bè gần xa và nhân dân xã Mường So đã giúp đỡ tôi hoàn thành bản luận văn này. Mặc dù đã làm việc với tất cả sự nỗ lực, nhưng về trình độ và thời gian hạn chế cho nên Luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng quý báu của các nhà khoa học và bạn bè đồng nghiệp./. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hà Tây, tháng 7 năm 2007. Tác giả
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi truờng sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội an ninh, quốc phòng[17]. Đất đai có những tính chất đặc trưng khiến nó không giống bất kỳ một tư liệu sản xuất nào khác, nếu được sử dụng hợp lý thì trong quá trình sản xuất, đất đai không những không bị bào mòn mà ngày càng tốt lên. Đất đai là tư liệu sản xuất không gì thay thế được, đặc biệt là đối với sản xuất nông lâm nghiệp. Chính vì vậy điều 18 Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và theo pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng và có hiệu quả”. Quy hoạch sử dụng đất có vai trò và chức năng vô cùng quan trọng, nó tạo ra những điều kiện cần thiết để tổ chức sử dụng đất có hiệu quả cao. Quy hoạch sử dụng đất có nhiệm vụ bố trí, sắp xếp lại nền sản xuất nông - lâm nghiệp, công nghiệp, các công trình xây dựng cơ bản, các khu dân cư và các công trình văn hoá phúc lợi một cách hợp lý hơn. Đặc biệt trong sản xuất nông - lâm nghiệp quy hoạch sử dụng đất có nhiệm vụ quy hoạch sử dụng các loại đất nông - lâm nghiệp, các phương pháp thâm canh trong nông lâm nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng đất và các giải pháp bảo vệ đất chống xói mòn, bảo vệ rừng và môi trường sinh thái. Trong những năm gần đây nhiều thiên tai như hạn hán, lũ lụt, trái đất nóng lên, hiệu ứng nhà kính... xuất hiện đã làm chết rất nhiều người, phá hoại nhà cửa, mùa màng và gây ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân. Từ đó con người mới bắt đầu nhận thức được việc chặt phá rừng bừa bãi, sử dụng đất đai không hợp lý, không khoa học là nguyên nhân chủ yếu gây nên những hiện tượng thiên tai đó. Chính vì vậy mà việc sử dụng hợp lý và bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như việc xây dựng một nền nông nghiệp bền vững là một nhiệm vụ vô cùng cấp thiết hiện nay. Quy hoạch sử dụng đất bền vững nhằm mục tiêu định hướng cho sự thay đổi công nghệ và tổ chức thực hiện nhằm đảm bảo cho việc thoả mãn liên tục nhu cầu của con người thuộc thế hệ hôm nay mà không làm ảnh hưởng đến nhu cầu cuả thế hệ mai sau. Với tính chất và vai trò quan trọng như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, quy hoạch sử dụng đất không ngừng phát triển và hoàn thiện, từ thực tiễn
- 2 được tổng hợp thành lý luận và trở thành một phần không thể thiếu trong sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và trong phát triển kinh tế xã hội của nông thôn miền núi nước ta nói riêng. Quy hoạch sử dụng đất cấp xã có sự tham gia của người dân giữ một vị trí hết sức quan trọng, nhằm giúp người dân có thể tham gia tích cực vào quy hoạch trong sử dụng đất của mình một cách hợp lý, có hiệu quả và trên nguyên tắc bền vững, bảo đảm hài hoà giữa lợi kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái. Phong Thổ là một huyện vùng cao biên giới thuộc tỉnh Lai Châu, một tỉnh vừa mới được thành lập năm 2004, nên công tác quy hoạch sử dụng đất trên toàn tỉnh nói chung và trên địa bàn huyện Phong Thổ nói riêng mới đang trong giai đoạn bắt đầu triển khai. Hiện tại trên địa bàn huyện còn nhiều xã chưa có quy hoạch sử dụng đất, hệ thống canh tác còn lạc hậu, người dân thiếu vốn sản xuất, thiếu kiến thức, việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn nhiều hạn chế, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà chủ yếu chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn nhiều lúng túng. Do vậy, một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt ra hiện nay là tiến hành quy hoạch sử dụng đất cho các xã dựa trên phương pháp PRA có sự tham gia của người dân kết hợp với kỹ thuật canh tác NLKH và áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất nhằm tạo cơ hội cho người dân tự phân tích, giác ngộ đồng thời giúp người dân đề xuất được cơ cấu vật nuôi, cây trồng phù hợp với gia đình và phù hợp với nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn trên, để góp phần hệ thống lại lý luận quy hoạch sử dụng đất cấp xã và giúp các xã vận dụng phù hợp với điều kiện địa phương, làm sao kết hợp hài hoà ưu tiên, định hướng của nhà nước với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất bền vững tại xã Mường So, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu giai đoạn 2007 – 2016”.
- 3 Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Quan điểm về phát triển bền vững Trong nhiều thập kỷ qua vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đã được các nhà khoa học trên thế giới cũng như trong nước quan tâm. Nghiên cứu về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của vấn đề sử dụng đất đai, tài nguyên rừng của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào cách nhìn nhận, trình độ quản lý và cách tiếp cận khoa học kĩ thuật của nhân loại. Quan điểm về sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đã được nhiều tác giả ở các quốc gia khác nhau đề cập tới, việc đưa ra một quan điểm thống nhất là một điều khó có thể thực hiện nhưng các khái niệm đều cho thấy những điểm giống nhau khi nói đến quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đều được thể hiện ở 3 vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường. Thuật ngữ "bền vững" được sử dụng trong nhiều khái niệm, ví dụ "sự phát triển bền vững", "kinh tế bền vững", "xã hội bền vững", và "sử dụng bền vững"[31]. Uỷ ban quốc tế về môi trường và phát triển (Wcea) đã định nghĩa "Phát triển bền vững là phát triển để đáp ứng nhu cầu của đời này mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của đời sau". Thế giới đang đứng trước nguy cơ to lớn về sự xuống cấp và huỷ hoại của môi trường sinh thái. Sự gia tăng dân số, phát triển công nghiệp và các hoạt động phát triển kinh tế ngày càng mạnh mẽ đã tác động tiêu cực đến tài nguyên thiên nhiên và môi trường tự nhiên, môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm trọng. Để sử dụng một cách có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên đạt mức tăng trưởng hợp lí, đồng thời bảo vệ môi trường sống và khả năng tái tạo của các nguồn tài nguyên, phải có một cách tiếp cận kết hợp nhuần nhuyễn giữa lợi ích kinh tế, xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái. Năm 1993, nhóm công tác quốc tế đã kiến nghị một khung đánh giá hệ thống quản lí và sử dụng đất bền vững và định nghĩa như sau [33]: "Quản lí sử dụng đất bền vững" bao hàm các quy trình công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lí kinh tế xã hội với các mối quan tâm về môi trường sao cho có thể đồng thời: Duy trì nâng cao sản xuất và dịch vụ, giảm thiểu sự rủi ro cho sản xuất, bảo vệ tiềm năng của các nguồn lợi tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hoá chất
- 4 lượng đất, có khả năng thực thi về kinh tế, có thể chấp nhận được về mặt xã hội (Dumanski, 1993)[33]. Cùng với nguyên tắc trên (Dumanski, 1993) [33] cũng đã đề xuất các chỉ tiêu để đánh giá và giám sát việc sử dụng đất bền vững. Các chỉ tiêu này bao gồm: Năng suất cây trồng, cân bằng dinh dưỡng, sự bảo toàn độ che phủ đất, chất lượng, số lượng đất, chất lượng, số lượng nước, lợi nhuận nông trại và sự áp dụng các biện pháp bảo vệ đất. Một mô hình sử dụng đất tổng hợp, bền vững phải đáp ứng một số nội dung sau: - Giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra cho mọi người ở từng bản làng, buôn sóc, ở từng địa phương, trong cả nước và trên toàn cầu. - Tổng hợp được các hiểu biết truyền thống với khoa học hiện đại, vận dụng thích hợp cho từng nơi. - Lấy các hệ thống thiên nhiên làm mẫu chuẩn, bắt chước các hành động hoà hợp với thiên nhiên. - Tạo lập ra các mô hình định canh lâu bền bằng việc xây dựng phù hợp với điều kiện sinh thái từng nơi. Để đảm bảo sử dụng đất mang tính tổng hợp bền vững cần thực hiện theo các nguyên tắc sau: + Đa dạng hoá các loại hình sản xuất, các chế độ canh tác, các loại hình sản phẩm. + Kết hợp nhiều ngành nghề: Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thuỷ sản.... + Ngăn ngừa được những tai biến môi trường, rủi ro và nạn ô nhiễm, suy thoái. + Sử dụng được các động thực vật hoang dã, các loài cây bản địa, các loài cây quý hiếm, đa tác dụng. + Tận dụng các nguồn tài nguyên: Đất, nước, năng lượng, sinh học làm cho nó được bảo toàn, tái tạo, tự điều chỉnh và tự tái sinh. + Sử dụng được đất theo quy mô nhỏ, thâm canh hiệu quả, được quản lý, chăm sóc, bảo vệ và phục hồi đất. Tóm lại, sử dụng đất bền vững là nhu cầu cấp bách của nhiều quốc gia trên thế giới. Những hiện tượng sa mạc hoá, thiên tai, lũ lụt, hạn hán, diện tích đất trống, đồi núi trọc ngày càng tăng lên, đây chính là kết quả của việc sử dụng đất đai không hợp lí. Khái niệm bền vững được các nhà khoa học trên thế giới chủ yếu hướng vào 3 yêu cầu sau:
- 5 - Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp nhận. - Bền vững về mặt xã hội - nhân văn: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống xã hội, được người dân chấp nhận. - Bền vững về mặt môi trường: Bảo vệ được đất đai, ngăn chặn được thoái hoá, xói mòn, rửa trôi, bảo vệ môi trường tự nhiên. 1.2 Trên thế giới 1.2.1 Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất vĩ mô Lịch sử về quy hoạch sử dụng đất đã trải qua hơn 100 năm nghiên cứu và phát triển, những thành tựu về phân loại đất và xây dựng bản đồ đất đã được sử dụng làm cơ sở quan trọng cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả. Hệ thống canh tác (Farming System) là sự bố trí một cách thống nhất và ổn định các ngành trong nông trại, được quản lý bởi hộ gia đình trong môi trường tự nhiên, sinh học và kinh tế xã hội, phù hợp với các mục tiêu mong muốn và nguồn lực của hộ (Shaner, Philip và Schemmedli, 1984)[34]. Hệ thống canh tác bao gồm các nguồn lực (đất, lao động, vốn) được sử dụng cho các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, nghề phụ để sản xuất các nông sản (lương thực, nguyên liệu thô, tiền mặt) trong nông trại với điều kiện nhất định (Willem C.Beet, 1990)[32]. Trên thế giới mô hình sử dụng đất đầu tiên là du canh (Shifitng cultivation), đó chính là những hệ thống nông nghiệp trong đó đất đã được phát quang để canh tác trong một thời gian, ngắn hơn thời gian bỏ hoá (Conklin, 1957)... Du canh được xem là phương thức canh tác cổ xưa nhất, nó ra đời vào cuối thời kỳ đồ đá mới, khi con người đã tích luỹ được những kiến thức ban đầu về tự nhiên. Tuy nhiên, về chiến lược phát triển kinh tế bền vững, du canh không được nhiều Chính phủ và cơ quan quốc tế coi trọng. Bởi du canh được coi như sự phí phạm về sức người, tài nguyên đất đai, là nguyên chính gây nên xói mòn và thoái hoá đất, dẫn đến tình trạng sa mạc hoá xảy ra nghiêm trọng.
- 6 Sau du canh là sự ra đời của các phương thức Taungya (Canh tác đồi núi) ở vùng nhiệt đới. Hệ thống Taungya được mọi người biết đến với nhiều tên gọi khác nhau, ở một số nước các tên gọi được biểu thị cho sự đặc biệt của phương thức du canh, ở Inđônêxia người ta gọi là Tumbansang, ở Philippin là Kaigining; ở Malayxia là La dang; ở Srilanka là China... Theo Von Hesmen (1966; 1970) và King (1979), hầu hết các rừng trồng ở vùng nhiệt đới đều được hình thành từ những phương thức này, đặc biệt là ở Châu Á và Châu Phi [30]. Taungya được xem như một dấu hiệu báo trước cho các phương thức sử dụng đất sau này (Nair, 1978). Hệ thống canh tác Taungya được cải tiến sửa đổi và dần dần được hoàn thiện, phổ biến trên toàn thế giới và được coi như là một hệ thống sử dụng đất có hiệu quả kinh tế lẫn môi trường sinh thái. Theo FAO năm 1990, đến nay đã có tới 117 nước trên thế giới áp dụng phương thức này. Như vậy, có thể thấy du canh là một hệ thống canh tác, trong đó các loài cây nông nghiệp và lâm nghiệp sinh trưởng kế tiếp nhau, còn Taungya bao gồm sự kết hợp đồng thời của cả hai loài cây trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành rừng trồng. Đứng trên quan điểm sử dụng, quản lý đất thì cả hai quá trình trên đều có một điểm tương đồng là những cây nông nghiệp được sử dụng một cách tốt nhất bởi độ phì của đất được tăng lên chính nhờ thảm mục của cây gỗ. Theo FAO, hiện nay dân số thế giới đã lên tới khoảng trên 6 tỉ người, đang sử dụng 1,476 tỉ ha đất nông nghiệp. Trong đó đất có độ dốc trên 100 (đất đồi, núi) là 937 triệu ha chiếm 63,5% (Sheng, 1988; Hudson, 1988; Cent, 1989). Trong quá trình sử dụng con người đã làm thoái hóa khoảng 1,4 tỉ ha đất. Theo Norman Mayer (1993), hàng năm trên toàn cầu mất khoảng 11 triệu ha đất nông nghiệp do các nguyên nhân xói mòn, rửa trôi và sa mạc hóa, nhiễm độc hoặc bị chuyển hóa sang dạng khác. Theo FAO, đến năm 1980 các loại hình quảng canh và du canh trên toàn thế giới chiếm tới 45% diện tích đất nông nghiệp. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng xói mòn, thoái hóa đất làm giảm năng suất cây trồng. Do những yêu cầu của mình, con người ngày càng xâm hại đến rừng để lấy lâm sản và đất canh tác, làm cho diện tích đất rừng ngày càng thu hẹp, đe dọa đến môi trường sống.
- 7 Theo dự báo của tổ chức dân số thế giới, nếu với tốc độ tăng trưởng dân số diễn ra như hiện nay thì đến năm 2025 dân số thế giới sẽ lên tới khoảng 8 tỷ người, tập trung ở các nước chậm và đang phát triển. Nếu mức tiêu thụ lương thực theo đầu người vẫn giữ nguyên như hiện nay thì sự tăng dân số thế giới đòi hỏi phải tăng năng suất lương thực thô thêm 2,6 tỷ tấn vào năm 2025, tức là tăng 57% so với năm 1990. Trên thực tế thì đất đai mở mang có hạn và không thể đáp ứng được với tốc độ gia tăng dân số tự nhiên trên toàn cầu. Vì vậy để thỏa mãn nhu cầu về lương thực ngày càng cao, con người tìm cách giải quyết theo một trong hai hướng chính đó là: Tăng năng suất cây trồng bằng việc tận dụng tối đa tiềm năng của các loại đất, thâm canh tăng mùa vụ và mở rộng diện tích canh tác. Để làm được điều đó thì công tác điều tra, khảo sát, phân loại và đánh giá đất đai để tìm ra giải pháp sử dụng đất có hiệu quả nhất trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất hợp lý, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và đặc biệt là theo hướng nghiên cứu đánh giá tổng hợp tiềm năng của đất đai cho các mục tiêu sử dụng bền vững đã trở thành một yêu cầu rất bức thiết. Công cuộc tìm giải pháp nhằm nâng cao sản lượng lương thực và khắc phục tình trạng thiếu hụt về lương thực, đã thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu tìm giải pháp về sử dụng đất đai bền vững. Một trong những thành công của quá trình nghiên cứu đó là đã tìm ra hệ thống kỹ thuật canh tác trên đất dốc (SALT) nhằm sử dụng đất dốc bền vững và được trung tâm đời sống nông thôn Bapstit Mintanao Philippin tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ giữa những năm 1970 đến nay[25]. - Mô hình SALT 1 (Sloping Agriculture Land Technology) với cơ cấu 25% cây lâm nghiệp + 25% cây lưu niên (NN) + 50% cây nông nghiệp hàng năm. - Mô hình SALT 2 (Simple Agro - Livestock Technology) với cơ cấu 40% NN + 20% LN + 20% chăn nuôi +20 % làm nhà ở và chuồng trại. - Mô hình SALT 3 (Sustainable Agro - Forest land Technology) với cơ cấu 40% NN + 60% LN. - Mô hình SALT 4 (Small Agro - Fruit Likelihood Technology) với cơ cấu 60% LN + 15% NN + 25% cây ăn quả.
- 8 Các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc có sự phối hợp hài hoà giữa cây nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc đều dựa trên cơ sở có sự nghiên cứu phân bổ các loại đất đai một cách hợp lý, khoa học nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất và bền vững nhất về mặt môi trường sinh thái. Kết quả tổng kết các tài liệu nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch phát triển địa phương chỉ ra rất nhiều cách tiếp cận: Tiếp cận Sodeo của Peter Hildebrand (Hildebrand,1981); Tiếp cận “nông thôn - trở lại - nông thôn” của Robert (Rhoades Rhoades, 1982); Tiếp cận của Robert Chambers; Tiếp cận “chẩn đoán và thiết kế của ICRAF” (Raintree); Tiếp cận của L.W.Harrington. Nhìn chung các phương pháp tiếp cận đi theo 2 hướng chính đó là: Tiếp cận từ trên xuống (Top-down approach) và tiếp cận từ dưới lên (Boottom-up approach). Cách tiếp cận thứ nhất ngày càng bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả khi không có sự tham gia của cộng đồng và khi các chương trình thực hiện ở cấp vi mô. Cách tiếp cận thứ 2 được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng sự “không thể thiếu được” vai trò của cộng đồng nông thôn trong quản lý tài nguyên cộng đồng (Robert Chambers). Từ đó "Quy hoạch trên cơ sở cộng đồng” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện. Khi nghiên cứu hệ thống canh tác năm 1990, FAO đã xuất bản cuốn "Phát triển hệ thống canh tác". Công trình đã chỉ rõ những ưu thế và hạn chế của 2 phương pháp tiếp cận trên[11]. Từ cuối thập kỷ 70 nhiều nhà nghiên cứu đã quan tâm phát triển các phương pháp thu thập thông tin cho quy hoạch với các nhóm thông tin chính như: Khí hậu, độ dốc, địa mạo, thổ nhưỡng gồm cả thuỷ văn, đất, nước, tài nguyên nhân tạo như hệ thống tưới tiêu, thảm thực vật. Các phương pháp điều tra đánh giá cùng tham gia như đánh giá nhanh nông thôn (RRA), đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA), phương pháp quá trình sáng tạo (Creative Process), đặc biệt phương pháp phân tích các hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất vi mô được nghiên cứu rộng rãi. Những nghiên cứu, thử nghiệm các phương pháp RRA vào thập kỷ 80 và PRA vào đầu thập kỷ 90 trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch sử dụng đất được thực hiện trên 30 nước phát triển (Robert Chambers, 1994) đã cho thấy ưu thế của phương pháp này trong quy hoạch. Một số kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu Âu, Châu Phi
- 9 và Nam Mỹ đã chứng minh hệ thống canh tác là công cụ trong quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương. LEFSA (Land Evaluation and Farming System Analysis) là phương pháp kết hợp giữa đánh giá đất đai và phân tích hệ thóng canh tác cho lập kế hoạch sử dụng đất cấp vi mô. Luning (1990), Anaman (1994) và một số tác giả khác đã nghiên cứu và áp dụng LEFSA tại Thái Lan. Tác giả Erwin, 1990 đã phân tích hệ thống canh tác là công cụ cho phân tích các trở ngại trong hệ thống nông trại hộ gia đình, đề xuất mục tiêu quy hoạch, xác định các kiểu sử dụng đất hiện tại và phương án sử dụng đất, đánh giá phương án sử dụng đất khác nhau nhằm chọn ra phương án tốt nhất. Những kết quả phân tích hệ thống canh tác xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một công cụ của quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp cấp địa phương. Trong giai đoạn này, phát triển công nghệ có sự tham gia cũng được ứng dụng rộng rãi. Phát triển công nghệ có sự tham gia (Participatory Technology Development - PTD) hay còn gọi là phát triển công nghệ cùng với người nông dân chính là sự kết hợp kiến thức và năng lực nghiên cứu của những cộng đồng địa phương và các tổ chức phát triển trong quá trình học hỏi lẫn nhau nhằm mục đích tăng cường kinh nghiệm và khả năng quản lý kỹ thuật của cộng đồng và người dân địa phương bằng chính nội lực của họ, trong đó hoạt động của người dân giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ tiến trình. Tuy nhiên, phát triển công nghệ có sự tham gia đòi hỏi có nhiều thời gian, sự kiên nhẫn và nhiệt thành từ phía những người bên ngoài - nhà nghiên cứu và các cán bộ khuyến nông lâm. 1.2.2 Những nghiên cứu liên quan đến sử dụng đất cấp vi mô có sự tham gia của người dân Vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới, trong nước nghiên cứu và công bố kết quả. Năm 1985, nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất với 4 câu hỏi: 1) Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu của quy hoạch là gì? 2) Có các phương án sử dụng đất nào đang tồn tại? 3) Phương án nào là tốt nhất? 4) Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào?
- 10 Tài liệu Hội thảo giữa trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam và Trường Tổng hợp Kỹ thuật Dresden, vấn đề quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của người dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ và toàn diện. Tài liệu đã phân tích một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển nông thôn, quy hoạch sử dụng đất, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong quy hoạch sử dụng đất . Tại Hội thảo quốc tế tại Việt Nam năm 1998 về vấn đề quy hoạch sử dụng đất cấp làng bản đã được FAO đề cập khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia trong việc đề xuất các chiến lược quy hoạch sử dụng đất và giao đất cấp làng bản. 1.2.3 Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới Từ các tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm quy hoạch sử dụng đất trên thế giới cho phép rút ra một số kết luận sau: Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu, thử nghiệm về quy hoạch, phương pháp chuyển giao sử dụng đất song nhìn chung hầu hết các phương pháp đều phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, chưa quan tâm đến lợi ích của người nông dân cũng như vấn đề đang nóng bỏng hiện nay là đảm bảo an toàn sinh thái theo hướng phát triển bền vững. Việt Nam có thể ứng dụng các thành tựu nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất trên thế giới song phải vận dụng một cách linh hoạt cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể từng cộng đồng nông thôn Việt Nam. Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng là quy hoạch sử dụng đất, kết hợp quy hoạch từ trên xuống bằng các định hướng chiến lược và ưu tiên phạm vi vùng với nhu cầu của cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển và xây dựng kế hoạch cấp thôn bản. Phương pháp cùng tham gia, phân tích hệ thống canh tác cần được vận dụng vào đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã hội và thể chế chính sách của Việt Nam. Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những giải pháp quan trọng và là cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô. 1.3. Ở Việt Nam 1.3.1 Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ Ở Việt Nam, các vấn đề về nghiên cứu đất đai, quy hoạch sử dụng đất được bắt
- 11 đầu từ rất sớm. Từ thế kỷ 15, Lê Quý Đôn đã tổng kết những kinh nghiệm của mình về canh tác nông nghiệp trong “Vân Đài loại ngữ” nhằm giúp người dân đạt năng suất cao nhất trong sản xuất nông nghiệp. Đầu thế kỷ 20, các công trình nghiên cứu đánh giá và quy hoạch sử dụng đất đã được các nhà khoa học Pháp nghiên cứu phát triển với quy mô rộng lớn. Giai đoạn 1955 - 1975, công tác điều tra phân loại đã được tổng hợp một cách có hệ thống trong phạm vi toàn miền Bắc. Nhưng đến sau năm 1975 các số liệu nghiên cứu về phân loại đất mới được thống nhất. Xung quanh chủ đề phân loại đất đã có nhiều công trình khác triển khai thực hiện trên các vùng sinh thái (Ngô Nhật Tiến, 1986; Đỗ Đình Sâm, 1994...). Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu cơ bản, thiếu biện pháp đề xuất cần thiết cho việc sử dụng đất, công tác điều tra phân loại đã không gắn liền với công tác sử dụng đất. Trong tài liệu “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”, Nguyễn Xuân Quát (1996)[18] đã phân tích tình hình sử dụng đất đai cũng như mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng thời đề xuất tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững. Tài liệu ''Đất rừng Việt Nam'', Nguyễn Ngọc Bình[1] đã đưa ra quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam. Về luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ để sử dụng hợp lý đất đai đã được nhiều tác giả: Phạm Văn Chiểu (1964); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang Toản (1991) đã đề cập tới việc lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc Việt Nam. Năm 1996, công trình “Quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền núi nước ta”, Bùi Quang Toản đã đề xuất sử dụng đất nông nghiệp vùng đồi núi và trung du. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình tập huấn hỗ trợ LNXH của trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bền vững trong điều kiện Việt Nam[12].
- 12 Nghiên cứu hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh hơn từ sau khi đất nước thống nhất, Tổng cục Địa chính đã tiến hành quy hoạch đất đai 3 lần vào các năm 1978, 1985 và 1995[20]. Căn cứ vào điều kiện đất đai, ngành lâm nghiệp đã phân chia đất đai toàn quốc thành 7 vùng sinh thái. Trong ''Tóm tắt báo cáo khảo sát đợt 1 về LNXH'' nhóm luật và chính sách (1998) của trường Đại học Lâm nghiệp[24] vấn đề hệ thống chính sách và những quy định về quản lý sử dụng đất, cũng như hệ thống quản lý sử dụng đất các cấp được đề cập khá đầy đủ và chi tiết. Tài liệu tập huấn "Những quy định và chính sách về quản lý sử dụng đất'' của Trần Thanh Bình (1997)[2], "Các chính sách có liên quan đến phát triển kinh tế trang trại”. Qua việc nghiên cứu hệ thống nông nghiệp tại khu vực đồng bằng sông Hồng, Đào Thế Tuấn (1998)[25] đã chỉ ra được những vấn đề tồn tại, nguyên nhân của nó và đề xuất các mục tiêu và giải pháp khắc phục. Trên cơ sở tổng hợp các luận điểm về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước các tác giả Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Phạm Chí Thành, Trần Đức Viên (1993) đã xây dựng giáo trình hệ thống nông nghiệp. Ngoài phần hệ thống hoá nông nghiệp, các tác giả đã đề xuất chiến lược phát triển, dự kiến cấu trúc và thứ bậc hệ thống nông nghiệp, công trình hỗ trợ đắc lực cho công tác nông nghiệp trên cả 2 phương diện lý luận và thực tiễn. Năm 1994, Tổng cục Địa chính xây dựng quy trình quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 1995 - 2000 trên quy mô cả nước. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới[20]. Năm 1996, tác giả Trần An Phong nghiên cứu các mô hình sử dụng đất dốc đã đi đến kết luận biện pháp sử dụng đất có hiệu quả là bố trí một chế độ thâm canh hợp lý, triệt để lợi dụng nước trời, áp dụng các biện pháp canh tác nhằm bảo vệ, gĩư gìn độ ẩm tối đa trong các lớp đất đảm bảo cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Năm 1997, Chương trình tập huấn dự án hỗ trợ lâm nghiệp xã hội của trường Đại học Lâm nghiệp đã đề cập đến các phương pháp tiếp cận có sự tham gia của người dân. Các tác
- 13 giả: Lý Văn Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình[22] đã phối hợp với các chuyên gia trong và ngoài nước biên soạn tài liệu với những vấn đề chính sau: - Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia. - Các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân. - Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn. - Thực hành tổng hợp. Tác giả Trần Hữu Viên (1997)[28] đã xây dựng tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân đã kết hợp phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong tài liệu hướng dẫn công tác quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân, Đoàn Diễm (1997) đã tập trung vào các chủ đề sau: - Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam. - Phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp của dự án GCP/VIE/024/ITA. - Những tồn tại của quy hoạch sử dụng đất, giao đất lâm nghiệp ở Việt Nam và thế giới. - Kiến nghị phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp đơn giản có sự tham gia của người dân. Tác giả Ngô Đình Quế và Đinh Thanh Giang, năm 2001 nghiên cứu về mô hình canh tác nương rẫy hợp lý, nhằm nâng cao năng suất cây trồng, duy trì sản xuất của đất nương rẫy, thúc đẩy quá trình phục hồi độ phì đất bỏ hoá. Tác giả cũng kết luận cùng với các biện pháp kỹ thuật tiên tiến, các giống cây trồng mới cho năng suất cao, phẩm chất tốt cần đưa vào sản xuất thì mô hình luân canh nương rẫy. 1.3.2 Một số nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp quy hoạch sử dụng đất vào thực tiễn ở Việt Nam Trong những năm gần đây việc nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp được tiến hành với quy mô rộng rãi. Việc nghiên cứu thí điểm đầu tiên được tiến hành tại các xã: Tử Nê, huyện Tân Lạc, xã Hang Kia, Pà Cò huyện Mai Châu, tỉnh Hoà Bình vào năm 1993 do Dự án đổi mới chiến lược phát
- 14 triển lâm nghiệp thực hiện. Tổng hợp những bài học kinh nghiệm từ dự án cho thấy công tác quy hoạch sử dụng đất được coi là một nội dung chính cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính quyền xã[26]. Chương trình phát triển Nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển giai đoạn 1996 - 2001 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp thôn bản và hộ gia đình. Phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong giai đoạn này đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn. Năm 1996, tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh[14] đã đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: - Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Quốc gia và nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương. - Tiến hành trong khuôn khổ luật pháp hiện hành và các nguồn lực hiện có tại địa phương. - Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ. - Đảm bảo phát triển bền vững. - Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia. - Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng[13,14]. Năm 1996, trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi Cục Kiểm lâm cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung, biện pháp và trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã’’[4]. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung vào tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây.
- 15 Chương trình hợp tác Việt - Đức về phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà năm 1997 ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam[9] đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại 2 xã của 2 huyện Yên Châu tỉnh Sơn La và huyện Tủa Chùa tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên) trên cơ sở hướng dẫn của Chi cục Kiểm lâm với cách làm 6 bước đã lấy cấp thôn bản làm đơn vị quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận LNXH đối với cộng đồng dân tộc vùng cao. Kết quả nghiên cứu “Đề tài’’ của Nguyễn Bá Ngãi[16] cùng với nhóm tư vấn của dự án khu vực Lâm nghiệp Việt Nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch lâm - nông nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiền Dự án lâm - nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá, Gia lai, Phú Yên và Quảng Trị[15]. Trong đầu những năm 1990, vấn đề quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp được nhiều tác giả đề cập và nghiên cứu. Nghiên cứu cuả Reichenberg, (1992) cho rằng Việt Nam chưa có quy hoạch sử dụng đất cấp vi mô, được xây dựng dựa trên cơ sở xem xét tất cả các khía cạnh của tất cả các ngành trong tương lai. Trong giai đoạn 2000 - 2005, Dự án phát triển nông thôn Sơn La, Lai Châu do Liên minh Châu Âu tài trợ bằng nguồn vốn ODA. Mục tiêu của Dự án là cải thiện an toàn lương thực ở khu vực Miền núi phía Bắc Việt Nam thông qua việc sử dụng bền vững và hữu ích nguồn tài nguyên thiên nhiên ở hai tỉnh Sơn La và Lai Châu. Những hoạt động chính của Dự án đó là: Quy hoạch sử dụng đất và giao đất, quản lý rừng đầu nguồn và phân loại đất lâm nghiệp, cải thiện giống cây trồng trên nương, cải tiến chăn nuôi, tăng cường dịch vụ khuyến nông và đào tạo. Dự án phát triển nông thôn Cao Bằng, Bắc Cạn thực hiện các hoạt động quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp, tăng cường kỹ năng nông lâm kết hợp cho 41 bản với 1.155 người tham gia bao gồm các kỹ thuật viên nông nghiệp, quản lý trồng trọt và lập kế hoạch phát triển thôn bản, đồng thời phát triển được 612 mô hình ở Bắc Cạn và 89 mô hình ở Cao Bằng. Trong những năm gần đây, các chương trình và dự án nông lâm nghiệp như dự án PAM, dự án trồng rừng Việt - Đức (KWF) tại Lạng Sơn, Bắc Giang, Thanh Hoá, Quảng Ninh... do GTZ tài trợ cũng đã sử dụng triệt để phương pháp đánh giá nông thôn có sự
- 16 tham gia. Về mặt lý luận, một số đề tài nghiên cứu của Đinh Văn Đề[10], Nguyễn Hữu Tân[19], Nguyễn Bá Ngãi[16], Nguyễn Phúc Cường[5]... cũng đã tiến hành ở một số địa phương, có những đánh giá và kết quả có ý nghĩa thực thực tiễn nhất định. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đều cho rằng quan điểm quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp cấp địa phương nên đi theo hướng sau: - Tiến hành nghiên cứu khả năng chuyển từ quy hoạch nông lâm nghiệp chủ yếu dựa trên chức năng sử dụng đất sang dựa trên tiềm năng đất đai. - Rà soát và xem lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích sử dụng đất bằng đa dạng hoá các hoạt động sản xuất trong mỗi bản quy hoạch của cộng đồng. - Gắn 2 quá trình quy hoạch và giao đất và coi đó là hai bộ phận có quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp ở mỗi địa phương và mỗi cộng đồng. - Nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp cùng tham gia trong quá trình quy hoạch, phát triển sản xuất nông lâm nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ thể trong quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp cấp xã. 1.4 Đánh giá ban đầu về vấn đề nghiên cứu ở Việt Nam Đánh giá, phân tích các nghiên cứu và thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất ở Việt nam có thể rút ra một số kết luận sau: Việt Nam đã có những nghiên cứu khá đầy đủ về quy hoạch sử dụng đất cấp vĩ mô song cấp vi mô còn nhiều hạn chế mới nghiên cứu chủ yếu đối tượng đất phục vụ cho sản xuất mà chưa chỉ ra được vai trò quan trọng của môi trường sinh thái. Phương pháp quy hoạch còn nhiều hạn chế và thiếu thống nhất, phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân đã được áp dụng ở một số địa phương nhưng chưa tổng kết xác định đối tượng cụ thể tham gia và vai trò của họ. Thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch nông lâm nghiệp và các ngành khác (Giao thông, thuỷ lợi, xây dựng...). Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến mâu thuẫn và chồng chéo trong các nội dung quy hoạch sử dụng đất. Các quy hoạch này thiếu tính dự báo dài hạn nên nhiều bản quy hoạch phải liên tục bổ sung, điều chỉnh gây mất ổn định trong chỉ đạo và quản lý.
- 17 Mâu thuẫn giữa một bên là cá nhân, hộ gia định thiếu đất sản xuất với một bên là các tổ chức lâm nghiệp của nhà nước được giao nhiều đất nhưng quản lý sử dụng không có hiệu quả. Kết quả nghiên cứu về sử dụng đất dốc mới chỉ được áp dụng cho đối tượng đất sản xuất nơi người dân có trình độ canh tác khá cao, còn ở những nơi vùng sâu, vùng xa nơi trình độ dân trí thấp, đời sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn thì chưa được nghiên cứu đầy đủ. Công tác quy hoạch thường dựa vào ý kiến chủ quan của các nhà quy hoạch, thiếu sự đóng góp và tham gia của người dân. Vì vậy không khai thác được kinh nghiệm của người dân địa phương và tính khả thi không cao. Hơn nữa phương pháp quy hoạch dựa trên thuộc tính của đất đai, ít xét đến tiềm năng đất đai, nhu cầu và khả năng của cộng đồng. Cơ sở khoa học cho quy hoạch lâm - nông nghiệp cấp xã chưa rõ ràng, thực tiễn về quy hoạch cấp xã chưa nhiều để tổng kết đánh giá. Phương pháp tiếp cận và chuyển giao kỹ thuật còn nặng về xây dựng mô hình, chưa thúc đẩy mạnh mẽ công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện đồng thời ít chú ý đến các yếu tố phi kỹ thuật như tổ chức sản xuất, thị trường tiêu thụ và yếu tố tiếp thị nhằm đảm bảo cho các tiến bộ kỹ thuật được chuyển giao và trình diễn, phát huy hiệu quả và bền vững. Từ những hạn chế trên đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu một số vấn đề như phương pháp tiếp cận có sự tham gia trong quy hoạch, phương pháp đánh giá đất đai, phân tích hệ thống canh tác, lựa chọn cơ cấu tập đoàn cây trồng, xác định phương thức, phương pháp và định hướng sử dụng các loại đất trên địa bàn khu vực nghiên cứu.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 411 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 234 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn