Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất tại xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận
lượt xem 6
download
Nội dung chính của luận văn là xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất. Góp phần làm sáng tỏ tác động của một số chính sách, kinh tế - xã hội, tự nhiên và kỹ thuật đến quy hoạch sử dụng đất tại xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình, Tỉnh Bình Thuận. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp quy hoạch sử dụng đất tại xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT ` TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN THỊ DANH LAM NGHIÊN CỨU CƠ SỞ LÝ LUẬN VA THỰC TIỄN LÀM CĂN CỨ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP QUY HOẠCH SỬ DỤNG ĐẤT TẠI XÃ HỒNG PHONG, HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC MÃ SỐ: 60. 62. 60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. LÊ SỸ VIỆT Đồng Nai, 2012
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Từ ngàn xưa đất đai đã gắn bó với người dân Việt Nam, trở thành một phần trong cuộc sống của người dân Việt. Đất đai là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Đất đai là tài sản quý báu của mỗi đất nước. Do đó việc sử dụng đất đai hợp lý , có hiệu quả, bảo vệ đất bền lâu đang là vấn đề quan tâm hàng đầu ở nước ta. Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên đất đai đang là mục tiêu chiến lược của một nền nông lâm nghiệp sinh thái. Qui hoạch sử dụng đất là một trong những hoạt động rất quan trọng, đặc biệt đối với sản xuất lâm nông nghiệp. Do đặc điểm của Việt Nam là địa hình đa dạng phức tạp, phân hoá mạnh, cùng với nền kinh tế xã hội và nhu cầu của người dân trong nền kinh tế thị trường cũng hết sức phong phú. Nên việc qui hoạch sử dụng đất cho các cấp quản lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh … đã ngày càng trở thành một đòi hỏi thực tế khách quan. Qui hoạch sử dụng đất là tiền đề vững chắc cho bất kỳ giải pháp nào nhằm phát huy đồng thời những tiềm năng to lớn nhưng cực kỳ đa dạng của đất đai và các điều kiện tự nhiên - kinh tế và xã hội khác, góp phần vào sự nghiệp phát triển bền vững ở địa phương và quốc gia. Điều đó chứng tỏ rằng để việc sản xuất kinh doanh có hiệu quả hay sử dụng tài nguyên thiên nhiên hợp lý - bền vững cần phải có công tác qui hoạch sử dụng đất và công tác qui hoạch sử dụng đất cần phải được đi trước một bước trước khi các hoạt động khác diễn ra. Với tính chất và vai trò quan trọng như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, QHSDĐ không ngừng phát triển và hoàn thiện, từ thực tiễn được tổng hợp thành lý luận và trở thành một phần không thể thiếu được trong sự phát triển của xã hội nói chung và trong phát triển kinh tế xã hội của nông thôn miền núi nước ta nói riêng. Cấp xã là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống các đơn vị quản lý lãnh thổ hành chính, được coi là đơn vị cơ bản quản lý và tổ chức sản xuất nông lâm nghiệp của các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. QHSDĐ cấp xã không những giải quyết được các nội dung sản xuất, giải quyết kinh tế, kỹ thuật và xã hội cụ thể, chi tiết mà
- 2 còn ước tính được đầu tư nguồn vốn và hiệu quả đầu tư về các mặt kinh tế - xã hội và môi trường. Trong những năm gần đây, tiến hành QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân bước đầu được áp dụng trên địa bàn NTMN nước ta. Tuy nhiên, có thể thấy QHSDĐ cấp vi mô hiện nay đang còn nhiều vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu để đi đến hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn của công tác này. Hồng Phong là một xã miền núi của huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Hiện tại trên địa bàn huyện Bắc Bình còn nhiều xã chưa có QHSDĐ, hệ thống canh tác còn lạc hậu, người dân thiếu vốn sản xuất, thiếu kiến thức, việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại và công nghệ tiên tiến vào sản xuất còn nhiều hạn chế, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, mà chủ yếu chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn nhiều lúng túng. Do vậy, một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đặt ra hiện nay là tiến hành QHSDĐ cho các xã dựa trên phương pháp PRA có sự tham gia của người dân kết hợp với kỹ thuật canh tác NLKH và áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại vào sản xuất nhằm tạo cơ hội cho người dân tự phân tích, giác ngộ đồng thời giúp người dân đề xuất được cơ cấu vật nuôi, cây trồng phù hợp với gia đình và phù hợp với nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ nhận thức và thực tiễn trên, để góp phần hệ thống lại lý luận QHSDĐ cấp xã và giúp các xã vận dụng phù hợp với điều kiện địa phương, làm sao kết hợp hài hoà ưu tiên, định hướng của nhà nước với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương. Chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ đề xuất các giải pháp QHSDĐ tại xã Hồng Phong, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận”.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Trên thế giới 1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến cơ sở khoa học của QHSDĐ vĩ mô Công trình nghiên cứu về QHSDĐ đã được quan tâm từ thế kỷ 19. Các công trình nghiên cứu trên lĩnh vực này liên tục phát triển cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Và đã đạt được những thành tựu về phân loại đất và xây dựng bản đồ đất, được sử dụng làm cơ sở cho việc tăng năng suất và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả. Các công trình nghiên cứu về QHSDĐ đều xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi thực tế khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một tăng của xã hội. Khái niệm về ''Các khu vực trung tâm'' cho quy hoạch vùng đã được Chrittaller đề cập vào năm 1933 [39]. Với cơ sở trên, việc phân chia đất đai theo địa lý với vùng sản xuất là nền tảng để quy hoạch vùng cho sản xuất nông lâm nghiệp. Vào những năm 30 - 40 quy hoạch ngành bắt đầu xuất hiện, giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng. Thời kỳ những năm 50 đến những năm 70 trên thế giới nhấn mạnh nhiều đến nghiên cứu về đánh giá đất đai trong QHSDĐ. Các tài liệu chuyên khảo của Jacks G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về ''Phân loại đất đai cho QHSDĐ'' [44]. Trên thế giới mô hình sử dụng đất đầu tiên là du canh (Shifitng cultivation), đó chính là những hệ thống nông nghiệp trong đó đất đã được phát quang để canh tác trong một thời gian, ngắn hơn thời gian bỏ hoá (Conklin, 1957)... Du canh được xem là phương thức canh tác cổ xưa nhất, nó ra đời vào cuối thời kỳ đồ đá mới, khi con người đã tích luỹ được những kiến thức ban đầu về tự nhiên. Loài người đã vượt qua thời kỳ này bằng những cuộc cách mạng về kỹ thuật và trồng trọt. Tuy nhiên, về chiến lược phát triển kinh tế bền vững, du canh không được nhiều Chính phủ và cơ quan quốc tế coi trọng. Bởi du canh được coi như sự phí phạm về sức người, tài nguyên đất đai, là nguyên nhân chính gây nên xói mòn và thoái hoá đất, dẫn đến tình trạng sa mạc hoá xảy ra nghiêm trọng.
- 4 Như vậy, có thể thấy du canh là một hệ thống canh tác, trong đó các loài cây nông nghiệp và lâm nghiệp sinh trưởng kế tiếp nhau, còn Taungya bao gồm sự kết hợp đồng thời của cả hai loài cây trong giai đoạn đầu của quá trình hình thành rừng trồng. Đứng trên quan điểm sử dụng, quản lý đất thì cả hai quá trình trên đều có một điểm tương đồng là những cây nông nghiệp được sử dụng một cách tốt nhất bởi độ phì của đất được tăng lên chính nhờ thảm mục của cây gỗ. Theo FAO, hiện nay dân số thế giới đã lên tới khoảng trên 6 tỉ người, đang sử dụng 1,476 tỉ ha đất nông nghiệp. Trong đó đất có độ dốc trên 10 độ (đất đồi, núi) là 937 triệu ha chiếm 63,5% (Sheng, 1988; Hudson, 1988; Cent, 1989). Cũng theo FAO, đến năm 1980 các loại hình quảng canh và du canh trên toàn thế giới chiếm tới 45% diện tích đất nông nghiệp. Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng xói mòn, thoái hóa đất làm giảm năng suất cây trồng. Để đáp ứng nhu cầu của mình, con người ngày càng xâm hại đến rừng để lấy lâm sản và đất canh tác, làm cho diện tích đất rừng ngày càng thu hẹp, đe dọa đến môi trường sống. Vì vậy để thỏa mãn nhu cầu về lương thực ngày càng cao, con người tìm cách giải quyết theo một trong hai hướng chính đó là: Tăng năng suất cây trồng bằng việc tận dụng tối đa tiềm năng của các loại đất, thâm canh tăng mùa vụ và mở rộng diện tích canh tác. Để làm được điều đó thì công tác điều tra, khảo sát, phân loại và đánh giá đất đai để tìm ra giải pháp sử dụng đất có hiệu quả nhất trên cơ sở QHSDĐ hợp lý, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và đặc biệt là theo hướng nghiên cứu đánh giá tổng hợp tiềm năng của đất đai cho các mục tiêu sử dụng bền vững đã trở thành một yêu cầu rất bức thiết. Công cuộc tìm giải pháp nhằm nâng cao sản lượng lương thực và khắc phục tình trạng thiếu hụt về lương thực, đã thúc đẩy các nhà khoa học nghiên cứu tìm giải pháp về sử dụng đất đai bền vững. Một trong những thành công của quá trình nghiên cứu đó là đã tìm ra hệ thống kỹ thuật canh tác trên đất dốc (SALT) nhằm sử dụng đất dốc bền vững và được trung tâm đời sống nông thôn Bapstit Mintanao Philippin tổng kết, hoàn thiện và phát triển từ giữa những năm 1970 đến nay [9].
- 5 - Mô hình SALT 1 (Sloping Agriculture Land Technology) với cơ cấu 25% cây lâm nghiệp + 25% cây lưu niên (NN) + 50% cây nông nghiệp hàng năm. - Mô hình SALT 2 (Simple Agro - Livestock Technology) với cơ cấu 40% NN + 20% LN + 20% chăn nuôi +20 % làm nhà ở và chuồng trại. - Mô hình SALT 3 (Sustainable Agro - Forest land Technology) với cơ cấu 40% NN + 60% LN. - Mô hình SALT 4 (Small Agro - Fruit Likelihood Technology) với cơ cấu 60% LN + 15% NN + 25% cây ăn quả. - Mô hình Taungya ở Thái Lan là mô hình làng lâm nghiệp, trong đó Nhà nước cấp đất để làm nhà ở và vườn là 0,16 ha và mỗi hộ có 1,6 ha để trồng rừng, trồng cây nông nghiệp. Nhà nước còn hỗ trợ làm đường giao thông, y tế, giáo dục. - Tại Việt Nam năm 1996, tác giả Trần An Phong nghiên cứu các mô hình sử dụng đất dốc đã đi đến kết luận biện pháp sử dụng đất có hiệu quả là bố trí một chế độ thâm canh hợp lý, triệt để lợi dụng nước trời, áp dụng các biện pháp canh tác nhằm bảo vệ, giữ độ ẩm tối đa trong các lớp đất đảm bảo cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt [20]. - Tại Việt Nam năm 1996, trong công trình “ QHSDĐ nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền núi Việt Nam ”, Bùi Quang Toản đã đề xuất sử dụng đất nông nghiệp vùng đồi núi và trung du [29]. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997) trong chương trình tập huấn hỗ trợ LNXH của trường Đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bễn vững trong điều kiện Việt Nam [12]. Trong đó, các tác giả đã đi sâu phân tích về: - Quan điểm về tính bền vững. - Khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững. - Hệ thống sử dụng đất bền vững. - Kỹ thuật sử dụng đất bền vững. - Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật SDĐ.
- 6 Các mô hình canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc có sự phối hợp hài hoà giữa cây nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi gia súc đều dựa trên cơ sở có sự nghiên cứu phân bổ các loại đất đai một cách hợp lý, khoa học nhằm tạo ra hiệu quả kinh tế cao nhất và bền vững nhất về mặt môi trường sinh thái. Kết quả tổng kết các tài liệu nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch phát triển địa phương chỉ ra rất nhiều cách tiếp cận: Tiếp cận “nông thôn - trở lại-nông thôn” của Robert (Rhoades Rhoades, 1982); Tiếp cận của Robert Chambers; Tiếp cận “chẩn đoán và thiết kế của ICRAF” (Raintree); Tiếp cận của L.W.Harrington….Nhìn chung các phương pháp tiếp cận đi theo 2 hướng chính đó là: Tiếp cận từ trên xuống (Top-down approach) và tiếp cận từ dưới lên (Boottom- up approach). Cách tiếp cận thứ nhất ngày càng bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả khi không có sự tham gia của cộng đồng và khi các chương trình thực hiện ở cấp vi mô. Cách tiếp cận thứ 2 được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh rằng sự “không thể thiếu được” vai trò của cộng đồng nông thôn trong quản lý tài nguyên cộng đồng (Robert Chambers). Từ đó “Quy hoạch trên cơ sở cộng đồng” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện. Khi nghiên cứu hệ thống canh tác năm 1990, FAO đã xuất bản cuốn "Phát triển hệ thống canh tác". Công trình đã chỉ rõ những ưu thế và hạn chế của 2 phương pháp tiếp cận trên [9]. Những kết quả phân tích hệ thống canh tác xác nhận rằng phân tích hệ thống canh tác là một công cụ của quy hoạch, lập kế hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp cấp địa phương. Trong giai đoạn này, phát triển công nghệ có sự tham gia cũng được ứng dụng rộng rãi. Phát triển công nghệ có sự tham gia (Participatory Technology Development - PTD) hay còn gọi là phát triển công nghệ cùng với người nông dân chính là sự kết hợp kiến thức và năng lực nghiên cứu của những cộng đồng địa phương và các tổ chức phát triển trong quá trình học hỏi lẫn nhau nhằm mục đích tăng cường kinh nghiệm và khả năng quản lý kỹ thuật của cộng đồng và người dân địa phương bằng chính nội lực của họ, trong đó hoạt động của người dân giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ tiến trình. Tuy nhiên, phát triển công nghệ có sự tham gia đòi
- 7 hỏi có nhiều thời gian, sự kiên nhẫn và nhiệt thành từ phía những người bên ngoài - nhà nghiên cứu và các cán bộ khuyến nông lâm. 1.1.2. Các nghiên cứu có liên quan đến phương pháp QHSDĐ cấp địa phương Cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống dần được thay thế bằng các phương pháp điều tra đánh giá cùng tham gia như phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA), đánh giá nông thôn có sự tham gia (PRA) được khởi xướng và ứng dụng đầu tiên ở Ấn Độ và được các nhà khoa học nghiên cứu, phát triển hoàn thiện dần. Phương pháp này đã chứng minh ưu thế và hiệu quả nổi trội ở các quốc gia, vùng lãnh thổ. Những thử nghiệm các phương pháp RRA vào thập kỷ 80 và PRA đầu thập kỷ 90 trong phát triển nông thôn và lập kế hoạch sử dụng đất được thực hiện trên 30 nước phát triển (Chambers, 1994) [38]. Đặc biệt phương pháp phân tích các hệ thống canh tác cho QHSDĐ vi mô được nghiên cứu rộng rãi. Một số kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu Âu, Châu Phi và Nam Mỹ đã chứng minh phân tích hệ thống canh tác là công cụ trong quy hoạch cấp địa phương. 1.1.3. Những nghiên cứu liên quan đến QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân Từ cuối thập niên 70 vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người dân được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và công bố kết quả. Các phương pháp điều tra đánh giá cùng tham gia như đánh giá nông thôn, nông thôn tham gia đánh giá (PRA), phương pháp phân tích các hệ thống canh tác cho QHSDĐ được nghiên cứu rộng rãi. Một trong những nghiên cứu có giá trị đó là tài liệu hội thảo giữa trường đại học Lâm nghiệp Việt Nam và trường tổng hợp kỹ thuật Dresden, vấn đề QHSDĐ có sự tham gia của người dân đã được Holm Uibrig đề cập khá đầy đủ và toàn diện. Tài liệu đã phân tích một cách đầy đủ về mối quan hệ giữa các loại hình canh tác có liên quan như: Quy hoạch rừng, vấn đề phát triển nông thôn, QHSDĐ, phân cấp hạng đất và phương pháp tiếp cận mới trong QHSDĐ Năm 1985, một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về QHSDĐ được tổ chức
- 8 FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình QHSDĐ với 4 câu hỏi: 1) Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu của quy hoạch là gì? 2) Có các phương án sử dụng đất nào đang tồn tại? 3) Phương án nào là tốt nhất? 4) Có thể vận dụng vào thực tế như thế nào? - Năm 1985, tại Hội nghị RRA ở Đại học KhonKean (Thái Lan) từ “Sự tham gia/người tham gia” được sử dụng với sự tiếp tục của RRA. Tại Hội thảo quốc tế tại Việt Nam năm 1998 về vấn đề QHSDĐ cấp làng xã đã được FAO đề cập khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia trong việc đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng xã [42]. Nội dung chủ yếu của quy trình QHSDĐ bao gồm: - Sự tham gia của người dân trong hoạt động thực thi QHSDĐ và giao đất. + Đào tạo cán bộ và chuẩn bị + Hội nghị làng và chuẩn bị - Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng và xây dựng bản đồ sử dụng đất. - Thu thập số liệu và phân tích. - QHSDĐ đai và giao đất. - Xác định đất canh tác nông nghiệp. - Sự tham gia của người dân trong hợp đồng và chuyển nhượng đất nông-lâm nghiệp. - Mở rộng quản lý sử dụng đất. - Kiểm tra và đánh giá. - Từ thời điểm năm 1987 đến năm 1988, người ta chia ra 4 loại RRA: + RRA cùng tham gia (Participatory RRA). + RRA thăm dò (Exploratory RRA). + RRA chủ đề (Topical RRA). + RRA giám sát (Monotoring RRA). Trong đó: RRA cùng tham gia là giai đoạn chuyển đổi đầu tiên sang PRA.
- 9 - Tiếp theo đó là sự tiếp nhận PRA của các tổ chức quốc tế như: Ford Foundation, SIDA. Hiện tại đã có tài liệu chuyên khảo về PRA ở mức độ quốc tế. - Đến năm 1994 đã có 2 cuộc hội thảo quốc tế về PRA tại Ấn Độ, đến nay hầu hết các nước đã và đang áp dụng PRA vào phát triển các lĩnh vực: + Quản lý tài nguyên thiên nhiên. + Nông nghiệp. + Các chương trình xã hội và xoá đói giảm nghèo. + Y tế và an toàn lương thực. PRA vẫn đang tiếp tục phát triển, dần được hoàn thiện và trở thành một phương pháp QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân. Cũng trong chương trình Hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998) - Tài liệu hội thảo về QHSDĐ cấp thôn (Land use planning at village level) của FAO [42] đã đề cập một cách chi tiết khái niệm về sự tham gia, đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất. Về cơ bản chiến lược nêu lên: - Sự tham gia của người dân trong những hoạt động thực thi QHSDĐ và giao đất: + Đào tạo cán bộ và chuẩn bị. + Hội nghị làng và chuẩn bị. - Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng, điều tra rừng và xây dựng bản đồ sử dụng đất. - Thu thập số liệu và phân tích số liệu. - QHSDĐ và giao đất. - Xác định đất canh tác nông nghiệp. - Sự tham gia của người dân trong hợp đồng (khế ước) và chuyển nhượng đất nông lâm nghiệp. - Mở rộng quản lý và sử dụng đất. - Kiểm tra và đánh giá.
- 10 Những tài liệu hướng dẫn trên là phương tiện tốt để tiến hành QHSDĐ cho cấp xã theo phương pháp cùng tham gia. Tại Hội thảo quốc tế tại Việt Nam năm 1998 về vấn đề QHSDĐ cấp làng xã đã được FAO đề cập khá chi tiết cả về mặt khái niệm lẫn sự tham gia trong việc đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất cấp làng xã [42]. Nội dung chủ yếu của quy trình QHSDĐ bao gồm: - Sự tham gia của người dân trong hoạt động thực thi QHSDĐ và giao đất. + Đào tạo cán bộ và chuẩn bị + Hội nghị làng và chuẩn bị - Điều tra ranh giới làng, khoanh vẽ đất đang sử dụng và xây dựng bản đồ sử dụng đất. - Thu thập số liệu và phân tích. - QHSDĐ đai và giao đất. - Xác định đất canh tác nông nghiệp. - Sự tham gia của người dân trong hợp đồng và chuyển nhượng đất nông-lâm nghiệp. - Mở rộng quản lý sử dụng đất. - Kiểm tra và đánh giá. 1.1.4. Quan điểm sử dụng đất bền vững Quan điểm về sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đã được nhiều tác giả ở các quốc gia khác nhau đề cập tới, các khái niệm đều cho thấy những điểm giống nhau khi nói đến quản lý sử dụng đất đai, tài nguyên rừng bền vững đều được thể hiện ở 3 vấn đề kinh tế, xã hội và môi trường. Năm 1993, nhóm công tác Quốc tế đã kiến nghị một khung đánh giá hệ thống quản lí và sử dụng đất bền vững và định nghĩa như sau: "Quản lý sử dụng đất bền vững" bao hàm các quy trình công nghệ, chính sách và hoạt động nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế xã hội với các mối quan tâm về môi trường sao cho có thể đồng thời: Duy trì nâng cao sản xuất và dịch vụ, giảm thiểu sự rủi ro cho sản xuất, bảo vệ tiềm năng của các nguồn lợi tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hoá chất lượng đất, có khả năng thực thi về kinh tế, có thể chấp nhận được về mặt xã hội.
- 11 Cùng với nguyên tắc trên, Dumanski [41] cũng đã đề xuất các chỉ tiêu để đánh giá và giám sát việc sử dụng đất bền vững. Các chỉ tiêu này bao gồm: Năng suất cây trồng, cân bằng dinh dưỡng, sự bảo toàn độ che phủ đất, chất lượng, số lượng đất, chất lượng, số lượng nước, lợi nhuận nông trại và sự áp dụng các biện pháp bảo vệ đất. Các chỉ tiêu này là cơ sở quan trọng để phân tích đánh giá các hệ thống sử dụng đất về tính bền vững, thiết lập nền móng cho chiến lược sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên đất. Một mô hình sử dụng đất tổng hợp, bền vững phải đáp ứng một số nội dung sau: - Giải quyết được nhiều vấn đề đặt ra cho mọi người ở từng bản làng, buôn sóc, ở từng địa phương, trong cả nước và trên toàn cầu. - Tổng hợp được các hiểu biết truyền thống với khoa học hiện đại, vận dụng thích hợp cho từng nơi. - Lấy các hệ thống thiên nhiên làm mẫu chuẩn, bắt chước các hành động hoà hợp với thiên nhiên. - Tạo lập ra các mô hình định canh lâu bền bằng việc xây dựng phù hợp với điều kiện sinh thái từng nơi. Để đảm bảo sử dụng đất mang tính tổng hợp bền vững cần thực hiện theo các nguyên tắc sau: + Đa dạng hoá các loại hình sản xuất, các chế độ canh tác, các loại hình sản phẩm, các dạng hình sinh thái. + Kết hợp nhiều ngành nghề: Nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thuỷ sản.... + Ngăn ngừa được những tai biến môi trường, những rủi ro và nạn ô nhiễm, suy thoái. + Sử dụng được các động thực vật hoang dã, các loài cây bản địa, các loài cây quý hiếm, đa tác dụng. + Tận dụng các nguồn tài nguyên: Đất, nước, năng lượng sinh học làm cho nó được bảo toàn, tái tạo, tự điều chỉnh và tự tái sinh. + Sử dụng được đất theo quy mô nhỏ, thâm canh hiệu quả, được quản lý, chăm sóc, bảo vệ và phục hồi đất.
- 12 1.1.5. Những kết luận rút ra từ kinh nghiệm của thế giới Từ các tài liệu nghiên cứu và kinh nghiệm QHSDĐ trên thế giới cho phép rút ra một số kết luận sau: - Hầu hết các phương pháp QHSDĐ chủ yếu tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế, chưa thực sự quan tâm đến xã hội và bảo vệ môi trường nên tính bền vững chưa cao. - Thiếu sự phối kết hợp giữa các ngành kinh tế trong việc xây dựng phương án QHSDĐ dẫn tới việc lúng túng, chồng chéo trong sử dụng đất ở địa phương. - Quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp phải dựa trên nền tảng là QHSDĐ, kết hợp quy hoạch từ trên xuống bằng các định hướng chiến lược và ưu tiên phạm vi vùng với nhu cầu của cộng đồng thông qua quy hoạch phát triển và xây dựng kế hoạch cấp thôn bản. - Hệ thống canh tác trên đất dốc, quan điểm sử dụng đất bền vững là những giải pháp quan trọng và là cơ sở cho QHSDĐ cấp vi mô. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Một số nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ Ở Việt Nam, những hiểu biết và kinh nghiệm sử dụng đất đã bắt đầu được chú ý và tổng hợp thành tài liệu từ thế kỷ 15. Lê Quý Đôn trong Vân Đài Loại Ngữ đã khuyên nông dân áp dụng luân canh với cây họ đậu để tăng năng suất lúa. Thời Pháp thuộc, những nghiên cứu về đất đai chủ yếu được tiến hành qua các nhà khoa học Pháp. Sang giai đoạn 1955 đến 1975, cả hai miền Bắc - Nam đều đã chú ý vào phân loại đất đai. Từ sau năm 1975, về nghiên cứu đánh giá đất đai gắn với mục tiêu sử dụng đạt được nhiều thành tích, nhất là từ sau năm 1980, với những công trình nghiên cứu ứng dụng phương pháp đánh giá đất do FAO đề xuất. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu phân hạng đất dựa trên cơ sở vùng địa lý thổ nhưỡng, cây trồng, tính đặc thù của địa phương, trình độ thâm canh và năng suất cây nông nghiệp. Những thành tựu nghiên cứu về đất đai trong các giai đoạn trên, là cơ sở
- 13 quan trọng góp phần vào việc bảo vệ, cải tạo, quản lý và sử dụng đất đai một cách có hiệu quả trong cả nước. Tuy nhiên, ở nước ta, vấn đề QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân mới được nghiên cứu và ứng dụng trong những năm gần đây. Về cơ sở lý luận và thực tiễn của QHSDĐ cấp vi mô thực chất đã được đề cập tới trong nhiều công trình nghiên cứu, song mức độ đề cập có khác nhau, và còn nằm tản mạn trong nhiều công trình nghiên cứu mà chưa được phân tích, đánh giá và tập hợp thành cơ sở lý luận và thực tiễn. Về vấn đề này đáng chú ý là công trình sử dụng đất tổng hợp và bền vững của Nguyễn Xuân Quát (1996) - Công trình đã nêu lên [21]: - Những điều cần biết về đất đai. - Tình hình sử dụng đất đai ở Việt Nam, thế nào là sử dụng đất tổng hợp và bền vững. - Các mô hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững. - Mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng. - Cây trồng trong mô hình sử dụng đất tổng hợp và bền vững. Nguyễn Ngọc Bình (1996), trong công trình - Đất rừng Việt Nam đã trình bày [1]: - Quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng. - Những đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam. Bùi Quang Toản (1996), trong công trình - QHSDĐ nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền núi nước ta, đã phân tích mở rộng đất nông nghiệp vùng đồi trung du [29]. Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997), trong chương trình tập huấn dự án hỗ trợ LNXH của ĐHLN về - Khái niệm về hệ thống sử dụng đất (Phần các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bền vững) - Các tác giả đã nêu lên những vấn đề cơ bản về hệ thống sử dụng đất bền vững [12]: - Quan điểm về tính bền vững. - Khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững. - Hệ thống sử dụng đất bền vững.
- 14 - Kỹ thuật sử dụng đất bền vững. - Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất. Vấn đề sử dụng đất đai gắn với việc bảo vệ độ phì nhiêu đất và môi trường ở vùng đồi trung du miền Bắc Việt Nam, Lê Vĩ (1996) đã nêu lên [33]: - Tiềm năng đất vùng trung du. - Hiện trạng sử dụng đất trung du. - Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững. Quan điểm về vấn đề hệ thống và hệ thống sử dụng đất được đề cập trong chương trình tập huấn dự án hỗ trợ LNXH, trường ĐHLN, các tác giả Hà Quang Khải, Đặng Văn Phụ (1997), dựa trên quan điểm về hệ thống sử dụng đất của FAO đã đề cập tới [12]: - Lược sử về sử dụng đất. - Tình hình sử dụng đất ở nước ta hiện nay. - Khái niệm về hệ thống sử dụng đất. - Những đặc điểm của hệ thống sử dụng đất. - Đánh giá hệ thống sử dụng đất. - Một số hệ thống sử dụng đất và cách tiếp cận. Nghiên cứu hệ thống canh tác ở nước ta được đẩy mạnh hơn từ sau ngày thống nhất đất nước. Tổng cục Địa chính đã tiến hành tổng kiểm kê quỹ đất bốn lần vào các năm 1978, 1985, 1995, 2000. Năm 1988 Viện KH và KTNN Việt Nam đề xuất 3 hệ thống canh tác trên quan điểm nông nghiệp sinh thái là: Hệ canh tác vùng đất trũng, hệ canh tác vùng ven biển và hệ canh tác vùng đồi gò làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống cây trồng. Đào Thế Tuấn (1989), nghiên cứu hệ thống nông nghiệp đồng bằng sông Hồng đã phát hiện hàng loạt vấn đề tồn tại và nguyên nhân của nó, đề xuất các mục tiêu và giải pháp khắc phục [28].
- 15 Phạm Chí Thành, Trần Văn Diễn, Phạm Tiến Dũng, Phạm Đức Viên (1993), trên cơ sở tổng hợp các luận điểm về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước để xây dựng cuốn giáo trình Hệ thống nông nghiệp. Ngoài phần hệ thống hoá kiến thức về hệ thống nông nghiệp, các tác giả đã đề xuất hướng chiến lược phát triển, dự kiến cấu trúc và thứ bậc hệ thống nông nghiệp Việt Nam gồm các hệ phụ: Trồng trọt, chăn nuôi, chế biến, ngành nghề, quản lý, lưu thông, phân phối [25]. Công trình đã hỗ trợ đắc lực cho công tác nghiên cứu nông nghiệp trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Về hệ thống cây trồng, đầu thập kỷ 60, Đào Thế Tuấn cùng các nhà nghiên cứu của Viện KH và KTNN Việt Nam đã nghiên cứu đưa lúa xuân với các giống ngắn ngày và tập đoàn cây trồng vụ đông vào chân đất hai vụ lúa, đưa cây mầu vụ đông xuân vào chân đất một vụ lúa mùa ... đã tạo nên sự chuyển biến rõ nét về sản xuất lương thực, thực phẩm, trước hết là đồng bằng sông Hồng, sau đó là các vùng phụ cận góp phần tăng năng suất và hiệu suất sử dụng đất nông nghiệp. Đào Thế Tuấn (1977) khi nghiên cứu hệ thống cây trồng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa hệ thống cây trồng với khí hậu, đất đai, loại cây trồng, quần thể sinh vật và hệ thống canh tác [28]. Vấn đề luân canh, tăng vụ, trồng xen, trồng gối, hệ thống NLKH sẽ được trình bày ở phần sau. Ở đây xin điểm một số tác giả đã nghiên cứu vấn đề này: Bùi Huy Đáp (1977, Lê Duy Thước (1971, 1991), Lê Trọng Cúc (1971), Nguyễn Ngọc Bình (1987), Bùi Quang Toản (1991), Nguyễn Ngọc Lung (1995) Vấn đề kinh tế thị trường và QHSDĐ cấp vi mô trong nền kinh tế thị trường đã được đề cập trong công trình - Phát triển và quản lý trang trại trong kinh tế thị trường của Lê Trọng (1993) - Tác giả đã đề cập tới [31]: - Khái niệm về thị trường và kinh tế thị trường. - Tính tất yếu của sự phát triển trang trại trong kinh tế thị trường. - Những vấn đề cơ bản về quản lý trang trại trong kinh tế thị trường.
- 16 - Thực trạng về phát triển trang trại ở nước ta hiện nay và một số bài học về quản lý trang trại trong kinh tế thị trường. Về định hướng QHSDĐ cả nước, Chính phủ đã có Nghị định số 68/2001/NĐ/CP, ngày 1/10/2001 về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Chính phủ giao Tổng cục địa chính chủ trì, phối hợp với các bộ ngành có liên quan lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai của cả nước, làm căn cứ để các ngành và địa phương triển khai thống nhất công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai. Để làm cơ sở cho chiến lược sử dụng đất đai hợp lý và có hiệu quả theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền, Nguyễn Huy Phồn (1977), trong luận án phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp đã tiến hành đánh giá các loại hình đất chủ yếu trong nông - lâm nghiệp góp phần định hướng sử dụng đất vùng trung tâm của miền núi Bắc bộ Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá một cách tương đối có hệ thống về đất đai và hiện trạng sử dụng đất nông - lâm nghiệp vùng trung tâm miền núi Bắc bộ, tác giả đã xây dựng bản đồ thích nghi sử dụng đất tỷ lệ 1/250.000, đối với một số loại hình sử dụng đất bền vững phục vụ các mục tiêu kinh tế và môi trường cho toàn vùng [19]. Vấn đề hệ thống chính sách và những quy định về quản lý và sử dụng đất đai, cũng như hệ thống quản lý sử dụng đất các cấp, được đề cập khá đầy đủ và chi tiết trong: Tóm tắt báo cáo khảo sát đợt 1 về LNXH nhóm luật và chính sách (1998) của Trường ĐHLN [65]. Tài liệu tập huấn về: Những quy định và chính sách quản lý sử dụng đất của Trần Thanh Bình (1997) [2], các chính sách có liên quan đến phát triển kinh tế trang trại (1997) [7]. Về phương pháp tiếp cận nông thôn mới (phương pháp có sự tham gia của người dân) đã được đề cập trong chương trình tập huấn dự án hỗ trợ LNXH của trường ĐHLN: Lý Văn Trọng, Nguyễn Bá Ngãi, Nguyễn Nghĩa Biên và Trần Ngọc Bình (1997) - Trên cơ sở phương pháp tiếp cận mới quốc tế được sự hỗ trợ của dự án hỗ trợ LNXH, các tác giả đã phối hợp với các chuyên gia trong nước và quốc tế biên soạn tập tài liệu với những chủ đề chính [32]:
- 17 - Các khái niệm và phương pháp tiếp cận trong quá trình tham gia. - Các phương pháp, công cụ đánh giá nông thôn có người dân tham gia. - Tổ chức quá trình đánh giá nông thôn. - Thực hành tổng hợp. Phương pháp QHSDĐ cấp vi mô có sự tham gia của người dân được đề cập trong công trình QHSDĐ Lâm nghiệp và GĐLN có sự tham gia của người dân - Đoàn Diễm (1997). Tác giả đã nêu lên một số vấn đề cơ bản [6]: - Phương pháp QHSDĐ và GĐLN ở Việt Nam. - Phương pháp QHSDĐ và GĐLN của dự án GCP/VIE/024/ITA. - Những tồn tại của QHSDĐ và GĐLN của Việt Nam và quốc tế. - Kiến nghị phương pháp đơn giản về QHSDĐ và GĐLN có sự tham gia của người dân. Tài liệu tập huấn về QHSDĐ và giao đất có sự tham gia của người dân - Trần Hữu Viên (1997) - Trên cơ sở kết hợp giữa phương pháp QHSDĐ trong nước và phương pháp QHSDĐ của một số dự án quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam, và tài liệu có liên quan, tác giả đã nêu lên [35]: - Khái niệm về QHSDĐ. - Nguyên tắc chỉ đạo QHSDĐ và giao đất có người dân tham gia. - QHSDĐ và giao đất có sự tham gia của người dân. Những tài liệu trên là cơ sở quan trọng để tiến hành QHSDĐ và giao đất theo phương pháp cùng tham gia ở nước ta. 1.2.2. Một số nghiên cứu về việc vận dụng phương pháp QHSDĐ vào thực tiễn ở Việt Nam Chương trình phát triển Nông thôn miền núi Việt Nam - Thụy Điển giai đoạn 1996 - 2001 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang và Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm công tác quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở kế hoạch phát triển cấp thôn bản và hộ gia đình. Phương pháp QHSDĐ
- 18 trong giai đoạn này đã căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất với cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn. Năm 1996, tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp QHSDĐ có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: - Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân địa phương; - Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực hiện có tại địa phương; - Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; - Đảm bảo phát triển bền vững; - Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; - Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng. Khi thử nghiệm phương pháp này cho các tỉnh Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sa Đéc tác giả đã cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của Nhà nước và nhu cầu nghĩa vụ của nhân dân. Trong 2 năm 1996 và 1997, trong quá trình triển khai dự án quản lý nguồn nước hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh. Tác giả thử nghiệm phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người dân để quy hoạch lâm - nông nghiệp cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ, phương pháp PRA được sử dụng để quy hoạch lâm - nông nghiệp và xây dựng dự án cấp xã, thôn cho 5 lĩnh vực: Quy hoạch lâm nghiệp, cây ăn quả cho quản lý rừng phòng hộ, quy hoạch trồng trọt, quy hoạch chăn nuôi và đồng cỏ, kế hoạch phát triển thuỷ lợi lập kế hoạch mạng lưới tín dụng thôn bản hỗ trợ của dự án xã. Sau 3 năm thực hiện cho thấy bản quy hoạch phù hợp với tình hình hiện tại là cơ sở vững chắc cho lập kế hoạch tác nghiệp hàng năm. Tuy nhiên những hạn chế do
- 19 thiếu nghiên cứu về đất, phân tích hệ thống canh tác dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa hợp lý. Kinh nghiệm này đang được đúc rút kinh nghiệm cho những năm tiếp theo của dự án triển khai trên 4 xã mới. Năm 1996, trên cơ sở tổng kết các kinh nghiệm nhiều nơi Cục Kiểm lâm cho ra tài liệu hướng dẫn “Nội dung, biện pháp và trình tự tiến hành giao đất lâm nghiệp trên địa bàn xã’’. Đây là tài liệu sửa đổi lần thứ 2 có nhiều bổ sung vào tài liệu năm 1994, nó đáp ứng phần nào về những hướng dẫn cơ bản về nội dung và nguyên tắc. Những yêu cầu về chuyên môn và phương pháp trong hướng dẫn này còn mang nhiều phương pháp điều tra truyền thống, phù hợp với điều tra rừng trước đây. Từ những kết quả nghiên cứu “Đề tài’’ của Nguyễn Bá Ngãi cùng với nhóm tư vấn của dự án khu vực Lâm nghiệp Việt nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch lâm - nông nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiền Dự án lâm - nông nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá; Gia lai; Phú Yên và Quảng Trị. Kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng phương pháp này là: - Việc tiến hành quy hoạch phải dựa trên kết quả đánh giá và điều tra nguồn lực một cách chi tiết và đầy đủ. - Tiến hành QHSDĐ là cơ sở quan trọng cho QHSDĐ lâm - nông nghiêp. - Tiến hành phân tích hệ thống canh tác làm cơ sở cho việc lựa chọn cây trồng và phương thức sử dụng đất. - Quy hoạch lâm - nông nghiệp cấp xã phải được tiến hành từ lập kế hoạch cấp thôn bản bằng phương pháp có sự tham gia trực tiếp của người dân. - Tổng hợp và cân đối kế hoạch cho phạm vi cấp xã trên cơ sở: Định hướng phát triển chiến lược của cấp huyện, cấp tỉnh. Khả năng hỗ trợ từ bên ngoài; đối thoại và thống nhất trực tiếp giữa đại diện các cộng đồng với nhau và giữa cộng đồng với cán bộ của tỉnh, huyện và dự án. - Có sự nhất trí chung của toàn xã thông qua các cuộc họp cộng đồng cấp thôn hoặc xóm…
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn