intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:79

39
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm đánh giá hiện trạng của các hoạt động bảo tồn tại KBT. Xác định được những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc triển khai các chương trình giáo dục bảo tồn. Đề xuất một số chương trình giáo dục bảo tồn phù hợp. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------- NÔNG DIỆU HUẾ NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC BẢO TỒN TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH LOÀI VƯỢN CAO VÍT HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nô ̣i, 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------- NÔNG DIỆU HUẾ NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC BẢO TỒN TẠI KHU BẢO TỒN LOÀI VÀ SINH CẢNH LOÀI VƯỢN CAO VÍT HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG Chuyên ngành: Quản lý bảo vệ tài nguyên rừng Mã số: 60.62.68 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. ĐỒNG THANH HẢI Hà Nô ̣i, 2012
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Khu bảo tồn Loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít (VCV) thuộc huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là phần nằm ở phía tây bắc của dãy núi đá vôi khu vực Đông Bắc của Việt Nam, tiếp giáp với huyện Trịnh Tây, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Mặc dù KBT đã được thành lập và nhiều hoạt động Bảo tồn được triển khai tại đây tuy nhiên, quần thể VCV đã và đang chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động của người dân sống tại đây. Cụ thể như: lấy củi, lấy gỗ sửa nhà, sửa guồng nước, chăn thả gia súc…những hoạt động trên đã tác động không nhỏ tới sinh cảnh sống của loài Vượn Cao Vít và ảnh hưởng tới việc phục hồi quần thể loài trong tương lai. Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này là thiếu chương trình giáo dục bảo tồn dài hạn, các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc điều tra cơ bản về tình hành dân sinh kinh tế, nhu cầu sử dụng tài nguyên, sinh thái dinh dưỡng và sinh cảnh sống của Vượn…. Được tiến hành bởi tổ chức Bảo vệ Động, Thực vật hoang dã quốc tế (FFI) và một số tổ chức khác. Như vậy, việc tiến hành xác định nhu cầu bảo tồn của người dân thuộc các xã nói trên làm cơ sở cho việc thiết kế và tiến hành các chương trình giáo dục bảo tồn là nhu cầu cấp thiết đối với sự thành công của công tác bảo tồn Vượn Cao Vít tại Trùng Khánh trong thời gian dài. Vì những lý do trên tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng”. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho việc đề xuất các chương trình giáo dục bảo tồn cho người dân sống tại khu vực trong tương lai.
  4. 2 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Các khái niệm Khái niệm giáo dục môi trường chính thức được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1972, tại Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường Nhân văn được tổ chức ở Stockholm (Thụy Điển) (Matarasso, 2004). Từ đó cho đến nay có rất nhiều định nghĩa và khái niệm liên quan đến cụm từ này, dưới đây là một số định nghĩa được sử dụng rộng rãi. 1.1.1. Giáo dục môi trường - “Giáo dục môi trường là quá trình nhận ra các giá trị và làm rõ khái niệm để xây dựng những kỹ năng và thái độ cần thiết, giúp hiểu biết và đánh giá đúng mối tương quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường vật lý xung quanh, giáo dục môi trường cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để ra quyết định và tự hình thành quy tắc ứng xử trước những vấn đề liên quan đến chất lượng môi trường” (IUCN, 1970). - “Giáo dục môi trường là một quá trình phát triển những tình huống dạy/học hiệu quả giúp người dạy và học tham gia giải quyết những vấn đề môi trường liên quan, đồng thời tìm ra một lối sống có trách nhiệm và được thông tin đầy đủ” (Wigley, 2000). Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về giáo dục môi trường, tất cả đều có một số đặc điểm cơ bản sau: + GDMT là một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian, ở nhiều địa điểm khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng những phương thức khác nhau. + GDMT nhằm thay đổi hành vi
  5. 3 + Môi trường học tập là chính môi trường và những vấn đề có trong thực tế. + GDMT liên quan đến việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về cách sống. + Trong GDMT, việc học phải tập trung vào người học và lấy hành động làm cơ sở. 1.1.2. Cộng đồng Cộng đồng nói chung thường được hiểu là những nhóm người, được tập hợp dưới nhiều hình thức khác nhau như theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp, theo huyết thống, theo khu vực địa lý, theo hệ thống quyền lực, theo tổ chức đoàn thể, theo sở thích,… (Matarasso, 2004). Tuy nhiên, cộng đồng trong đề tài này được xem xét như một đơn vị cấp địa phương của một tổ chức xã hội bao gồm các cá nhân, gia đình, thể chế và các cấu trúc khác đóng góp cho cuộc sống hàng ngày của xã hội, của một nhóm người trong một khu vực địa lý xác định, có thể được biến đổi bởi quá trình vận động lịch sử (Matarasso, 2004). Cho đến nay, còn nhiều ý kiến về sự khác nhau giữa giáo dục bảo tồn (GDBT) và giáo dục môi trường (GDMT). Nhiều người cho rằng, GDBT và GDMT là 2 khái niệm tương đồng với nhau, có thể thay khái niệm GDBT bằng GDMT và ngược lại. Trong khuôn khổ đề tài, khái niệm GDBT được dùng để chỉ các hoạt động GDMT có sự tham gia của cộng đồng dân địa phương nhằm thay đổi hành vi, hướng tới mục tiêu bảo tồn (Matarasso và cộng sự, 2004). Tuy vậy, một chương trình GDBT không chỉ dừng lại ở các hoạt động giáo dục như: tập huấn nâng cao kỹ năng mà còn có thể là các chương trình truyền thông nhằm cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức,… hoặc các chương trình vận động chính sách nhằm xóa bỏ những trở ngại về
  6. 4 mặt chính sách đối với việc thực hiện các hành vi bảo tồn (cả hành vi tích cực hiện tại và các hành vi bảo tồn mới). Một chương trình GDBT cần làm rõ đâu là các hành vi gây ra các vấn đề bảo tồn/môi trường. Nguyên nhân của các hành vi đó là gì? Do thiếu nhận thức, kiến thức, kỹ năng, không có thái độ đúng đắn, thiếu lựa chọn hay bị cản trở bởi các yếu tố kinh tế, tài chính? Xuất phát từ những quan điểm trên đây, đề tài tiến hành đánh giá nhận thức và thái độ của người dân với vấn đề bảo tồn tại địa phương, xác định những hoạt động ảnh hưởng đến tài nguyên/môi trường của người dân, tìm ra những nguyên nhân của những hành động đó, từ đó tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi của người dân khi tham gia công tác bảo tồn dựa vào cộng đồng bên cạnh những cơ hội tiếp cận, làm cơ sở xây dựng những chương trình giáo dục bảo tồn sau này. Những nội dung này của đề tài sẽ xuyên suốt quá trình tổng quan vấn đề nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của đề tài. 1.2. Bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng Để hiểu rõ hơn về bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng, chúng tôi muốn làm rõ khái niệm cộng đồng. Cộng đồng thường được hiểu là những nhóm người, được tập hợp dưới nhiều hình thức khác nhau như theo lứa tuổi, nghề nghiệp, huyết thống, hệ thống quyền lực, tổ chức đoàn thể [9], … Đối với đề tài này, cộng đồng ở đây là nhân dân địa phương; cộng đồng dân tộc Tày, Nùng, Kinh ở 3 xã Phong Nậm, Ngọc Khê, Ngọc Côn trong việc tham gia bảo tồn Vượn Cao Vít tại Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Một trong những tồn tại quan trọng dẫn đến sự kém hiệu quả trong quản lý tài nguyên nói chung và các loài nói riêng thiếu sự tham gia của người dân địa phương. Trước đây, các khu bảo tồn được xem như những "ốc đảo" hay như những cái "chai nút kín", đó là sự tách biệt một khu vực tự nhiên ra
  7. 5 khỏi thế giới loài người. Cách tiếp cận đó đã biểu hiện những thất bại do những áp bức xã hội và sinh thái, cả trong và ngoài khu bảo tồn. Thực tế cho thấy khu bảo tồn vẫn cần có một phần được bảo vệ nghiêm ngặt, được gọi là vùng lõi. Bên cạnh đó cần thúc đẩy phát triển kinh tế thân thiện với môi trường, phát triển giáo dục và bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống ở các phần xung quanh được gọi là vùng đệm và vùng chuyển tiếp, trong đó người dân địa phương đóng vai trò chủ chốt, đảm bảo cho công tác bảo tồn đạt được hiệu quả lâu dài và bền vững. Việc lôi cuốn các cộng đồng địa phương vào việc quy hoạch và quản lý các khu bảo tồn là yếu tố cực kỳ quan trọng, bởi vì họ là những người hiểu biết tường tận nhất việc sử dụng và quản lý tài nguyên thiên nhiên trong vùng. Vì vậy, họ là người quyết định cuối cùng và cần phải được tham gia vào các quá trình lập kế hoạch và thực hiện quản lý. Cộng đồng dân cư các địa phương ở các vùng rừng núi hầu như rất ít, thậm chí không quan tâm đến công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên động vật hoang dã kể cả thú linh trưởng. Lý do khiến họ chưa quan tâm một phần vì do nhận thức, phần vì kinh tế khó khăn và phần quan trọn hơn là chưa tạo được động lực thúc đẩy họ tham gia. Cho đến nay, đại đa số người dân trên mọi miền đất nước, đặc biệt là đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa chưa có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng cũng như sự cần thiết phải bảo tồn thú linh trưởng. Họ chỉ quan tâm đến việc tìm kiếm và làm thế nào khai thác nguồn tài nguyên này được nhiều nhất để phục vụ cho cuộc sống thường nhật của mình. Hơn nữa, do nền kinh tế tự cung tự cấp, an toàn lương thực chưa được đảm bảo, nên các nhà quản lý địa phương thường có thiên hướng tìm kiếm mọi giải pháp phục hồi và tăng trưởng kinh tế mà chưa quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển tài
  8. 6 nguyên thiên nhiên nói chung và thú linh trưởng nói riêng. Chính vì vậy việc ưu tiên hàng đầu trong kế hoạch của họ là đầu tư phát triển, mở mang nông, lâm trường, phá rừng lấy đất canh tác, tăng nguồn lương thực. Các hoạt động này đã dẫn đến việc thu hẹp về diện tích và suy giảm về chất lượng nơi sống của thú linh trưởng.[16] Do hạn chế về nhận thức nên các hành vi ứng xử của cộng đồng dân cư đối với tài nguyên rừng kể cả tài nguyên linh trưởng chưa tốt. Để người dân có hành vi ứng xử tốt với tài nguyên rừng nói chung và thú linh trưởng nói riêng, việc nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia của cộng đồng trong công tác quản lý tài nguyên là rất cần thiết như sự thay đổi thái độ và tập quán của cộng đồng dân cư, cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng. [16] 1.2.1. Bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng trên thế giới Theo một báo cáo của Liên đoàn Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (International Union Conservation of Natural) (IUCN) công bố ngày 5/8/2008 có 48% trong số 634 loài động vật linh trưởng trên toàn cầu đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, nguyên nhân do nạn phá rừng và săn bắn bừa bãi của con người. Bên cạnh những thông tin khá buồn trên, danh sách đỏ cũng ghi nhận một số trường hợp bảo tồn thành công, trong đó có loài đười ươi vàng và đen Brazil được phân loại từ tình trạng bị đe dọa nghiêm trọng xuống mức bị đe dọa [36]. Dự án bảo tồn dựa vào cộng đồng có mục tiêu hỗ trợ 2 nước Việt Nam và Trung Quốc xây dựng các lĩnh vực nghiên cứu liên ngành trong sử dụng bền vững và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên bao gồm đa dạng sinh học và các hệ sinh thái, thông qua việc tăng cường năng lực cho các cơ quan nghiên cứu tham gia trong dự án. Thông qua dự án này, một mạng lưới quốc tế về các vấn đề có liên quan tới quản lý bảo tồn và phát triển bền vững giữa các cơ quan
  9. 7 nghiên cứu ở 3 nước Canada, Trung Quốc và Việt Nam được thiết lập nhằm tìm kiếm các giải pháp nâng cao nhận thức có sự tham gia của cộng đồng. Nâng cao nhận thức về vai trò của cộng đồng trong công tác bảo tồn cho cán bộ địa phương thông qua các chuyến thăm quan nghiên cứu tại Canada.[37] Liên quan đến quản rừng và tài nguyên rừng cũng nói lên hình thức lâm nghiệp xã hội, vì lâm nghiệp xã hội cũng là một phần trong công tác bảo tồn dựa vào cộng đồng. Sau đây là một số mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng trên thế giới. Ở Bănglađét, vấn đề xây dựng chiến lược, thể chế với sự trợ giúp của lâm nghiệp xã hội đã nổi lên từ những năm 1967. Sự phản ứng rất hạn chế của Chính phủ về việc xác định quyền sử dụng đất và tài nguyên thiên nhiên, cái chính là không an toàn một cách phổ biến, đã làm suy yếu quản lý lâm nghiệp cộng đồng. Những vấn đề pháp lý không tìm ra được câu trả lời như quyền chiếm hữu không chắc chắn và mâu thuẫn giữa tư nhân và sở hữu công về rừng, đất rừng, quyền quản lý đất đai theo truyền thống xảy ra bởi sự kiện những người sống phụ thuộc vào tài nguyên đất, những người thiếu đất và việc dân chủ hóa là nguyên nhân chính của việc phá hoại nguồn tài nguyên rừng và mất đa dạng sinh học. Sự thiếu tin tưởng giữa người dân địa phương với cơ quan lâm nghiệp, thiếu chính sách minh bạch để thực thi quản lý xã hội và quản lý rừng có người dân tham gia cũng chính là nguyên nhân dẫn đến mất rừng.[21] Tại Srilanka, từ năm 1982 đến 1988 dự án lâm nghiệp cộng đồng do ADB tài trợ của Cục Lâm nghiệp Srilanka đã tạo ra cơ hội tiếp cận kinh nghiệm có người dân tham gia trong quản lý rừng. Năm 1995, chính phủ Srilanka đã đưa ra một kế hoạch tổng quan lâm nghiệp mới, trong đó đề ra tăng độ che phủ rừng, tăng năng suất nhằm đáp ứng các nhu cầu hiện tại và
  10. 8 tương lai, nâng cao mức sống, kinh tế của người dân địa phương cũng như toàn dân tộc. Rừng thuộc sở hữu nhà nước phải quản lý theo nguyên tắc bền vững về sinh thái. Ngày nay các chương trình đồng quản lý rừng thông qua sự tham gia của người dân đang được thực thi.[18] Tại Philipin, việc chuyển đổi lâm nghiệp cộng đồng của Philipin có thể chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là khai phá (1971 - 1980); giai đoạn thứ 2 là giai đoạn củng cố và hợp nhất (1982 - 1989) và giai đoạn thứ 3 là mở rộng và thể chế hóa. Trong giai đoạn khai phá về quản lý lâm nghiệp cộng đồng, trồng rừng và trồng cây công cộng là khuynh hướng chính của lâm nghiệp cộng đồng thông qua sự tham gia của người dân địa phương. Việc hợp nhất chương trình lâm nghiệp xã hội và lâm nghiệp cộng đồng là chương trình chủ yếu của giai đoạn thứ 1 và tăng trưởng rừng cộng đồng trong giai đoạn thứ 3. Người dân trở thành đối tác, người quản lý và người chủ của các nguồn tài nguyên rừng. Quản lý rừng trên cơ sở cộng đồng là thông qua hợp đồng thuê quyền sử dụng bằng việc tăng cường bảo vệ, quản lý, phục hồi và phát triển rừng. Các tổ chức của người dân đang làm việc trên diện tích này với quyền sử dụng an toàn trong 25 năm. Quyền 25 năm với rừng tạo ra cơ hội để bảo vệ, quản lý và bán các sản phẩm rừng ở các rừng cộng đồng của họ.[21] Ở Thái Lan, Wasi (1997) cho rằng lâm nghiệp cộng đồng là một nhân tố trợ giúp cho việc phát triển xã hội dân sự ở Thái Lan. Các cộng đồng có đòi hỏi rất lớn được tham gia vào quản lý các nguồn tài nguyên địa phương của họ do một diện tích rừng lớn đã bị mất bởi việc khai thác gỗ hợp pháp trong những thập kỷ trước đây. Vandergeets (1996) nhận thấy rằng khai thác rừng ở Thái Lan đã bị cấm từ năm 1989, Cục Lâm nghiệp Hoàng gia Thái Lan đã chuyển các mục tiêu từ quản lý khai thác gỗ sang mở rộng bảo tồn rừng. Quyền của các cộng đồng địa phương quản lý các nguồn tài nguyên của họ trở thành mục tiêu chính của nhiều tổ chức phi chính phủ và cơ quan nghiên
  11. 9 cứu. Gymour và Fisher (1997) nhận xét rằng các hoạt động quản lý rừng cộng đồng có liên quan đến việc mở rộng trồng rừng trên diện tích rừng đã mất, ở mức độ nào đó khá hơn là việc phối hợp quản lý hoặc chuyển giao việc kiểm soát cho các cộng đồng.[32] 1.2.2. Bảo tồn có sự tham gia của cộng đồng tại Việt Nam Tại khu Bảo tồn thiên nhiên Phong Điền, Chi cục Kiểm lâm Thừa Thiên Huế đã mạnh dạn xây dựng thí điểm mô hình làng sinh thái lâm nghiệp tại một số xã vùng đệm của Khu bảo tồn thiên nhiên này. Kết quả bước đầu rất đáng khích lệ đó là người dân được hưởng quyền lợi về đời sống vật chất và tinh thần, từ đó người dân đã tự giác tham gia quản lý tốt các hoạt động cua mô hình làng sinh thái. Mô hình làng sinh thái lâm nghiệp là một hướng đi tất yếu và mong muốn của các nhà quản lý cũng như từ chính cộng đồng địa phương. Tuy nhiên, để đạt được kết quả như mong muốn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, mà quan trọng nhất là sự tham gia nhiệt tình của chính cộng đồng địa phương. Việc phối hợp các tổ chức cùng đầu tư và thực hiện một cách đồng bộ trong làng sinh thái là vấn đề cần được khắc phục.[35] Theo Chương trình EC/UNDP (2007) đã thực hiện trên 23 dự án về mô hình quản lý rừng cộng đồng, kết quả nghiên cứu cho thấy mặc dù luật đã công nhận quyền được khai thác, sử dụng lâm sản và các lợi ích khác của rừng một cách lâu dài, ổn định tuy nhiên luật cũng hạn chế một số quyền với cộng đồng được giao rừng như: không được quyền phân chia lại cho thành viên, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng, cho, thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn kinh doanh bằng quyền sử dụng rừng. Song trong thực tế muốn thực hiện được quyền và nghĩa vụ của cộng đồng dân cư thôn khi được giao rừng (kèm theo đất) có hiệu quả phải tiến hành các mô hình thử nghiệm đủ lớn, đủ bao
  12. 10 quát sự khác nhau về điều kiện tự nhiên và kinh tế, xã hội, truyền thống, tập quán cho các loại cộng đồng dân cư.[34] Theo Vũ Văn Cần và nnk(2007) cho biết việc xây dựng kế hoạch quản lý, phát triển rừng phải dựa vào chính nguồn lực của cộng đồng và phải phù hợp với điều kiện tự nhiên của địa phương có như vậy người dân địa phương mới thấy kế hoạch đặt ra là vì lợi ích của cộng đồng như vậy họ mới tích cực tham gia. Cần phải có sự lồng ghép giữa các chương trình trên địa bàn và tạo nguồn thu cho quỹ phát triển rừng thôn bản.[4] Việc đánh giá tài nguyên rừng có sự tham gia của cộng đồng còn gặp nhiều khó khăn như tại thôn Nà Sắn xã Bản Sen huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh mặc dù tài liệu hướng dẫn đã cải tiến ở mức độ đơn giản, dễ áp dụng cho cộng đồng nhưng do trình độ học vấn của người dân không cao nên cần có nhiều thời gian giới thiệu lý thuyết và kết hợp thực hành ở hiện trường cho người dân đồng thời chính quyền và các cơ quan chuyên môn có sự hỗ trợ cán bộ kỹ thuật nhiều hơn cho cộng đồng. 1.3. Các nghiên cứu về Vượn cao vít trên thế giới và Việt Nam 1.3.1. Trên thế giới Vượn đen Hải Nam (Nomascus hainanus) và Vượn Cao Vít (Nomascus nasutus) trước đây được coi là một loài, đó là Vượn đen Đông Bắc. Tuy nhiên các nghiên cứu gần đây cho thấy trên thực tế chúng là hai loài riêng biệt.[17] Brandon Jones (2004) cho rằng quần thể ở đảo Hải Nam và quần thể ở Đông Bắc Việt Nam đều là phân loài của loài vượn chưa định tên N.sp. cf.nasutus là N. sp. cf.nasutus đối với loài trên đất liền và N.sp.cf.n. hainanus đối với phân loài trên đảo Hải Nam [25]. Tuy nhiên, những nghiên cứu sau này dựa trên sự khác biệt về hình thái màu lông, đặc trưng tiếng hót kết hợp với những nghiên cứu gần đây về sự khác biệt về mặt di truyền đã cho rằng
  13. 11 đây là 2 loài độc lập là N. hainanus và N. nasutus. Dựa trên các nghiên cứu trên, hiện nay các nhà khoa học đã công nhận loài vượn phân bố tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng là loài vượn Cao Vít (Nomascus nasutus) [27]. Vùng phân bố tự nhiên trước đây của Vượn đen Đông Bắc ở phía Nam tỉnh Vân Nam và đảo Hải Nam, Trung Quốc (đối với Vượn đen Hải Nam); phía Đông sông Hồng, Việt Nam (đối với Vượn Cao Vít) (Geissmann và cộng sự, 2000). [17] Hai loài này chỉ phân bố ở khu vực trên không có nơi nào trên thế giới do đó 2 loài linh trưởng này là rất hiếm và đang có nguy cơ tuyệt chủng cao. Năm 1884, Kunckel d’ Herculais đã lần đầu tiên mô tả loài Hylobates nasutus mẫu vật này sống một thời gian ngắn ở Pari và được ghi nhận là bắt giữ ở gần vịnh Hạ Long, vùng ven biển miền Đông Bắc Việt Nam. Năm 1892, Thomas mô tả một cá thể vượn đực bắt được ở đảo Hải Nam, Trung Quốc và định loại là loài mới: Hylobates hainanus. Đến năm 1893, Matschie đặt lại thành loài H.concolor là loài được mô tả lần đầu tiên bởi Harlan (1826) dựa trên một cá thể vượn sắp trưởng thành được nuôi nhốt có nguồn gốc từ đảo Borneo. Năm 1904, Pousargues xếp cả hai loài H.concolor và H.hainanus thành loài H. nasutus và kết luận mẫu vật mà Harlan(1826) mô tả không phải có xuất xứ từ Borneo. Năm 1957, Simonetta đặt lại tên thành hai phân loài H.c. concolor cho Vượn đen Bắc bộ và H.c.hainanus cho phân loài Hải Nam, sau đó danh pháp này đã được sử dụng bởi hầu hết các tác giả sau này. Trong cuốn “Khảo sát thú ở miền Bắc Việt Nam”, Đào Văn Tiến (1985) cho biết, ngày 11 tháng 6 năm 1965 đã thu được 3 tiêu bản loài Vượn đen Hải Nam (Hylobates concolor hainanus, Thomas, 1892) gồm 1 cá thể đực, 1 cái, 1 con non và ông đã nhận định: sự phân bố của vượn đen Hải Nam H. c. hainanus tới Cao Bằng cho phép nghĩ rằng vượn đen ở vùng Quảng Tây
  14. 12 (Hoa Nam) cũng thuộc dạng này. Dạng Hylobates concolor hainanus có thể là Nomascus nasutus ngày nay? Từ năm 1965 đến nay, không có bất kỳ thông tin nào về dạng hainanus này [18]. Một vài tài liệu có thông báo rằng, sự tồn tại của loài Vượn Cao vít có thể ở Vĩnh Phúc (Tam Đảo), Bắc Kạn (Na Rì), Cao Bằng (Trùng Khánh). Ở Trung Quốc trước những năm 1940 Vượn đen Hải Nam vẫn còn tìm thấy ở một số địa điểm thuộc phía Bắc tỉnh Quảng Đông và phía Tây Nam của tỉnh Quảng Tây và được coi là tuyệt chủng vào những năm 1950 [17]. Tháng 9 năm 2007 ghi nhận được 6 nhóm với 19 cá thể (Fan Pengfei, Yanlu, 2007) [33]. 1.3.2. Ở Việt Nam Ở Việt Nam, trước năm 1983 Vượn đen Đông Bắc được ghi nhận tại các tỉnh phía đông sông Hồng, các mẫu đã thu được định loại chắc chắn lưu giữ ở bảo tàng và được thu thập ở Tam Đảo, Na Rì - Bắc Kạn, Trùng Khánh - Cao Bằng. Các vùng khác thuộc các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh nằm trong khu vực phân bố giả định của loài. [17] Theo Lê Hiền Hào (1973) thu được 3 cá thể (1 đực lớn, 1 con non bộ lông mầu đen bám bụng mẹ, 1 con cái) [12] Theo Phạm Nhật (2002) ghi nhận được loài có mặt ở Kim Hỷ, huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn, Võ Nhai (Thái Nguyên) và đã bị tiêu diệt ở Cẩm Phả (Quảng Ninh), Tam Đảo (Vĩnh Phúc) [16] Các cuộc khảo sát nghiên cứu tiến hành tại các xã Phong Nậm, Ngọc Khê, Ngọc Côn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng từ năm 2002 trở về đây. Tháng 1 năm 2002 Vượn Cao Vít được ghi nhận tại khu rừng 3 xã Phong Nậm, Ngọc Khê, Ngọc Côn huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng có 2
  15. 13 đàn khoảng 8 cá thể, kết quả phỏng vấn có thể có 16 - 20 cá thể [29]. (Lã Quang Trung, Trịnh Đình Hoàng). Tháng 4 năm 2002 ghi nhận trực tiếp được 3 đàn với 17 cá thể (Lã Quang Trung, Trịnh Đình Hoàng, 4/ 2002) [29]. Tháng 8 năm 2002 Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (FFI) đã phát hiện một quần thể vượn Cao Vít có 5 đàn với khoảng 26 cá thể tại khu vực rừng trên núi đá vôi thuộc các xã Phong Nậm, Ngọc Khê, Ngọc Côn tận cùng phía bắc của huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng, Đông Bắc Việt Nam, giáp với tỉnh biên giới Quảng Tây, Trung Quốc (Geissmann et all, 8/2002 ) [28]. Tháng 11 năm 2005 ghi nhận được 8 đàn với khoảng 40 cá thể (Vũ Ngọc Thành et all, 2005) [19] . Mặc dù đã có khá nhiều các cuộc khảo sát về vượn đã được tiến hành nghiên cứu tại khu vực rừng Phong Nậm, Ngọc Khê, Ngọc Côn song hầu như chưa có một cuộc tổng khảo sát điều tra số lượng của quần thể thực sự nào được tiến hành kể từ khi tái phát hiện ra quần thể này năm 2002. Tháng 4 năm 2007, Lê Trọng Đạt thực hiện nhiệm vụ chuẩn bị cho đợt tổng khảo sát tiến hành vào tháng 9. Công tác này bao gồm tập huấn cho đội ngũ nhân viên của khu bảo tồn và nhóm tuần tra để tiến hành tổng khảo sát. Phần lớn những người này đã từng tham gia trong các cuộc khảo sát vượn trước đây. Các điểm nghe đã được thiết lập và đánh dấu bằng sơn trên hiện trường và dùng máy định vị ghi lại toạ độ để sử dụng cho các khảo sát về vượn trong tương lai. Trong thời gian 5 ngày khảo sát thực địa, đã ghi nhận được có từ 7 - 8 đàn với khoảng 22 – 30 cá thể vượn. Số lượng đàn cao nhất đã được xác nhận là 8 đàn cho thấy thực tế có thể có nhiều đàn hơn các ước lượng trước đây bởi vì một số thung lũng bên cạnh khác đã ghi nhận có vượn
  16. 14 từ các khảo sát trước đó chưa được điều tra lại ở lần khảo sát này (Lê Trọng Đạt, 2007) [11]. Gần đây nhất, nhằm xác định chính xác các thông tin về kích thước số lượng toàn bộ quần thể của loài vượn cực kỳ nguy cấp này, FFI Việt Nam và FFI Trung Quốc tiến hành cuộc tổng khảo sát liên biên giới tổ chức vào tháng 9 năm 2007. Trong đó phía Việt Nam đã thực hiện điều tra từ ngày 7 đến ngày 19. Qua đợt tổng điều tra này đã ghi nhận có 15 nhóm có khoảng 85 (90) cá thể ghi nhận được cả tiếng hót và quan sát hình thái. Phía Trung Quốc đã ghi nhận được 6 nhóm với 19 cá thể. Vậy qua đợt tổng khảo sát đã có 110 cá thể. [30] Ngoài ra có hai nghiên cứu về sinh học và sinh thái Vượn Cao Vít đó là : Nguyễn Thị Hiền thuộc khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên đã làm luận văn thạc sĩ khoa học nghiên cứu về sinh thái dinh dưỡng và sinh cảnh sống của vượn Cao Vít ở khu bảo tồn loài vượn Cao Vít huyện Trùng Khánh. [13] và Lưu Tường Bách là học viên cao học khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên cũng làm luận văn thạc sĩ khoa học về nghiên cứu thú linh trưởng và một số đặc điểm sinh thái của loài vượn đen Cao Vít. [3] Về tình trạng bảo tồn Vượn Cao Vít: Theo Nghị định số 32/2006/NĐ-CP Vượn Cao Vít có tên trong phụ lục IB Sách Đỏ thế giới (IUCN, 2006): xếp Vượn Cao Vít ở mức cực kỳ nguy cấp (CR) Sách Đỏ Việt Nam (2000): [1] xếp Vượn Cao Vít ở mức nguy cấp mức (E)
  17. 15 1.4. Các dự án bảo tồn Vượn cao vít Từ khi phát hiện quần thể Vượn Cao Vít vào năm 2002 tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng đã ra quyết định thành lập số 2536/QĐ - UBND ngày 15 tháng 11 năm 2006 về việc thành lập khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng và thực hiện các dự án nhỏ trong dự án này. 1.4.1. Dự án phát triển nông thôn Trong 5 năm trở lại đây nằm trong các chương trình của Chính phủ dành cho các xã vùng biên giới, ba xã Ngọc Khê, Ngọc Côn và Phong Nậm đã có các dự án như mở rộng hệ thống đường xá, làm kênh mương cung cấp nước phục vụ sản xuất, cải thiện hoạt động chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp... Tổ chức EU đã có 1 dự án (2001 - 2003) xây dựng mô hình lúa, ngô lai và các mô hình chăn nuôi, tập huấn IPM cho 10 xóm của xã Ngọc Khê. Trong những năm gần đây, với sự hỗ trợ của Tổ chức Bảo tồn Động Thực vật hoang dã Quốc tế (FFI), một số hoạt động như xây bếp cải tiến, xây hầm khí sinh học Biogas đã được triển khai, vừa giúp đỡ nhân dân tiết kiệm nhiên liệu, công sức vừa bảo tồn tài nguyên rừng. [2] 1.4.2. Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng Xây dựng mốc ranh giới: Nhằm chính thức thông báo việc thành lập khu Bảo tồn Vượn Cao Vít. Thiết lập ranh giới Khu bảo tồn và vùng đệm một cách rõ ràng. Xây dựng các bảng ghi quy chế quản lý của Khu bảo tồn. Ban quản lý khu bảo tồn Vượn Cao Vít sau khi được Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng thành lập đã tiến hành hàng loạt các hoạt động như Hội nghị ranh giới và xây dựng cột mốc ranh giới phối hợp với cộng đồng địa phương có liên quan.
  18. 16 Xây dựng các bảng quy chế: Các bảng được xây dựng để chuyển tải Quy chế quản lý của Khu bảo tồn tại các địa điểm như trụ sở Ban quản lý, các trạm bảo vệ, trung tâm các xã và xóm trong vùng đệm, và ở những nơi đường mòn đi vào Khu bảo tồn. Các trạm bảo vệ rừng nhằm cung cấp nơi làm việc và nơi ở cho cán bộ bảo vệ rừng, những người thi hành các quy chế, quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng đồng thời thực hiện các đợt tuần tra, giám sát trong khu bảo tồn. [2] 1.4.3. Chương trình bảo và bảo vệ Với mục đích bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên của Khu bảo tồn; chương trình này sẽ do các trạm bảo vệ rừng của Khu bảo tồn thực hiện nhằm: Bảo vệ các nguồn tài nguyên rừng của Khu bảo tồn, đặc biệt là vượn Cao Vít và môi trường sống của chúng. Huy động sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động bảo tồn. Thu thập và ghi nhận các vụ vi phạm Quy chế quản lý Khu bảo tồn, và những ghi nhận thực địa về các loài động vật hoang dã. [2] 1.4.4. Chương trình nghiên cứu khoa học và giám sát Chương trình này đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quần thể Vượn Cao Vít và môi trường sống của chúng được bảo vệ tốt và nhằm thiết lập các cơ sở khoa học cho công tác phục hồi sinh thái, sinh cảnh của loài vượn đáp ứng các nhu cầu sinh thái của loài vượn này. Giám sát một cách có hệ thống quần thể và sinh cảnh của vượn nhằm đảm bảo tiếp tục cải thiện các điều kiện sống cho loài này. Tăng cường hiểu biết về sinh thái của loài vượn Cao Vít để xây dựng các kế hoạch quản lý bảo tồn đáp ứng các nhu cầu sinh thái của loài vượn này.
  19. 17 Nâng cao hiểu biết về hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi để hỗ trợ cho việc xây dựng kế hoạch quản lý và bảo vệ các loài và sinh cảnh quan trọng khác. Tăng cường kiến thức và năng lực cho cán bộ kỹ thuật trong lĩnh vực lâm nghiệp, sinh học và quản lý tài nguyên thiên nhiên. [2] 1.4.5. Chương trình truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng Chương trình này được xây dựng nhằm tăng cường sự hỗ trợ của cộng đồng địa phương cho các mục tiêu của Khu bảo tồn. Đây là chương trình rất quan trọng liên quan mật thiết tới luận văn này vì đây là chương trình hỗ trợ người dân địa phương nâng cao nhận thức cộng đồng, để người dân hiểu và bảo tồn vượn Cao Vít được tốt hơn. Chương trình này nhằm. Tạo ra mối liên kết và phối hợp chặt chẽ giữa cộng đồng và trong vùng đệm và Khu bảo tồn. Xác định các mối xung đột giữa các hoạt động trong vùng đệm và các mục tiêu bảo tồn trong Khu bảo tồn và xác định các giải pháp. Huy động sự tham gia của cộng đồng địa phương trong công tác bảo tồn và khuyến khích sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên của Khu Bảo tồn Vượn Cao Vít. Nâng cao nhận thức của cộng đồng về tầm quan trọng của Khu bảo tồn đối với công tác bảo vệ môi trường. Chương trình nâng cao nhận thức nên được thực hiện thông qua các kênh truyền thông và hợp tác hiện có với các đối tác như: Ủy ban nhân dân xã, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hạt Kiểm lâm và Phòng Văn hóa Thông tin của huyện Trùng Khánh.[2]
  20. 18 CHƯƠNG 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Nâng cao nhận thức của người dân nhằm góp phần bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và loài Vượn Cao Vít nói riêng. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Đánh giá hiện trạng của các hoạt động bảo tồn tại KBT. - Xác định được những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong việc triển khai các chương trình giáo dục bảo tồn. - Đề xuất một số chương trình giáo dục bảo tồn phù hợp. 2.2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu - Cộng đồng cư dân sống trong vùng đệm Khu bảo tồn. - Học sinh khối tiểu học và Trung học cơ sở (THCS). - Ban quản lý Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Vượn Cao vít. 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại khu vực Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Vượn Cao Vít, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng bao gồm : - Hai trường tiểu học: Trường An Hỷ xã Ngọc Khê và trường Ngọc Côn xã Ngọc Côn. - Hai trường THCS: Trường Phong Nậm xã Phong Nậm và trường Ngọc Khê xã Ngọc Khê.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
12=>0