intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất giải pháp góp phần bảo tồn và phát triển cây lâm sản ngoài gỗ tại Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hoà Bình

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:93

29
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Nghiên cứu đề xuất giải pháp góp phần bảo tồn và phát triển cây lâm sản ngoài gỗ tại Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hoà Bình" nhằm đánh giá hiện trạng và tiềm năng phát triển cây LSNG trong khu vực để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn và đóng góp vào việc phát triển kinh tế – xã hội tại đại bàn nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất giải pháp góp phần bảo tồn và phát triển cây lâm sản ngoài gỗ tại Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hoà Bình

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ----------------------------------------------- NGUYỄN ANH ĐỨC NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CÂY LÂM SẢN NGOÀI GỖ TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NGỌC SƠN – NGỔ LUÔNG, TỈNH HOÀ BÌNH Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS . TRẦN VIỆT HÀ HÀ NỘI – 2012
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------------------------- NGUYỄN ANH ĐỨC NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP GÓP PHẦN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CÂY LÂM SẢN NGOÀI GỖ TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NGỌC SƠN – NGỔ LUÔNG, TỈNH HOÀ BÌNH LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP HÀ NỘI – 2012
  3. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Ở Việt Nam hiện nay, lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là nguồn cung cấp các sản phẩm hàng ngày cho cộng đồng dân cư sống gần rừng, đem lại những khoản thu nhập không nhỏ góp phần vào công cuộc xoá đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc miền núi. Là mô ̣t nước nhiê ̣t đới nên tài nguyên LSNG của nước ta rất phong phú và đa dạng, đang còn tiềm ẩn những giá trị cao về đa da ̣ng sinh ho ̣c cũng như phát triển kinh tế - xã hô ̣i. Thực tế cho thấ y tài nguyên LSNG ở Viê ̣t Nam đang ngày càng bị cạn kiệt, do các hoạt động khai thác và sử dụng không bền vững của con người. Để ngăn chặn tình trạng này, Chính phủ đã thực hiện nhiều dự án và chương trình bảo vệ và phát triển rừng như chương trình 327, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, vv. Tuy nhiên trên thực tế việc khai thác và buôn bán các loại LSNG chưa được quản lý một cách chặt trẽ, thiếu sự điều tiết và hướng dẫn cụ thể bởi các cơ quan chức năng, chính quyề n các địa phương rất ít hoặc không quan tâm đến việc bảo tồn và phát triển LSNG. Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông được thành lập từ năm 2004, có có mục tiêu chính là bảo tồn và phục hồi hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi phục vụ nghiên cứu khoa học, du lịch sinh thái và góp phần phát triển kinh tế xã hội trong vùng. Từ khi thành lâ ̣p khu bảo tồn thiên nhiên việc bảo vệ, duy trì và phát triển tài nguyên rừng nói chung và tài nguyên về LSNG nói riêng đã có nhiều cải thiện. Tuy nhiên, do mới đươ ̣c thành lâ ̣p nên viê ̣c ổ n đinh ̣ kinh tế – xã hô ̣i song song với các hoa ̣t đô ̣ng bảo tồ n đang là vấ n đề lớn cầ n giải đáp. Để góp phầ n phần xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững trên điạ bàn Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông thì viê ̣c thực hiê ̣n đề tài “Nghiên cứu đề xuất giải pháp góp phần bảo tồn và phát triển cây LSNG tại Khu bản tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hòa Bình” là cầ n thiế t, nhằ m đánh giá hiện trạng và tiề m năng phát triể n cây LSNG trong khu vực để đề xuấ t giải pháp nâng cao hiê ̣u quả bảo tồ n và đóng góp vào viê ̣c phát triể n kinh tế – xã hô ̣i ta ̣i điạ bàn nghiên cứu.
  4. 2 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan về lâm sản ngoài gỗ và thực vật cho lâm sản ngoài gỗ 1.1.1. Một số thuật ngữ sử dụng để chỉ LSNG Chương trình nghị sự 21 và các nguyên tắc về rừng đã được chấp nhận ở Hội nghị Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCED), họp tại Rio de Janero năm 1992, đã xác định lâm sản ngoài gỗ (LSNG) là một đối tượng quan trọng, một nguồn lợi môi trường cho phát triển lâm nghiệp bền vững, cần được chú ý nhiều hơn nữa. Mặc dù vậy thuật ngữ LSNG mới xuất hiện trong khoảng hơn mười năm trở lại đây. Ở nước ta thuật ngữ LSNG vẫn chưa được đưa vào cả trong từ điển tiếng Việt lẫn thuật ngữ lâm nghiệp để sử dụng thống nhất, đồng thời để giúp mọi người có quan niệm đúng đắn về LSNG. Trên thực tế tồn tại một số thuật ngữ được sử dụng để chỉ các lâm sản khác không phải là gỗ như: Lâm sản phụ; Lâm sản khác; Đặc sản rừng; Các lợi ích phi gỗ của rừng; Tài sản phi gỗ và các dịch vụ. Thuật ngữ lâm sản phụ được sử dụng trong một thời gian dài ở nhiều nước trên thế giới, và người ta cho rằng gỗ là lâm sản chính. Nhưng ở nhiều nước, lâm sản gỗ lại ít quan trọng hơn so với lâm sản khác của rừng, như keo dán và nhựa mủ. Thuật ngữ này dựa vào tầm quan trọng của sản phẩm nên có khuynh hướng không ổn định. Bởi vì, một số sản phẩm có thể thứ yếu trong điều kiện này, nhưng lại quan trọng trong điều kiện khác, do đó thuật ngữ lâm sản phụ không thể phù hợp để sử dụng một cách thống nhất. Thuật ngữ lâm sản khác không thể ổn định và phù hợp. Bởi vì các lâm sản chính thay đổi tuỳ theo điều kiện, làm cho thành phần của những lâm sản khác sẽ không như nhau. Thuật ngữ đặc sản rừng Cũng không rõ ràng về phạm vi và ranh giới vì nó phản ánh những sản phẩm đặc biệt và có thể thay đổi tuỳ theo tình hình. Hơn nữa, nó không đề cập đến sự loại trừ những sản phẩm gỗ. Với sự bao quát chung, thuật ngữ các lợi ích phi gỗ của rừng bao gồm cả những lợi ích có thể hoặc không thể trở thành hàng hoá, Cũng như những lợi ích có
  5. 3 thể đo được hoặc không thể đo được. Vì vậy, nó chưa phải là một định nghĩa phù hợp về phạm vi và sự lượng hoá các lợi ích. Ngoài ra, những lợi ích hay giá trị của rừng như giá trị giữ nước, bảo vệ môi trường, giá trị tinh thần,v.v không thể xếp vào gỗ hay phi gỗ. Chúng được tạo ra bởi toàn bộ hệ sinh thái rừng, chứ không chỉ bởi gỗ hay phi gỗ. Trong thuật ngữ tài sản phi gỗ và các dịch vụ, từ "dịch vụ" thường được hiểu là gồm những ảnh hưởng đến môi trường của rừng, tạo vẻ đẹp cảnh quan, giá trị về các di tích, v.v, thậm chí đóng theo nghĩa của từ này sẽ gồm cả các sản phẩm hoặc các dịch vụ được tạo ra (chẳng hạn như dịch vụ chăn thả, vui chơi, giải trí,...). Vì vậy, đây là một định nghĩa quá rộng về các sản phẩm khác gỗ của rừng. Theo chúng tôi, thuật ngữ LSNG (Non - timber forest product hoặc Non-wood forest products) là một thuật ngữ có tính khoa học bởi phạm vi, độ chính xác, và tính ổn định của nó. Thuật ngữ này có triển vọng được sử dụng thống nhất và phù hợp với các yếu tố có thể lượng hoá. Nó loại trừ được tất cả các sản phẩm và các hàng hoá đặc trưng của gỗ. Trong phạm vi của LSNG, cần tính đến các sản phẩm (từ các thực vật thân thảo và từ các bộ phận ngoài gỗ của thực vật thân gỗ) thu được bởi các quá trình chiết xuất bằng phương pháp hoá học và phương pháp chưng cất phá huỷ gỗ, chẳng hạn như sản phẩm dầu của gỗ đàn hương, dầu thắp sáng sinh học. 1.1.2. Khái niệm lâm sản ngoài gỗ De.beer (1989) đã quan niệm LSNG như là: "Tất cả các vật liệu sinh học khác gỗ mà chúng được khai thác từ rừng tự nhiên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của loài người. LSNG bao gồm: thực phẩm, thuốc, gia vị, tinh dầu, nhựa cây, keo dán, nhựa mủ, tanin, thuốc nhuộm, cây cảnh, động vật hoang dại (các sản phẩm và động vật sống), chất đốt và các nguyên liệu thô, song, mây, tre, nứa, trúc, gỗ nhỏ, và gỗ cho sợi". Theo quan niệm của De.beer, LSNG bao gồm mọi sản phẩm hữu hình (khác gỗ) có nguồn gốc sinh vật được khai thác từ rừng tự nhiên. Quan niệm của De.beer về LSNG dường như chưa đề cập đầy đủ đến các sản phẩm khác gỗ của rừng trồng, của hệ canh tác nông lâm kết hợp.
  6. 4 Tổ chức chuyên gia tư vấn về LSNG châu Á Thái Bình Dương (IEC), họp tại Băng Cốc - Thái Lan (1991) đã chấp nhận định nghĩa LSNG có thể áp dụng cho hầu hết các nước trong khu vực như sau: "LSNG bao hàm tất cả các sản phẩm tái tạo và hữu hình, không phải là gỗ xẻ, gỗ nhiên liệu và gỗ củi, thu được từ rừng hoặc từ bất kỳ loại hình sử dụng đất tương tự nào Cũng như đất trồng cây gỗ. Vì vậy, các sản phẩm như, nước, du lịch sinh thái cũng là LSNG". Đây là một định nghĩa rõ ràng, nhưng là một định nghĩa về sản phẩm nên nó có một số tồn tại. Khả năng tái tạo là một khái niệm mang tính quản lý và nó nằm ngoài phạm vi của định nghĩa về sản phẩm. Bằng cách hạn chế LSNG chỉ bao gồm các sản phẩm hoặc hàng hoá hữu hình, định nghĩa này đã loại trừ các dịch vụ tạo ra như dịch vụ cắm trại, chăn thả, săn bắn, chiêm ngưỡng động vật hoang dại, v.v. Các sản phẩm từ đất trồng cây gỗ có khuynh hướng bao gồm các sản phẩm từ vườn như táo và xoài. Một định nghĩa khác về LSNG là: "Tất cả sản phẩm và dịch vụ cho sử dụng vào mục đích thương mại, công nghiệp và nhu cầu sống, mà không phải là gỗ, thu được từ rừng và sinh khối của nó mà có thể được khai thác một cách bền vững, có nghĩa là được khai thác từ hệ sinh thái rừng với số lượng và cách thức sao cho không làm thay đổi các chức năng sản xuất cơ bản của rừng (FAO, 1992). Với ngụ ý đó, định nghĩa này đề cập đến các sản phẩm được lấy ra từ rừng tự nhiên, đồng thời việc sử dụng chúng lại tạo ra sản phẩm. Việc đề cập đến các phương thức khai thác bền vững và các chức năng cơ bản của rừng là xa lạ với định nghĩa về sản phẩm. Tổ chức tư vấn chuyên môn về LSNG của châu Phi, tại Arusha, Tanzania, năm 1993 đã đưa ra quan niệm về LSNG. Quan niệm này đặc biệt nhấn mạnh vào các sản phẩm động vật: "Tất cả các sản phẩm thực vật (trừ gỗ) và động vật thu được từ rừng và từ các vùng đất có cây gỗ khác Cũng như từ các cây gỗ bên ngoài rừng; loại trừ gỗ xây dựng cơ bản, gỗ năng lượng, và các sản phẩm từ vườn cùng các cây trồng vật nuôi, thì đều được gọi là LSNG". Việc quan niệm LSNG bao gồm cả những sản phẩm thu được từ tất cả cây gỗ bên ngoài rừng của bất kỳ kiểu sử dụng đất nào có thể dẫn đến một số vấn đề bất ổn tương tự như đã nêu ở trên. Sự
  7. 5 loại trừ gỗ xây dựng cơ bản ra khỏi phạm vi của LSNG chỉ có thể ngụ ý sự bao gồm các loại gỗ không dùng trong xây dựng cơ bản, trong xây dựng nông thôn, trong các nghề thủ công, mỹ nghệ, v.v. Herman Haeruman Js (1995) quan niệm rằng, các LSNG nhìn chung bao gồm các sản phẩm hữu hình không phải là gỗ, gỗ nhiên liệu và than củi thu được từ rừng hoặc từ các thực vật thân gỗ. Quan niệm này không đề cập đến các dịch vụ thu được từ rừng. FAO (1995) đã chỉ rõ yêu cầu của định nghĩa về LSNG là, định nghĩa phải vừa diễn tả rõ ràng được ý nghĩa của thuật ngữ LSNG, phải vừa xác định chính xác được giới hạn, phạm vi và đặc trưng của nó như sau: "LSNG bao gồm tất cả các sản phẩm có nguồn gốc sinh vật (trừ gỗ) và các dịch vụ thu được từ rừng hoặc từ các kiểu sử dụng đất tương tự rừng". Định nghĩa này xác định LSNG bao gồm cả các hàng hoá và dịch vụ có nguồn gốc thực vật và động vật. Định nghĩa về LSNG của FAO (1995) Cũng đã nhận biết về chức năng dịch vụ quan trọng đang gia tăng của tài nguyên LSNG. Chẳng hạn, du lịch sinh thái là một ngành công nghiệp lớn trên thế giới đang phát triển rất nhanh. Vì thế, rừng, vùng hoang dã, động vật hoang dại là những thành phần của nền du lịch sinh thái nên được nhận biết trong phạm vi của LSNG. Cũng cần nhấn mạnh rằng, có sự khác biệt giữa hai thuật ngữ sử dụng trong tiếng Anh: Non - timber forest products (NTFPs) và Non - wood forest products (NWFPs). Cả hai thuật ngữ này đều được hiểu bằng tiếng Việt là LSNG, nhưng hiểu một cách chính xác hơn thì NTFPs nhằm chỉ các LSNG lớn (Timber - gỗ lớn), còn NWFPs nhằm chỉ các LSNG nói chung. Vì vậy, một số loại sản phẩm như gỗ nhỏ, gỗ củi, cành ngọn, v.v... có thể được xếp vào NTFPs, nhưng không thể xem chúng là NWFPs, như định nghĩa trên đã nêu: "loại trừ gỗ ở tất cả các hình thái của nó". 1.1.3. Thực vật cho lâm sản ngoài gỗ Theo nghĩa rộng, thực vật cho LSNG bao gồm mọi thực vật của hệ sinh thái rừng hoặc của hệ thống sử dụng đất tương tự rừng, có khả năng cung cấp LSNG.
  8. 6 Theo nghĩa hẹp, những thực vật (của rừng hoặc của hệ thống sử dụng đất tương tự rừng) cho sản phẩm không phải gỗ, hoặc ngoài việc cung cấp gỗ chúng còn cho các sản phẩm khác gỗ từ thực vật, như: quả, hạt, vỏ, nhựa, tinh dầu, tanin, thuốc nhuộm, thuốc chữa bệnh,... được gọi chung là thực vật cho LSNG (plant yielding non-wood forest products). Cần phân biệt thuật ngữ thực vật cho LSNG với thuật ngữ LSNG nguồn gốc thực vật. Đây là hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau. Thuật ngữ đầu nhằm chỉ các loài thực vật rừng (hoặc thực vật của hệ thống sử dụng đất tương tự rừng ), không phân biệt về dạng sống, có khả năng sản xuất ra LSNG. Thuật ngữ sau lại nhấn mạnh vào yếu tố sản phẩm - những thứ mà các thực vật rừng kể trên sản xuất ra. Với quan niệm trên, thực vật cho LSNG nhất thiết phải là thành viên cấu trúc của hệ sinh thái rừng hoặc của hệ sinh thái hay hệ thống sử dụng đất tương tự rừng. Trong hệ sinh thái rừng, thực vật cho LSNG có thể là những cây gỗ lớn đa tác dụng (Sấu, Trám, Giổi, Dẻ) cao vài chục mét và chiếm lĩnh tầng trội của tán rừng; Cũng có thể là cây gỗ nhỡ (Quế, Hồi, Chẹo) cao 10 - 15 m, gỗ nhỏ (Bứa, Màng tang) cao 5 - 6 m, cây tái sinh dưới 5 m, và những cây cỏ hết sức nhỏ bé. Chúng có thể mọc dưới đất hay ở trên cây khác như thực vật ký sinh (tầm gửi) và thực vật phụ sinh (phong lan). Điều đó cho thấy rằng, thực vật cho LSNG có thể phân bố ở mọi tầng tán của rừng, chứ không chỉ phân bố duy nhất ở tầng dưới như một số người vẫn hiểu lầm. Về hình thái thân cây, thực vật cho LSNG Cũng hết sức đa dạng, từ dạng thân gỗ đơn trục, đứng thẳng đến dạng thân bụi hoặc có thân chính rõ rệt dạng cau dừa, và dạng gỗ có lõi rỗng dạng tre nứa, hoặc dạng dây leo hoá gỗ như song, mây, tầm gửi, vv. Tóm lại, lâm nghiệp là một lĩnh vực rộng lớn. Các LSNG có thể được thu hoạch từ những vùng đất được quản lý thông qua các hệ thống tương tự như lâm nghiệp (như các lô rừng của thôn bản, trảng cây bụi, đồn điền cao su, rừng trang trại, các vùng đất canh tác nông lâm kết hợp), và vì vậy, nguồn gốc lâm nghiệp của các hàng hoá và dịch vụ nên được hiểu và được giải thích một cách rõ ràng, linh hoạt.
  9. 7 Việc sử dụng chính xác những thuật ngữ và có quan niệm đúng đắn về sản phẩm, trong đó có LSNG là cần thiết để tiến hành nghiên cứu làm rõ bản chất của nó, đồng thời để biến sản phẩm này thành nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Để đưa ra một quan niệm, đặc biệt là xây dựng được một định nghĩa chính xác, diễn tả được đầy đủ những tính chất, phạm vi và ranh giới của LSNG đòi hỏi nhiều sự tìm tòi hơn nữa cùng sự đóng góp đầy nhiệt huyết của các nhà lâm nghiệp vì công cuộc bảo vệ và phát triển rừng bền vững của nước nhà. 1.2. Tình hình sử dụng và nghiên cứu LSNG trên thế giới 1.2.2. Tình hình quản lý sử dụng LSNG Trên thế giới, tài nguyên LSNG rất phong phú và đa dạng, có đến 25.000 loài cây và không ít hơn các loài con cung cấp nhiều sản phẩm cần thiết cho đời sống cộng đồng và phát triển kinh tế. Nhiều cộng đồng đã biết sử dụng LSNG từ xa xưa, việc buôn bán trao đổi quốc tế cũng diễn ra rất sớm, từ các đảo Tây Indonesia tới Trung Hoa đầu thế kỷ V; Trung Đông buôn bán với đảo Malaysia từ năm 850; Châu Âu nhập khẩu từ thế kỷ XV. Hiện nay, ít nhất có 30 triệu người sống phụ thuộc vào nguồn tài nguyên này, số người nhận được lợi ích từ đó còn lớn hơn nhiều. Một lượng LSNG trị giá nhiều tỉ đô la đã được mua bán trao đổi ở Đông Nam á. Trước đây ở nhiều nước người dân khai thác tự phát và chủ yếu là xuất khẩu LSNG thô. Ngày nay chính phủ nhiều nước đã ý thức được vai trò của LSNG, nên tăng cường các biện pháp quản lý, khai thác bắt đầu có qui hoạch, tăng cường xuất khẩu các sản phẩm tinh chế nên giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng lên, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, nâng cao mức sống người dân, mà nguồn tài nguyên rừng và LSNG cũng được quản lý tốt hơn. Ở nhiều nước châu Á như Thái lan, Ấn độ, Indonesia, Philippins, vv.. người dân đã gắn bó với LSNG từ lâu đời, đã và đang có nhiều dự án, chương trình đầu tư phát triển LSNG. Tuy nhiên, còn một số nước như: Lào, Cam Pu Chia... vẫn đang bỏ ngỏ tài nguyên này. Ở châu Phi nông dân phụ thuộc rất lớn vào LSNG. Mặc dầu chính phủ đã có sự quan tâm quản lý, song do ý thức của nhiều cộng đồng còn thấp, nên việc quản lý
  10. 8 sử dụng LSNG của họ vẫn còn nhiều bất cập. Vùng Đông và Nam Phi đã có những nghiên cứu và dự án liên quan đến việc thúc đẩy, khuyến khích sử dụng hợp lý LSNG. Nhưng các tài liệu khoa học về sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này thì vẫn rất thiếu. Một số nước châu Mỹ nằm trong khu vực nhiệt đới, người dân gắn bó rất mật thiết với tài nguyên rừng nói chung và LSNG nói riêng. Các cộng đồng đã có kinh nghiệm quản lý sử dụng LSNG, song hiện nay bị chi phối mạnh mẽ của chính sách và thị trường, cần nhiều cải cách và hỗ trợ họ quản lý sử dụng tốt LSNG. 1.2.2. Nghiên cứu về LSNG Từ những năm 1980 trở lại đây có nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh được giá trị thực của thực vật cho LSNG cũng như đã chỉ rõ vai trò to lớn của nó đối với sự nghiệp phát triển rừng bền vững. Đầu tiên phải kể đến những phát hiện về khả năng đặc biệt của thực vật LSNG như phục hồi nhanh, cho thu hoạch sớm, năng suất kinh tế cao, ổn định, có thể kinh doanh liên tục và việc khai thác chúng thường ít phá hủy hệ sinh thái. Vì vậy, bằng cách duy trì tính nguyên vẹn của rừng tự nhiên, việc bảo tồn có khai thác có thể nuôi dưỡng được tính đa dạng sinh học cơ bản và bảo vệ môi trường sinh thái. Bảo tồn có khai thác sẽ cung cấp những sản phẩm cần thiết cho một bộ phận của xã hội một cách bền vững (Mendelsohn, 1992). Nghiên cứu của Mendelsohn (1992) đã chỉ rõ vai trò của thực vật LSNG, theo ông, thực vật LSNG quan trọng cho bảo tồn bởi việc khai thác chúng có thể luôn được thực hiện với sự tổn hại ít nhất đến rừng. Thực vật LSNG quan trọng cho tính bền vững vì trong quá trình khai thác chúng vẫn đảm bảo cho rừng ở trạng thái tự nhiên. Thực vật LSNG quan trọng trong đời sống bởi nó có thể cung cấp nhiều dạng sản phẩm như thực vật ăn được, nhựa, thuốc nhuộm, tanin, sợi, cây làm thuốc, vv. Trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế đặt tại Indonesia (CIFOR) đã chú trọng nhiều về nghiên cứu LSNG, đề ra phương pháp phân tích với các lâm sản thương mại trên thế giới.
  11. 9 Trung tâm quốc tế về nông lâm kết hợp (ICRAF) nghiên cứu làm thế nào sản xuất, nâng cao sản lượng của các cây rừng có tiềm năng. Cơ quan lương nông liên hợp quốc (FAO) thành lập ra mạng lưới nghiên cứu LSNG trên thế giới và ra tạp chí “Tin tức về lâm sản ngoài gỗ”. Tổ chức một số cuộc hội thảo quốc tế về LSNG (VD: ở Thái lan năm 1994, ở Indonesia năm 1995 ...). Từ năm 1985, FAO đã có những nghiên cứu về LSNG của từng quốc gia trong khu vực Châu Á -Thái Bình Dương; riêng với Việt Nam các báo cáo mới chỉ dừng lại ở những số liệu thu được qua những con số thống kê xuất nhập khẩu LSNG. Chính phủ Hà Lan tài trợ cho nhiều dự án về LSNG khắp thế giới, hướng tới sử dụng bền vững LSNG. Các tổ chức phi chính phủ của Đức hỗ trợ cho nhiều dự án nghiên cứu LSNG ở Châu phi (Bolivia, Tanzania, Cameroom, ...), Châu á ( Việt Nam, Cam Pu Chia,...),... Nhiều trường đại học ở Đức, Hà lan, Anh, Mỹ quan tâm nghiên cứu ảnh hưởng của LSNG đến đời sống của các cộng đồng dân cư gần rừng. Cũng đã có nhiều nghiên cứu cho thấy giá trị của LSNG về kinh tế rất lớn. Nghiên cứu của Peter (1989) đã chỉ ra giá trị thu nhập hiện tại từ LSNG có thể lớn hơn giá trị thu nhập hiện tại từ bất kì loại hình thức sử dụng đất nào. Hay như Balic và Mendelsohn (1992) đã khẳng định trong công trình nghiên cứu của mình ở một số nước nhiệt đới rằng, chỉ riêng thu nhập dược liệu từ 1ha rừng thứ sinh cũng có thu nhập cao hơn giá trị thu nhập từ các sản phẩm nông nghiệp trên cùng diện tích. Ở một số vùng LSNG có thể mang lại nguồn tài chính hơn cả gỗ. Nghiên cứu của Heinzman (1990) cho biết việc kinh doanh các sản phẩm từ các cây họ cau dừa ở Guatemala cho hiệu quả cao hơn nhiều so với kiểu rừng kinh doanh gỗ. Ở Zimbabwe có 237.000 người làm việc liên quan tới LSNG, trong khi đó chỉ có 16.000 người làm trong ngành lâm nghiệp, khai thác và chế biến gỗ (FAO, 1975). Cơ quan y tế thế giới (WHO) đánh giá là 80% dân số các nước đang phát triển dùng LSNG để chữa bệnh và làm thực phẩm, vài triệu gia đình phụ thuộc vào những sản phẩm loại này của rừng để tiêu dùng và là nguồn thu nhập. LSNG còn có ý nghĩa rất lớn trong việc xuất khẩu và tăng thêm nguồn thu ngoại tệ cho nhiều quốc gia. Đối với các nước Đông Nam Á, chỉ riêng hàng song
  12. 10 mây thành phẩm đã có gần 3 tỉ USD trao đổi thương mại hàng năm. Ở Thái Lan năm 1987 xuất khẩu LSNG dạng thô với giá trị bằng 80% xuất khẩu gỗ tròn và gỗ xẻ, chỉ khiêm tốn thì giá trị xuất khẩu của LSNG là 32 triệu USD. Sản phẩm tre cũng là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, theo Thammincha thì năm 1984 tre xuất khẩu có giá trị 3 triệu USD. Thuốc chữa bệnh có nguồn gốc từ thực vật giá trị xuất khẩu năm 1979 là 17 triệu USD. Ở Indonesia, giá trị LSNG xuất khẩu của họ đạt con số 238 triệu USD vào năm 1987. Malaysia năm 1986 đạt con số 11 triệu USD về xuất khẩu LSNG. Ở Bắc Phi cây rừng là nguồn thực phẩm và dược liệu quan trọng. Như ở Cameroon vỏ một loại cây Prunus (họ Rosaceae) làm thuốc được khai thác để xuất khẩu trong những năm 1990 có đến 3.000 tấn loại này xuất khẩu hàng năm cho giá trị khoảng 220 triệu USD/năm. Ở Châu Mỹ, người dân những nước đang phát triển nằm trong khu vực rừng nhiệt đới cũng còn phụ thuộc rất nhiều vào rừng nói chung và LSNG nói riêng. Chính từ những nghiên cứu, phát hiện và lợi ích nêu trên mà nhiều quốc gia, tổ chức đã thể hiện quan tâm đến LSNG bằng những hành động cụ thể. Chẳng hạn như ở Châu Phi, dưới sự hỗ trợ của tổ chức FAO đã có những chương trình, dự án chú trọng tới việc phát triển loài LSNG mũi nhọn. Hay như trung tâm nghiên cứu nông lâm kết hợp quốc tế (ICRAF) đã có những biện pháp chọn lọc và quản lý các loài cây cung cấp LSNG hoang dại và xem chúng như là chìa khóa mở đường trong nhiều hoạt động và đã được áp dụng ở một số mô hình nông lâm kết hợp như mô hình trồng song, mây dưới tán rừng ở Châu Á, mô hình một số loài cau dừa (đã thuần hóa và bán hoang dã) được gây trồng cùng các loài thân gỗ và thân thảo ở vùng nhiệt đới. Như vậy, nhiều cộng đồng dân cư trên thế giới đã có truyền thống sử dụng LSNG từ lâu đời. Ngày nay, chính phủ nhiều nước đã quan tâm quản lý nguồn tài nguyên LSNG, có chính sách hỗ trợ các cộng đồng quản lý sử dụng hợp lý chúng. Nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học, nhiều chính phủ và các tổ chức phi chính phủ đã chú ý đến việc nghiên cứu phát triển và sử dụng bền vững này. Nghĩa là,
  13. 11 nghiên cứu LSNG đã trở thành một nhiệm vụ khoa học nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Tóm lại: những nghiên cứu về thực vật ngoài gỗ trên thế giới đã cho thấy tiềm năng to lớn của chúng ở các nước nhiệt đới, đã làm rõ vai trò quan trọng của LSNG trong đời sống kinh tế - xã hội nông thôn miền núi, coi đây là một trong những nhân tố triển vọng nhất cho bảo tồn và phát triển rừng, góp phần giải quyết mục tiêu quản lý rừng bền vững. Cho đến nay, việc phát triển LSNG được xem là một trong những nội dung của chiến lược quản lý rừng bền vững theo hướng "bảo tồn có khai thác". Tuy nhiên, những chính sách cho phát triển LSNG thực sự là chưa được chú ý đúng mức, chưa tương xứng và còn dàn trải quá mỏng về nhiều khía cạnh. 1.3. Tình hình sử dụng và nghiên cứu LSNG trong nước 1.3.1. Tình hình sử dụng LSNG Do phạm vi rộng về vĩ độ, sự phức tạp về địa hình, với khí hậu nhiệt đới ẩm và cảnh quan không đồng nhất; nên Việt Nam có nguồn tài nguyên sinh vật rất đa dạng và phong phú. Vì vậy, rừng nước ta có rất nhiều loại LSNG có giá trị, sản lượng lớn có thể khai thác được từ Bắc chí Nam. Mặc dù rừng đã bị phá huỷ nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân, nhưng thảm thực vật rừng Việt Nam cũng còn rất phong phú, trong đó có nhiều loài cây LSNG có giá trị cao. Trong số 12.000 loài cây được thống kê, có 76 loài cho nhựa thơm; 160 loài cho dầu; 600 loài cho ta nanh; 260 loài cho tinh dầu; 93 loài cho chất màu; 1.498 loài cho các dược phẩm. (Nguồn: Phân tích ngành Lâm sản ngoài gỗ Việt Nam,7/2000). LSNG đóng vai trò quan trọng đối với đời sống của các cộng đồng dân cư sống gần rừng; Nó cung cấp: vật liệu xây dựng, lương thực, thực phẩm, thuốc men, vv. Nhiều cộng đồng cư dân miền núi đã biết quản lý nguồn tài nguyên này theo cách của họ, Tuy nhiên thời gian qua do tác động của cơ chế thị trường LSNG đã bị khai thác quá mức, gây suy thoái nghiêm trọng. Nhiều nghiên cứu hỗ trợ trong quản lý sử dụng LSNG của cộng đồng đã được triển khai, một số đem lại hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, ở Việt Nam các cộng đồng dân tộc thiểu số có đặc điểm rất khác
  14. 12 nhau về các bối cảnh và tập quán địa phương, người ta không thể cho rằng những gì làm được ở nơi này, sẽ tự động làm được ở nơi khác. Tuỳ theo mục đích sử dụng khác nhau mà phương thức khai thác thu hái, chế biến sử dụng cũng khác nhau. Về lĩnh vực này, kho tàng kiến thức của nhân dân rất phong phú; do vậy cần thu thập, phân tích thông tin, đúc rút kinh nghiệm của nhân dân của địa phương về khía cạnh khai thác, thu hái, chế biến, sử dụng LSNG. Với kỳ vọng góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống cho người nhận đất nhận rừng, khuyến khích thực hiện phương châm lấy ngắn nuôi dài trong phát triển tài nguyên rừng, Cục khuyến nông khuyến lâm đã xuất bản tài liệu hướng dẫn trồng cây dưới tán rừng (với 15 loài, mà trong đó 2/3 là những cây cho các LSNG có giá trị). Một nghiên cứu ở Nam Đông, Thừa Thiên Huế cho thấy: Hầu hết các LSNG được dùng trong gia đình, chỉ số ít sản phẩm được bán trên thị trường, một số lượng lớn các LSNG được dùng làm thực phẩm, nhiều LSNG dùng làm vật liệu xây dựng. Thành phần giới, thành phần kinh tế hộ có ảnh hưởng đến việc khai thác và sử dụng LSNG. Dân tộc thiểu số dùng nhiều LSNG hơn người Kinh trong cùng khu vực, các sản phẩm họ thu hái từ rừng rất phong phú, cung cấp cho nhu cầu của gia đình và để bán. Từ lâu đồng bào đã ý thức được rằng: “cây cối nuôi sống con người”. 1.3.2. Tình hình quản lý LSNG Chính phủ Việt Nam đã ban hành rất nhiều chương trình, chính sách cho việc phát triển và bảo tồn tài nguyên rừng. Tuy nhiên, hầu như chưa có một chính sách hoặc chương trình riêng nào cho việc quản lý LSNG. Mặc dù vậy, hầu hết các chương trình và chính sách phát triển và bảo tồn tài nguyên rừng đều có nội dung liên quan đến quản lý LSNG. Trước năm 1991, hệ thống quản lý rừng nhấn mạnh khía cạnh quản lý nhà nước theo cách tiếp cận từ trên xuống với hệ thống kiểm soát của chính phủ qua các doanh nghiệp nhà nước trong vấn đề quản lý và thị trường của các loại lâm sản. Sau năm 1991, hệ thống quản lý rừng dịch chuyển từ hình thức quản lý nhà nước sang phương thức quản lý bởi nhiều thành phần xã hội theo định hướng phát triển Lâm nghiệp xã hội.
  15. 13 Chính sách quan trọng nhất tạo nên sự chuyển biến nêu trên là chính sách của chính phủ về GĐGR cho hộ gia đình và cộng đồng quản lý (Nghị Định 02/CP ngày 15/1/1994 về giao đất lâm nghiệp; Thông Tư 06 LN/KN về giao đất lâm nghiệp; Nghị định 163/CP ngày 16/11/1999 về giao và cho thuê đất lâm nghiệp). Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng (dự án 661 theo quyết định số 661/ QĐ-TTg ra ngày 29/7/1998 của thủ tướng chính phủ) Cũng đã đề cập đến việc phát triển các loài lâm đặc sản, lâm sản ngoài gỗ. Luật bảo vệ và phát triển rừng (19/8/1991) kèm theo nghị định số 18-HĐBT (17/1/1992) của Hội Đồng Bộ Trưởng, thông tư số 13/LN/KL của Bộ Lâm Nghiệp đã ban hành nhiều qui định nhằm bảo vệ và phát triển tài nguyên động thực vật rừng quí hiếm, mà nhiều loài là LSNG có giá trị. Đây cũng là chính sách quan trọng của chính phủ trong bảo tồn, phát triển tài nguyên rừng nói chung và LSNG nói riêng. LSNG ở Việt Nam trước đây thường được coi như nguồn lâm sản thứ yếu, phụ của rừng, nó được xem gần như là loại tài sản mở. Hiện nay, vai trò của LSNG đã được chính phủ và ngành Lâm nghiệp đánh giá cao. Nguồn lâm sản này hiện đang được quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau như: Quản lý nhà nước, quản lý cộng đồng và quản lý ở cấp hộ gia đình, cá nhân với nhiều mục đích khác nhau (Kinh doanh, sử dụng cho mục đích tự cung tự cấp, nghiên cứu, v.v.). Trong đó, việc lập kế hoạch quản lý bền vững LSNG dựa vào cộng đồng là một trong những vấn đề đang được quan tâm và nó đang ngày càng thể hiện rõ vai trò tích cực trong phát triển nguồn tài nguyên LSNG. Như vậy, mặc dù chưa có chính sách và chương trình riêng cho LSNG nhưng chính phủ Việt Nam đã đưa vấn đề duy trì, bảo tồn và phát triển LSNG vào nội dung của các chính sách, chương trình, luật lệ liên quan đến quản lý tài nguyên rừng. 1.3.3. Nghiên cứu về LSNG ở Việt Nam Ở nước ta, LSNG rất đa dạng, phong phú, giàu tiềm năng, phân bố rộng khắp cả nước, nhưng nghiên cứu về LSNG còn rất hạn chế. Năm 1978, Trung tâm nghiên cứu Đặc sản rừng được thành lập với nhiệm vụ nghiên cứu phát triển LSNG, phương pháp chế biến, gây trồng lâm sản có giá trị. Trung tâm này thường phối hợp với Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường (CRES-Đại học Quốc gia Hà nội) và Viện Kinh
  16. 14 tế Sinh thái (ESCO-ECO) để thực hiện các dự án về sử dụng bền vững LSNG. Các hoạt động nghiên cứu bao gồm: phát triển và thử nghiệm các hệ thống quản lý rừng và LSNG, nghiên cứu hệ thống sở hữu LSNG ở Việt Nam, nghiên cứu thử nghiệm gây trồng một số loài LSNG có giá trị kinh tế cao dựa theo nhu cầu của người dân địa phương, gây trồng một số loài tre và dược liệu, vv. Một số tổ chức khác có nghiên cứu về LSNG gồm có Trường Đại học Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Huế, Viện Điều tra Qui hoạch rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. Theo Hoàng Hòe (1998), nguồn tài nguyên LSNG ở nước ta rất lớn, có nhiều loài và có giá trị cao: số loài cây làm thuốc chiếm tới 22% tổng số loài thực vật Việt Nam, có khoảng trên 500 loài thực vật cho tinh dầu (chiếm 7,14% tổng số loài), khoảng trên 600 loài cho tanin và rất nhiều loài khác cho dầu nhờn, dầu béo, cây cảnh. Bên cạnh đó, song mây, tre nứa (hiện nay, tổng diện tích tre của nước ta là 1.492.000 ha, với khoảng 4.181.800.000 cây) không chỉ là nguyên liệu xây dựng truyền thống quan trọng của nhân dân ta từ xưa tới nay mà còn là nguồn nguyên liệu rất quan trọng cho nghề thủ công mỹ nghệ, tạo ra những sản phẩm vô cùng đẹp mắt, có khả năng xuất khẩu mang lại giá trị cao. Phạm Xuân Hoàn (1997) đã nghiên cứu phân loại thực vật LSNG tại Phia Đén - Nguyên Bình tỉnh Cao Bằng theo mục đích sử dụng. Tác giả đánh giá tình hình khai thác thực vật LSNG thích hợp nhất là được thực hiện bởi người dân địa phương và đưa ra những đánh giá tình hình khai thác cũng như một số đề xuất phát triển bền vững tài nguyên thực vật LSNG. Lê Quý Ngưu, Trần Như Đức (1998) đã tập trung mô tả về công dụng và kĩ thuật thu hái chế biến các bài thuốc làm từ các loại thực vật trong đó có thực vật LSNG. Ngoài ra Ninh Khắc Bản (2003) bước đầu nghiên cứu nguồn tài nguyên thực vật LSNG trong tự nhiên do khai thác quá mức là một trong những dấu hiệu thông báo về tình trạng chúng đang bị đe dọa. Theo ông, chúng cần được bảo tồn nguyên vị và có kế hoạch bảo tồn chuyển vị nguồn gen trong vườn hộ gia đình hay trên trang trại theo hướng sử dụng bền vững để giảm sức ép lên nguồn tài nguyên ngoài tự nhiên, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học.
  17. 15 Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu quan tâm đến phát triển tài nguyên tre ở Việt Nam (như Nguyễn Tưởng, 1995), một số nghiên cứu quan tâm đến tài nguyên cây thuốc ở rừng Việt Nam (Đỗ Nguyên Phương, Đào Viết Phú, 1997…), một số công trình nghiên cứu sơ bộ và hành động thực địa nhằm thử nghiệm các mô hình quản lý LSNG đã được triển khai song chưa mang tính đồng bộ (An Văn Bảy, Võ Thanh Giang, 2002). Các nghiên cứu này mới chỉ tập trung phát hiện loài, phản ánh đặc tính sinh thái, gây trồng, khai thác… và so sánh hiệu quả kinh doanh thực vật LSNG với các loại hình kinh doanh khác mà chưa đi sâu tìm hiểu kĩ những loài thực vật LSNG có triển vọng. Song song với những nghiên cứu đó, một số chương trình được triển khai như: 1. Dự án nghiên cứu một số vấn đề kinh tế xã hội và vai trò của phụ nữ trong chế biến song, mây, tre do Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam thực hiện từ 1993- 1995. 2. Dự án nghiên cứu thị trường địa phương cho sản phẩm ngoài gỗ ở Bắc Thái do sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Bắc Thái thực hiện. 3. Dự án trồng rừng đặc sản (được lồng ghép trong chương trình 5 triệu ha rừng). 4. Dự án sử dụng bền vững các LSNG do trung tâm nghiên cứu lâm đặc sản và tổ chức bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) thực thi với sự cộng tác của trung tâm nghiên cứu tài nguyên môi trường (CRES), viện nghiên cứu sinh thái (ECO-ECO). Tuy nhiên, dự án này Cũng chỉ mới đưa ra các khuyến nghị cho địa phương nơi tiến hành dự án là vùng đệm khu bảo tồn Kẻ Gỗ và vùng đệm vườn quốc gia Ba Bể, chưa thuyết minh được một cách thuyết phục bằng con số là những thực vật LSNG nào sẽ mang lại hiệu quả cao thực sự. Để phát triển và sử dụng rừng nói chung và LSNG nói riêng chúng ta không chỉ giải quyết thuần túy các yếu tố kỹ thuật như chọn, tạo giống, các biện pháp kỹ thuật gây trồng, bảo vệ và chăm sóc rừng, mà còn phải nghiên cứu giải quyết rất nhiều vấn đề có liên quan tác động qua lại với nhau. Vì vậy các hướng nghiên cứu chính về LSNG tập trung biện chứng vào các vấn đề theo chuỗi hành trình của sản phẩm từ khâu tạo nguyên liệu như chọn, tạo giống, gây trồng, bảo tồn, phát triển, rồi đến khai thác, chế biến, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Song song với nó là việc
  18. 16 điều tra, khảo sát các đặc điểm về địa hình, khí hậu, tài nguyên LSNG, cộng đồng dân cư và văn hóa, phong tục, tập quán của họ. Việc đề xuất các chương trình, chính sách văn bản về quản lý, khai thác và thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng giữ vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu LSNG.
  19. 17 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu nghiên cứu 2.1.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu nhằm đề xuất giải pháp góp phần bảo tồn và phát triển cây LSNG tại Khu bản tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hòa Bình. 2.1.2. Mục tiêu cụ thể - Đánh giá được hiện trạng khai thác và sử dụng cây LSNG tại khu vực nghiên cứu. - Đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả các hoạt động bảo tồn và phát triển cây LSNG tại khu vực nghiên cứu. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Là các loài cây LSNG tại Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hòa Bình. 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu Là Khu BTTN Ngọc Sơn – Ngổ Luông (Xã Tự Do, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình được chọn để điều tra xã hội học như: phỏng vấn, thảo luận nhóm, phân tích kinh tế hộ, vv ). Địa bàn nghiên cứu xã Tự Do, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình thuộc địa phận Khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Sơn – Ngổ Luông, tỉnh Hòa Bình. Xã Tự Do được chọn thỏa mãn các tiêu chí sau: (1) Có ranh giới hành chính nằm trong khu vực Khu BTTN; (2) Có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống; (3) Có phong tục tập quán, kinh nghiệm khai thác và sử dụng LSNG. 2.3. Nội dung nghiên cứu - Đánh giá thực trạng cây LSNG - Đánh giá thực trạng khai thác cây LSNG
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
21=>0