intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:103

19
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung chính của đề tài là phân tích các cơ cấu ảnh hưởng đến kinh tế HGĐ. Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tới thu nhập của các HGĐ tại Khu vực nghiên cứu. Các nguyên nhân dẫn tới tác động bất lợi của người dân tới TNR của KBTTN Nà Hẩu. Đề xuất các giải pháp làm giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân tham gia vào quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng tại KBTTN Nà Hẩu huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP TRẦN NGUYÊN DŨNG NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM GIẢM THIỂU TÁC ĐỘNG BẤT LỢI CỦA NGƯỜI DÂN ĐỊA PHƯƠNG ĐẾN TÀI NGUYÊN RỪNG TẠI KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN NÀ HẨU HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ NHÂM Hà Nội, 2011
  2. 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm qua, nhiều thành tựu đã đạt được trong công tác quản lý bảo tồn hệ thống rừng đặc dụng, vai trò của các khu bảo tồn trong phát triển kinh tế ở cấp quốc gia và địa phương ngày càng được khẳng định. Nhận thức về vai trò của rừng đặc dụng đối với bảo vệ đa dạng sinh học, môi trường trong xã hội được tăng cường đáng kể. Tuy nhiên việc bảo vệ, quản lý các khu bảo tồn đã và đang gặp không ít những khó khăn từ phía người dân và cộng đồng địa phương. Khó khăn lớn nhất gặp phải trong việc quản lý KBT là số dân sinh sống bên trong KBT đã tạo sức ép rất lớn. Tài nguyên rừng là nguồn sống chủ yếu của người dân sống trong và gần rừng từ bao đời nay nhưng từ khi thành lập KBTTN Nà Hẩu thì những thói quen, phong tục tập quán phát nương làm rẫy, săn bắt động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu lượm các sản phẩm từ rừng đã bị hạn chế và kiểm soát. Với tỷ lệ HGĐ nghèo lớn, dân trí thấp, họ cho rằng việc thành lập Khu bảo tồn không đem lại lợi ích gì hoặc rất ít cho họ, mà chỉ bị thiệt thòi vì không được tự do khai thác nguồn TNR như trước đây. Trong khi đó các sinh kế tạo nguồn thu nhập khác cho người dân địa phương chưa bù đắp được sự thiếu hụt này. Cho nên đã gây ra mâu thuẫn giữa Khu bảo tồn với người dân địa phương - những người đang sống phụ thuộc một phần vào nguồn tài nguyên rừng. Do đó, việc tồn tại những tác động bất lợi của người dân vào tài nguyên rừng như là một tất yếu và Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu cũng trong tình trạng chung như thế. Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu - huyện Văn Yên được thành lập theo Quyết định số 512/QĐ – UB ngày 09 tháng 10 năm 2006 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái với diện tích 16.950 ha [31]. Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu có điều kiện tự nhiên đặc thù, nguồn tài nguyên động vật, thực vật phong phú, có nhiều cảnh quan đẹp như dọc theo sườn các đỉnh núi cao có các thác nước, dưới khe là các dòng suối chảy và là nơi hội tụ của nhiều luồng thực vật càng làm cho hệ sinh vật, đặc biệt là hệ thực vật ở đây thêm đa dạng, phong phú và có những nét đặc thù riêng. Hệ thực vật tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu chưa bị tác động mạnh, diện tích rừng già, rừng giàu còn lại khá lớn, cấu trúc rừng còn tương đối nguyên vẹn,
  3. 2 còn lưu trữ được nhiều loài thực vật quý hiếm. Những đặc điểm nêu trên cho thấy khu rừng Nà Hẩu không những có giá trị cao về đa dạng sinh học, về sinh thái, môi trường mà còn có ý nghĩa về du lịch sinh thái, phục vụ tham quan, học tập nghiên cứu. Với thành phần dân tộc chủ yếu là H’mông và Dao với những tập quán truyền thống như canh tác nương rẫy, du canh du cư, săn bắn động vật, chặt gỗ, lấy củi, thu lượm các sản phẩm từ rừng. Đời sống của người dân địa phương phần lớn dựa vào chính là nguồn tài nguyên rừng, mỗi khi có cơ hội với những cách tiếp cận đến mức tối đa nguồn TNR. Vì vậy vấn đề đặt ra là cần có giải pháp nhằm giảm thiểu những tác động bất lợi của người dân địa phương tới TNR ở KBTTN Nà Hẩu nhằm bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển bền vững TNR. Và đề tài “Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm giảm thiểu tác động bất lợi của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái” hết sức cần thiết.
  4. 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Ở nước ngoài Trong những năm đầu thập kỷ 80 cộng đồng quốc tế đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu nhằm làm thay đổi chiến lược bảo tồn và chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành. Đó là sự liên kết quản lý KBTTN, VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định. Theo định nghĩa của IUCN (1994) đã khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học là mục tiêu cơ bản của KBTTN: “Khu bảo tồn thiên nhiên là một khu vực trên đất liền hoặc trên biển được khoanh vùng để bảo vệ đa dạng sinh học, các tài nguyên thiên nhiên và văn hoá đi kèm, được quản lý bằng các công cụ pháp luật hoặc các hình thức quản lý có hiệu quả khác”.(IUCN 1994 ) [12] Nguồn gốc của KBTTN “hiện đại” có từ thế kỷ thứ 19. VQG Yellowstone là VQG đầu tiên trên thế giới, được thành lập tại Mỹ năm 1872. VQG này nằm trên vùng đất do người Crow và người Shoshone sinh sống trên cơ sở sử dụng bạo lực ép buộc hai cộng đồng tộc người này phải rời bỏ mảnh đất của họ. Nhiều KBTTN và VQG được thành lập sau đó ở các nước khác nhau trên thế giới cũng sử dụng phương thức quản lý theo mô hình này, có nghĩa là ngăn cấm người dân địa phương thâm nhập vào KBTTN và VQG và tiếp cận tài nguyên trong đó. Điều đó dẫn đến những hiệu quả tất yếu là làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa CĐĐP và KBT và mục đích bảo tồn tài nguyên đã không đạt được [12]. Hầu hết các KBT đều được thiết lập vì mục đích Quốc gia, mà ít nghĩ đến các nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương. Dựa trên mô hình của Hoa Kỳ, phương thức quản lý của nhiều VQG và KBT chủ yếu bao gồm việc ngăn cấm người dân địa phương xâm nhập vào KBT và khai thác TNR. Tại các nước Đông Nam Á phương thức này tỏ ra không thích hợp vì để duy trì sự đa dạng sinh học thì người dân địa phương bị mất
  5. 4 quyền tiếp cận với nguồn TNR, trong khi sự phụ thuộc của họ vào TNR là rất lớn [10]. Ở Nepal, đã có một số mô hình thành công về chương trình bảo tồn đa dạng sinh học (ĐDSH) theo hướng toàn cầu. Tuy nhiên, do sự ảnh hưởng của cuộc xung đột vũ trang trong gần một thập kỷ đã tác động xấu đến các hoạt động bảo tồn và động vật hoang dã. Chính vì vậy, một số nghiên cứu về đánh giá tác động của những hoạt động này đến bảo tồn đa dạng sinh học tại VQG Bardia và vùng đệm phía tây Nepal đã được thực hiện. Nghiên cứu đã khẳng định, 73% người dân địa phương sống trong khu vực phụ thuộc vào nông nghiệp, nguồn chất đốt và thức ăn [38]. Ở Ấn Độ, nơi ước tính có 275 triệu người dân địa phương ở các vùng nông thôn phụ thuộc vào rừng (ít nhất là một phần sinh kế của họ). Theo Gadgil và VP. Vartok năm 1976 trong tác phẩm: “Những lùm cây thiêng miền Tây dãy Ghats ở Ấn Độ” cho rằng: Người dân địa phương ở Ấn Độ đã bảo vệ được các đám rừng từ dưới 0,5 ha đến 10 ha dưới dạng lùm cây thiêng để thờ các vị thần của lùm cây. Việc thờ cúng tại những lùm cây thiêng đó được hình thành từ các xã hội chuyên về săn bắn và hái lượm. Việc lấy ra bất cứ sản phẩm nào đều bị cấm kỵ. Với nạn phá rừng ngày càng tăng, những lùm cây đó đã trở thành những di sản còn lại của rừng tự nhiên và do đó đã trở nên quan trọng trong việc thu lượm một số sản phẩm như: Cây thuốc, lá rụng, gỗ khô…Việc khai thác gỗ đã bị cấm nhưng đôi khi vẫn xảy ra tình trạng khai thác gỗ trộm (FAO, 1996). Một nghiên cứu về lâm nghiệp cộng đồng bên ngoài khu rừng đặc dụng đã chỉ ra rằng các khu rừng không chỉ cung cấp tiềm năng to lớn để xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế nông thôn ở Ấn Độ mà vẫn hỗ trợ tốt mục tiêu quan trọng là bảo tồn [39]. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa bảo tồn đa dạng sinh học và phát triển đã trở thành vấn đề nổi lên trong các cuộc hội thảo, diễn đàn khoa học trong những năm gần đây. Vào tháng 6 năm 1992, tại Hội nghị Liên hiệp quốc về Môi trường và Phát triển bền vững ở Rio De Janeiro, vấn đề này đã chính thức được công nhận [25, tr6]. Các mô hình ở Đông Nam Á đã chỉ ra rằng: Nỗ lực của các cơ quan Chính phủ nhằm đưa dân chúng ra khỏi các KBT đã không mang lại kết quả như mong
  6. 5 muốn trên cả phương diện quản lý TNR và kinh tế xã hội (KT-XH). Việc đưa người dân vốn quen sống trên địa bàn của họ đến một nơi mới chẳng khác nào "bắt cá khỏi nước" và khi đó lực lượng khác có thể xâm lấn và khai thác TNR mà không có người bảo vệ. Người dân địa phương có nhiều kiến thức cổ truyền về việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và các thể chế cộng đồng đã tỏ ra có hiệu quả trong việc quản lý các nguồn tài nguyên này [30]. Trước những bất cập trong công tác bảo tồn ở các VQG, KBT trên thế giới, từ những năm đầu của thập kỷ 80 nhiều dự án nghiên cứu, hội thảo quốc tế với sự đóng góp của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về bảo tồn đã đề xuất những thay đổi trong chiến lược bảo tồn. Một chiến lược bảo tồn mới dần được hình thành và khẳng định tính ưu việt, đó là liên kết quản lý KBTTN và VQG với các hoạt động sinh kế của người dân địa phương, cần thiết có sự tham gia bình đẳng của các cộng đồng trên cơ sở tôn trọng nền văn hoá trong quá trình xây dựng các quyết định. Nhiều kết quả nghiên cứu trên thế giới và kinh nghiệm thực tiễn của các KBT và VQG khẳng định rằng để quản lý thành công cần dựa trên mô hình quản lý gắn bảo tồn đa dạng sinh học với bảo tồn văn hoá của người dân địa phương. Ở VQG Kakadu (Australia), những người thổ dân chẳng những được chung sống với VQG một cách hợp pháp mà họ còn được thừa nhận là chủ hợp pháp của VQG và được tham gia quản lý VQG thông qua các đại diện của họ trong ban quản lý. Tại VQG Wasur (Indonesia) vẫn tồn tại 13 làng bản với cuộc sống gắn với săn bắn cổ truyền [35]. Ở Thái Lan, một thử nghiệm của Dự án “Quản lý rừng bền vững thông qua sự cộng tác” thực hiện tại Khu bảo tồn động vật hoang dã Phu Kheio, tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan. Kết quả chỉ ra rằng, điều căn bản để quản lý bền vững tài nguyên là phải thu hút sự tham gia của các bên liên quan và đặc biệt là phải bao gồm cả phát triển cộng đồng địa phương bằng các hoạt động làm tăng thu nhập của họ [25]. Hệ thống quản lý khu bảo vệ trước đây đã nhấn mạnh các quyền sở hữu và kiểm soát rừng của Nhà nước mà không chú ý tới ảnh hưởng giữa con người và các nguồn tài nguyên, đã dẫn tới những thất bại vì tỉ lệ phá rừng hàng năm
  7. 6 vẫn ở mức cao 2,6%. Một nghiên cứu tại vùng đệm của KBT động vật hoang dã Phu Kheio, Đông Bắc Thái Lan đã giới thiệu một cách tiếp cận mới để quản lý chúng trên cơ sở thu hút sự tham gia của người dân địa phương trong tiến trình. Kết quả thảo luận ở đây cũng đã khẳng định rằng, có một cơ hội để tạo ra một sự hiểu biết tốt hơn giữa người dân nông thôn về tầm quan trọng của trồng rừng và bảo tồn thiên nhiên sẽ dẫn đến một cách quản lý tốt hơn các nguồn tài nguyên trong tương lai [30]. Bink Man W. (1988) trong nghiên cứu của mình thực hiện tại làng Ban Pong, tỉnh S. Risaket, Thái Lan chỉ ra rằng các tầng lớp nghèo phải phụ thuộc vào rừng để chăn thả gia súc và thu hái tài nguyên lâm sản như: củi đun và hoa quả trong rừng. Tuy nhiên đây là một minh hoạ rất cần thiết của người dân địa phương tham gia vào việc lập kế hoạch và thiết kế các dự án phát triển (FAO, 1996).Theo Poffenberger, M. và McGean, B( 1993) trong báo cáo: “Liên minh cộng đồng: đồng quản lý rừng ở Thái Lan” đã có nghiên cứu điểm tại VQG Dang Yai nằm ở đông bắc và khu phòng hộ Nam Sa ở phía bắc Thái Lan. Tại Dang Yai người dân đã chứng minh được khả năng của họ trong việc tự tổ chức các hoạt động bảo tồn đồng thời phối hợp với cục lâm nghiệp Hoàng gia xây dựng hệ thống quản lý rừng đảm bảo ổn định về môi trường sinh thái đồng thời phục vụ lợi ích của người dân trong khu vực. Tại Nam Sa cộng đồng người dân cũng rất thành công trong công tác quản lý rừng phòng hộ. Họ khẳng định nếu chính phủ có chính sách khuyến khích và chuyển giao quyền lực cho họ thì chắc chắn họ sẽ thành công trong việc kiểm soát tài nguyên rừng. Ở Philippines, chiến lược Quốc gia về bảo tồn ĐDSH nêu rõ rằng: "Điều chủ chốt dẫn đến thắng lợi cho bảo tồn ĐDSH là phải bảo đảm rằng các cộng đồng địa phương, những người bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi mọi quyết định về chính sách liên quan đến môi trường, sẽ tham gia vào quá trình lập kế hoạch và quản lý đối với bảo tồn ĐDSH" (Denr và TCSD, 1994) [30]. Ở Indonesia, kế hoạch hành động ĐDSH ghi nhận rằng "Việc tăng cường sự tham gia của công chúng, đặc biệt là cộng đồng sinh sống bên trong và phụ thuộc vào các vùng có tính đa dạng sinh học cao, là mục tiêu chính của kế hoạch hành
  8. 7 động và là điều kiện tiên quyết đối với việc thực hiện kế hoạch (Bappenas, 1993) [30]. Về chính sách lâm nghiệp, Sheppherd G(1986) cho rằng đối với cộng đồng dân cư sống trong và gần các KBTTN, một giải pháp đề nghị là cho phép người dân địa phương củng cố quyền lợi của họ theo cách hiểu của các hệ quản lý nông nghiệp hiện đại, bằng cách trồng cây, cho và nhận đất, nhà nước cần xác định rõ các quyền lợi chính trị của dân trên mảnh đất mà họ nhận với mục đích tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập và giảm tác động đến tài nguyên rừng [21]. Dilmour D.A. (1999) lại cho rằng nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tính kém hiệu quả của các chương trình, dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên là chưa giải quyết tốt mối quan hệ lợi ích giữa các cá nhân trong cộng đồng, giữa lợi ích cộng đồng địa phương với lợi ích quốc gia. Do đó chưa phát huy được năng lực nội sinh của các cộng đồng cho quản lý tài nguyên. Vì vậy, quản lý tài nguyên cần phát triển theo hướng kết hợp giữa hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên với hoạt động sản xuất để cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, thống nhất lợi ích của người dân với lợi ích quốc gia trong hoạt động bảo tồn và phát triển tài nguyên rừng [21]. Theo Nick Salafky và các đồng sự (trong Biodiversity Support Program Washington, DC, USA, 2000) cho rằng vào những năm 90 của thế kỷ trước, các nhà bảo tồn bắt đầu phát triển một cách tiếp cận mới nhằm đáp ứng nhu cầu về lợi ích kinh tế và bảo tồn. Những cách tiếp cận này dựa vào việc thực hiện các hoạt động sinh kế độc lập và có mối liên hệ trực tiếp với bảo tồn. Đặc điểm cơ bản của chiến lược này là mối liên hệ giữa ĐDSH và con người xung quanh. Các chủ thể địa phương có cơ hội hưởng lợi ích trực tiếp từ ĐDSH và như vậy sẽ có thể hạn chế được các tác nhân gây hại từ bên ngoài đối với ĐDSH. Sinh kế sẽ giúp cho bảo tồn ĐDSH chứ không phải cạnh tranh với nhau. Hơn nữa chiến lược này công nhận vai trò của người dân địa phương trong bảo tồn ĐDSH. Cũng trong chiến lược này, các nhà bảo tồn có thể giúp cho người dân địa phương khai thác sử dụng LSNG hoặc phát triển du lịch sinh thái [21].
  9. 8 Tổ chức bảo tồn động thực vật hoang dã quốc tế (WWF) 2001 đã đưa ra một thông điệp chung rất đơn giản: “Hoạt động bảo tồn phải đề cập đến vấn đề xóa đói giảm nghèo như là một phần quan trọng của chính sách bảo tồn tài nguyên rừng” 1.2. Ở trong nước Hiện nay hệ thống KBTTN của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn Quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu Bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển đã và đang được xây dựng trên khắp các vùng, miền cả nước [12]. Cùng với sự ra đời của các VQG và KBTTN rải đều từ Bắc vào Nam thì hệ thống các thể chế, chính sách về công tác bảo tồn cũng đã được thiết lập. Đầu tiên là Luật bảo vệ và phát triển rừng ban hành ngày 12/08/1991 và được sửa đổi ngày 03/12/2004. trong đó quy định rừng đặc dụng bao gồm: + Vườn quốc gia + Khu bảo tồn thiên nhiên gồm: Khu dự trữ thiên nhiên, khu bảo tồn loài, sinh cảnh + Khu bảo vệ cảnh quan gồm: Khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh + Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ban hành ngày 11/01/2001 đã đề cập đến việc Ban quản lý các khu bảo vệ được xây dựng các quy định về phạm vi sử dụng rừng đối với người dân địa phương sinh sống trong các KBT. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/08/2006 về việc ban hành Quy chế quản lý rừng, thay thế quyết định số 08/2001/QĐ-TTg. Theo điều 14 chương II của quy chế quản lý rừng cho biết: Trong VQG và KBTTN được chia thành các phân khu chức năng sau đây: a) Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
  10. 9 - Là khu vực có diện tích vừa đủ để bảo vệ nguyên vẹn hệ sinh thái tự nhiên như mẫu chuẩn sinh thái quốc gia, được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên của rừng và hệ sinh thái. - Đối với rừng đặc dụng ở vùng đất ngập nước, phạm vi và quy mô của phân khu bảo vệ nghiêm ngặt được xác định theo mục tiêu, đối tượng, tiêu chí bảo tồn và điều kiện thuỷ văn. b) Phân khu phục hồi sinh thái Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để khôi phục các hệ sinh thái rừng thông qua việc thực hiện một số hoạt động lâm sinh cần thiết. c) Phân khu dịch vụ - hành chính Là khu vực để xây dựng các công trình làm việc và sinh hoạt của ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí. Bên cạnh đó Quy chế quản lý rừng quy định: Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm liền kề với VQG và KBTTN; bao gồm toàn bộ hoặc một phần các xã, phường, thị trấn nằm sát ranh giới với VQG và KBTTN. Vùng đệm được xác lập nhằm ngăn chặn, giảm nhẹ sự xâm hại của con người tới VQG và KBTTN. Ban quản lý khu rừng đặc dụng tổ chức cho cộng đồng dân cư vùng đệm tham gia các hoạt động bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý lâm sản và các tài nguyên tự nhiên, các dịch vụ du lịch sinh thái để góp phần nâng cao thu nhập và gắn sinh kế của người dân với các hoạt động của khu rừng đặc dụng (điều 24). Theo điều 23 trong quy chế quản lý rừng đã nêu rõ : 1. Việc ổn định đời sống dân cư sống trong các khu rừng đặc dụng thực hiện theo quy định tại Điều 54 của Luật Bảo vệ và phát triển rừng. 2. Diện tích rừng sản xuất nằm xen kẽ trong rừng đặc dụng được bảo vệ, phát triển và sử dụng theo quy định tại Chương IV Quy chế này. 3. Diện tích đất ở, ruộng, vườn và nương rẫy cố định của dân cư sống trong rừng đặc dụng không tính vào diện tích rừng đặc dụng nhưng phải được thể hiện trên bản đồ, cắm mốc ranh giới rõ ràng trên thực địa và quản lý theo quy định của pháp luật về đất đai.
  11. 10 Trong quyết định số 192/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược quản lý hệ thống KBTTN Việt Nam đến năm 2010 đã chỉ rõ : - Kế hoạch quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn thiên nhiên phải tham khảo đầy đủ nguyện vọng về kinh tế và thu hút sự tham gia của các cộng đồng dân cư sống xung quanh KBTTN. - Làm rõ mối quan hệ giữa vùng đệm và khu bảo tồn thiên nhiên bằng các giải pháp xây dựng Qui chế hoạt động và nguyên tắc phối hợp giữa vùng đệm với khu bảo tồn thiên nhiên. Qui định quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia quản lý vùng đệm, đặc biệt đối với cộng đồng các dân tộc trên mỗi địa phương có khu bảo tồn thiên nhiên. Nghị định số 109/2003/ NĐ- CP ngày 23/9/2003 về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng đất ngập nước. Quyết định số 62/2005/QĐ- BNN ngày 12/10/2005 quy định tiêu chí phân loại rừng đặc dụng. Nghị định 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về tổ chức và quản lý hệ thống rừng đặc dụng. Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2020. Trong nhiều năm qua, đã có rất nhiều nhà khoa học quan tâm tới việc nâng cao hiệu quả của các KBTTN và VQG theo quan điểm bảo tồn - phát triển. Đó là làm sao dung hoà mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế - xã hội của người dân địa phương. Theo Donovan D., Rambo A.T, Fox J., Lê Trọng Cúc, Trần Đức Viên (1997), đã đề cập đến các sản phẩm từ rừng và sức ép của người dân địa phương vào rừng. Tác giả đã chỉ ra rằng: Diện tích rừng già ở miền núi phía Bắc Việt Nam đã giảm sút nghiêm trọng do việc khai thác gỗ, củi và các lâm sản khác như: tre nứa, nấm, cây dược liệu, động vật hoang dã và được xem như là nguồn sinh kế chủ yếu của người dân miền núi [10]. Đánh giá hiệu quả của công tác bảo vệ các KBT ở Việt Nam, Nguyễn Bá Thụ (1997) đã nhận định: Công tác này phụ thuộc rất nhiều vào việc giải quyết
  12. 11 những vấn đề tồn tại trên vùng đệm gồm nâng cao đời sống của nhân dân vùng đệm, chuyển đổi hoặc thay thế tập quán dùng củi, gỗ bừa bãi lãng phí của người dân sống trên vùng đệm; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác nông lâm nghiệp, đẩy mạnh thâm canh, nâng cao năng suất cây trồng, nhanh chóng từ bỏ lối canh tác du canh, quảng canh, nâng cao trình độ hiểu biết về bảo tồn, sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên cho người dân địa phương [21]. D.A. Gilmour và Nguyễn Văn Sản (1999), đã thực hiện một nghiên cứu về quản lý vùng đệm tại 3 VQG: Ba Vì, Bạch Mã và Cát Tiên. Kết quả nghiên cứu đã phản ánh khá rõ nét thực trạng vùng đệm ở Việt nam như: Tình hình KT-XH, tình trạng bảo tồn tại các VQG và vùng đệm; hoạt động phát triển trong các vùng đệm; tổ chức, thể chế cho quản lý vùng đệm [9]. Về quan hệ đồng tác trên cơ sở cộng đồng trong vùng đệm các KBTTN, Lê Quý An (2001) đã khẳng định quản lý và phát triển vùng đệm trên cơ sở cộng đồng là phát huy lợi thế của cộng đồng, hạn chế tác động tiêu cực trong các hoạt động bảo tồn. Cộng đồng còn có thể phát huy những mặt hay của phong tục, tập quán trong mối quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên để xây dựng nề nếp của cuộc sống lành mạnh về mặt môi trường, góp sức cho việc bảo tồn [1]. Năm 2001, Đỗ Anh Tuân thực hiện một nghiên cứu điểm tại KBTTN Pù Mát cho đề tài ảnh hưởng của bảo tồn tới sinh kế của các CĐĐP và thái độ của họ về các chính sách bảo tồn. Tác giả chủ yếu đánh giá sự thay đổi sinh kế của người dân địa phương do sự ảnh hưởng của KBT và mức độ chấp nhận của cộng đồng thông qua việc phân tích mối quan hệ giữa cộng đồng và tài nguyên. Nghiên cứu cho rằng hầu hết người dân địa phương vẫn còn sử dụng TNR một cách bất hợp pháp. Tại thời điểm nghiên cứu, trung bình, 34% tổng thu nhập hàng năm của một hộ gia đình trong vùng đệm và 62% tổng thu nhập của một hộ gia đình (HGĐ) trong vùng bảo vệ nghiêm ngặt là từ rừng. Việc thành lập KBTTN (năm 1997) đã làm giảm 30% - 71,4% diện tích đất và khoảng 50% thu nhập từ rừng của người dân địa phương.
  13. 12 Mặc dù đã có một vài chương trình hỗ trợ được thực hiện tại KBTTN, nhưng chúng chưa bù lại được những mất mát do thành lập KBTTN [26]. Nguyễn Bá Ngãi và cộng sự (2002) dưới sự hỗ trợ của chương trình hỗ trợ lâm nghiệp xã hội, trung tâm đào tạo Lâm nghiệp xã hội đã thực hiện một nghiên cứu về khả năng thu hút các cộng đồng địa phương vào quản lý và sử dụng đất lâm nghiệp tại khu phục hồi sinh thái (PHST). Các tác giả cho rằng hệ thống chính sách hiện nay là đầy đủ để có thể thu hút CĐĐP vào quản lý, sử dụng các khu rừng đặc dụng, không thể loại trừ cộng đồng ra khỏi quyền hưởng lợi từ VQG và đề xuất mô hình quản lý đất đai trong khu PHST của VQG Ba Vì [15]. Nguyễn Thị Phương (2003) khi “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương vùng đệm đến tài nguyên rừng VQG Ba Vì- Hà Tây” đã vận dụng phần mềm SPSS trong việc tổng hợp và xử lý số liệu về hình thức tác động và các nguyên nhân tác động và chỉ ra rằng: Cộng đồng ở đây sống chủ yếu bằng nghề nông nhưng diện tích đất nông nghiệp rất ít và năng suất lúa thấp. Vì vậy, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày họ tác động tới tài nguyên rừng dưới nhiều hình thức như: sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá, khai thác sản phẩm với mục đích tiêu dùng, chăn thả gia súc….trong đó hình thức sử dụng đất rừng để sản xuất hàng hoá cho tỷ trọng thu nhập cao nhất trong cơ cấu thu nhập của cộng đồng (36,4%). Tuy nhiên, đề tài chưa đánh giá được mức độ tác động tới tài nguyên rừng của các dân tộc, các nhóm hộ khác nhau [16]. Hoàng Quốc Xạ (2005) đã có sự kết hợp tốt giữa phân tích định tính và định lượng trong việc xác định các hình thức tác động và nguyên nhân tác động khi nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến TNR tại vùng đệm VQG Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp được tác giả đưa ra tuy bao hàm nhiều lĩnh vực song chưa dựa trên các yếu tố đã được phân tích cụ thể tại khu vực nghiên cứu và chưa thể hiện được tính khả thi của các giải pháp đưa ra [37]. Ngô Ngọc Tuyên (2007) đã lượng hoá tốt và thể hiện sinh động ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đển tổng thu nhập của hộ gia đình cũng như mối quan hệ giữa tổng thu nhập với các nhân tố trong khai thác TNR thông qua việc thực hiện
  14. 13 nghiên cứu tác động của người dân địa phương đến TNR tại KBTTN Na Hang, Tuyên Quang. Tác giả đã lựa chọn 4 dân tộc chính trong khu vực, mỗi dân tộc 30 HGĐ để phỏng vấn, nhưng chưa chỉ ra cho người đọc cách thức và nguyên tắc chọn mẫu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, để giải quyết nhu cầu cuộc sống hàng ngày người dân đã tác động tới TNR dưới nhiều hình thức song “sử dụng tài nguyên rừng” là hình thức có tác động bất lợi nhất, các dân tộc khác nhau thì mức độ tác động cũng khác nhau. Nghiên cứu đã sử dụng hàm Cobb-Douglas để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố đến thu nhập của HGĐ, tuy nhiên phân tích mới dừng lại ở 3 yếu tố nguồn lực mà chưa phân tích đến các yếu tố hiệu quả [25]. Khuất Thị Lan Anh (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của cộng đồng địa phương đến tài nguyên rừng tại khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ - tỉnh Bắc Kan” đã nghiên cứu các yếu tố kinh tế và xã hội chi phối các hình thức và mức độ tác động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng. Đề tài đã phần nào lượng hóa được mức độ tác động của người dân tới KBT như: Sử dụng tài nguyên rừng, khai thác các sản phẩm rừng, sử dụng đất rừng để chăn thả gia súc, tác động đến TNR do các nguyên nhân rủi ro, các hoạt động khai thác vàng…Tuy nhiên đề tài chưa đi sâu nghiên cứu các tác động tích cực của người dân. Thêm vào đó, các giải pháp đưa ra còn chung chung, chỉ mang tính chất định hướng, chưa đi sâu vào các giải pháp mang tính khả thi đối với địa phương [2]. Trần Ngọc Thể (2009) khi: “Nghiên cứu tác động của người dân địa phương tới tài nguyên rừng tại VQG Ba Bể - tỉnh Bắc Kạn” đã đưa ra 1 hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tác động của người dân tới các KBT. Ngoài ra đề tài còn lượng hóa được mức độ tác động của người dân tới tài nguyên rừng ở VQG Ba Bể bằng cách phân tích các yếu tố sản xuất ảnh hưởng tới tổng thu nhập của các HGĐ thông qua hàm Cobb-Douglas (hàm sản xuất có độ co giãn không đổi). Nghiên cứu đã đưa 7 biến sản xuất (diện tích đất, số lao động chính, phân bón, đầu tư bằng công, khai thác gỗ, chăn thả gia súc, số khẩu), 11 biến hiệu quả (Học vấn chủ hộ, độ cao, loại kinh tế hộ, mức độ gần rừng, dân tộc DT1T, dân tộc DT2T, mức độ thuận tiện giao thông, khả năng tiếp cận thị trường, tỷ lệ LĐC/số khẩu, số
  15. 14 lần đốt nương rẫy, sử dụng giống) vào mô hình để phân tích, kết quả cho 4 biến sản xuất và 6 biến hiệu quả tồn tại trong mô hình. Kết quả cho thấy: Tồn tại mối quan hệ rất chặt giữa tổng thu nhập từ rừng với 4 yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất và 6 yếu tố hiệu quả với hệ số xác định R2 =0.93( F=14.601, Sig.F=0.000); và 93% biến động của thu nhập được giải thích bởi các yếu tố này. Đây là 1 nghiên cứu mẫu có ý nghĩa tham khảo rất tốt. Tuy nhiên, đề tài chỉ tập trung phân tích các tác động bất lợi của người dân địa phương tới tài nguyên rừng( TNR) của VQG Ba Bể mà chưa quan tâm tới những tác động tích cực của người dân, trong khi đó sự tham gia của người dân theo hướng tích cực là phần không thể thiếu đối với công tác bảo tồn ở bất kỳ VQG nào [29]. Đỗ Thị Hường (2010) khi: “Nghiên cứu các tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – huyện Kim Bôi - tỉnh Hòa Bình” đã đánh giá được tình hình hiện trạng công tác quản lý bảo vệ TNR, phân tích kinh tế HGĐ, nghiên cứu các hình thức và mức độ tác động của người dân đến TNR và tổng thu nhập của các HGĐ ở khu vực nghiên cứu. Đã phân tích sự phụ thuộc, các nguyên nhân dẫn đến sự tác động bất lợi của người dân đến TNR. Đề tài đã đề xuất được một số giải pháp tác động tích cực và hạn chế các tác động bất lợi của cộng đồng người dân tới TNR của KBT, các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể làm tài liệu tham khảo tốt [11]. KBT thiên nhiên Nà Hẩu từ khi thành lập đến nay chưa có một nghiên cứu nào về tác động của người dân tới TNR của khu bảo tồn. Một số nghiên cứu mới điều tra, giám sát các loài chỉ đề cập đến giải pháp bảo tồn đa dạng sinh học, Nguyễn Thị Kim Phượng, năm 2010 “Nghiên cứu tính đa dạng thực vật và sự phân bố của một số loài thực vật quý hiếm trong Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu - huyện Văn Yên - tỉnh Yên Bái” Luận văn thạc sỹ khoa học Lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm nghiệp, Hà Nội [17]. 1.3. Một số kết luận phục vụ cho nghiên cứu Mối quan hệ giữa người dân với công tác bảo tồn ở các KBT và VQG đã và đang được nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Qua một số nghiên cứu,
  16. 15 đã xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn khá đầy đủ cũng như đã lượng hóa được hình thức và mức độ tác động của người dân địa phương tới tài nguyên rừng của các khu rừng đặc dụng. Ở một số nghiên cứu khác lại tập trung vào phân tích mức độ phụ thuộc của người dân vào TNR. Tuy nhiên, cách tiếp cận của các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở khía cạnh phân tích các tác động bất lợi mà chưa đề cập tới các tác động tích cực từ phía người dân trong công tác bảo tồn. Tính đến thời điểm này, vấn đề về biến đổi khí hậu, đa dạng sinh học đang là những mối quan tâm lớn của mọi quốc gia, vì vậy diện tích rừng và chất lượng rừng cần được bảo vệ và nâng cao. Số lượng khu rừng đặc dụng của nước ta ngày càng tăng lên, trong khi đó mỗi khu rừng đặc dụng lại có đặc trưng về quy mô, sinh thái, phân bố dân cư, tình hình kinh tế, xã hội, phong tục tập quán khác nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan hệ giữa cộng đồng người dân với các khu rừng đặc dụng nhằm đề xuất các giải pháp thu hút người dân tham gia công tác bảo tồn ở mỗi KBT, VQG trên phạm vi cả nước là việc cần thiết. Hiện nay hầu hết các giải pháp đưa ra trong những nghiên cứu dạng này còn chung chung, tuy gần đây nhất (năm 2010) có một nghiên cứu đã đưa ra được các giải pháp có cơ sở khoa học và thực tiễn có thể tham khảo tốt nhưng chỉ ở một địa điểm, điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội cụ thể. Vì vậy, những nghiên cứu về vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu và qua thời gian đúc rút sẽ hoàn thiện dần. .
  17. 16 Chương 2 ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 2.1.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những tác động bất lợi của các hộ gia đình đồng bào dân tộc H’Mông, Dao tại các xã Nà Hẩu, Mỏ Vàng, Đại Sơn, vào tài nguyên rừng tại KBTTN Nà Hẩu huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. 2.1.2. Phạm vi nghiên cứu - Luận văn tập trung chủ yếu vào việc xác định các tác động bất lợi của cộng đồng người dân, của các HGĐ Khá, Trung bình và Nghèo vào TNR tại KBTTN Nà Hẩu huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. - Luận văn tập trung cộng đồng người dân sống ở bên trong KBT và vùng đệm của 3 xã Nà Hẩu, Mỏ Vàng, Đại Sơn là đối tượng chính của luận văn. - Luận văn tập trung phân tích các nguyên nhân nội tại của các cộng đồng sống ở PKBVNN (vùng lõi), PKPHST và vùng đệm của KBT và các nguyên nhân bên ngoài gây ra các tác động bất lợi và có lợi tới KBT. 2.2. Mục tiêu nghiên cứu. 2.2.1. Mục tiêu tổng quát Góp phần giải quyết mối quan hệ giữa các cộng đồng sống gần rừng và phụ thuộc vào rừng tại các khu rừng đặc dụng ở Việt Nam, đồng thời góp phần giúp địa phương, Ban quản lý KBT có được những luận cứ khoa học cũng như thực tiễn đề ra giải pháp quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững TNR dựa vào cộng đồng. 2.2.2. Mục tiêu cụ thể - Xác định được các hình thức và mức độ tác động của các hộ gia đình đồng bào dân tộc H’Mông, Dao vào tài nguyên rừng tại KBTTN Nà Hẩu huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
  18. 17 - Xác định được các nguyên nhân chính dẫn đến những tác động bất lợi tới tài nguyên rừng. - Đề xuất được các giải pháp giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân tham gia vào quản lý, bảo vệ, phát triển bền vững tài nguyên rừng tại KBTTN Nà Hẩu huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. 2.3. Nội dung nghiên cứu. - Tình hình công tác tổ chức quản lý bảo vệ TNR tại KBTTN Nà Hẩu - Các hình thức và mức độ tác động của người dân địa phương đến tài nguyên rừng tại KBTTN Nà Hẩu - Phân tích các cơ cấu ảnh hưởng đến kinh tế HGĐ - Ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất tới thu nhập của các HGĐ tại Khu vực nghiên cứu - Các nguyên nhân dẫn tới tác động bất lợi của người dân tới TNR của KBTTN Nà Hẩu. - Đề xuất các giải pháp làm giảm thiểu các tác động bất lợi và thu hút người dân tham gia vào quản lý bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng tại KBTTN Nà Hẩu huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. 2.4. Quan điểm và Phương pháp nghiên cứu. 2.4.1. Quan điểm và phương pháp luận 2.4.1.1. Lý luận về lý thuyết hệ thống Lý thuyết hệ thống được sử dụng như một cơ sở để giải quyết các vấn đề phức tạp và tổng hợp. Hệ thống là một tổng thể có trật tự của các yếu tố khác nhau, có quan hệ và tác động qua lại. Khi nghiên cứu một hiện tượng tự nhiên hoặc xã hội ta phải xem xét đối tượng nghiên cứu trong mối quan hệ với các hiện tượng khác, vì mọi hiện tượng đều có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Mặt khác mỗi hiện tượng đều nằm trong trạng thái biến đổi và phát triển mà nguồn gốc và động lực chủ yếu của hiện tượng đó nằm trong bản thân sự vật, vì vậy việc nghiên cứu một sự vật phải xem lý thuyết hệ thống là nền tảng của phương pháp luận. Vận dụng quan điểm hệ thống
  19. 18 trong phân tích mối quan hệ giữa người dân địa phương và TNR thì có thể thấy được sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ thống KT-XH và tác động tới hệ thống tự nhiên + Sự tác động của người dân địa phương đến TNR là hoạt động trong hệ thống kinh tế có nghĩa là các yếu tố trong hệ thống kinh tế như nguồn thu nhập, chi phí, mức sống, nhu cầu của thị thường, các nguồn sinh kế, lợi nhuận.... có ảnh hưởng tới các hình thức và mức độ tác động của người dân tới TNR. Ngược lại các tác động của người dân đến TNR và mức độ tác động cũng chi phối đến hiệu quả kinh tế của các HGĐ, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, mức độ tác động lớn hay nhỏ... Do các tác động của người dân có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố kinh tế nên có thể tác động vào các yếu tố kinh tế nhằm phát huy tác động tích cực và giảm thiểu tác động bất lợi của người dân tới TNR trong KBT. Đây là một trong những cơ sở lý luận quan trọng để đề xuất các giải pháp kinh tế trong luận văn. + Tác động của người dân tới TNR là hoạt động mang tính xã hội. Bởi con người là trung tâm của các tác động tích cực hoặc bất lợi tới TNR. Các tác động do con người thực hiện và phục vụ cuộc sống của con người cho nên các tác động chịu sự chi phối của của các yếu tố xã hội (nhận thức của người dân về vai trò của rừng, hiểu biết về chính sách, phong tục tập quán, tín ngưỡng, luật pháp, thể chế...). Ngoài ra, các chính sách của KBT, chính quyền địa phương, các quy định riêng của cộng đồng cũng ảnh hưởng tới tác động của người dân địa phương vào TNR. Tuy nhiên tác động của người dân tới TNR cũng thể hiện các yếu tố xã hội trong một cộng đồng (công bằng, bình đẳng , tổ chức và thể chế....). Từ những phân tích trên cho thấy vấn đề nghiên cứu của luận văn có quan hệ qua lại với các yếu tố xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu các nguyên nhân xã hội chi phối các tác động của người dân tới TNR nhằm đề xuất các giải pháp xã hội giảm thiểu các tác động bất lợi của người dân tới TNR là có cơ sở khoa học. + TNR là một hệ thống tự nhiên trong đó các phần tử trong hệ thống có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với nhau. Bất kỳ tác động nào từ bên ngoài tới TNR cũng
  20. 19 dẫn tới sự thay đổi các thành phần và chức năng của hệ thống. Trong tự nhiên TNR tồn tại khách quan, vận động và phát triển theo những quy luật nhất định như: Tái sinh, sinh trưởng và phát triển, diễn thế....Nếu không tôn trọng quy luật vận động của tự nhiên hoặc tác động vượt quá giới hạn chịu đựng của tự nhiện thì hệ thống sẽ suy giảm và có nguy cơ biến mất. Một số người cho rằng: Rừng là tài nguyên có thể tái tạo được. Nếu khai thác tài nguyên rừng ở giới hạn cho phép nào đó thì sau một thời gian rừng có thể phục hồi lại. Lý luận này không sai nhưng nhiều người đã lợi dụng điều này để tác động tới TNR quá mức và không cho thời gian để rừng kịp phục hồi. Vì vậy, để duy trì TNR như một hệ thống hoàn chỉnh trong tự nhiên thì các tác động của con người phải phù hợp với các quy luật vận động của tự nhiên. 2.4.1.2. Quan điểm sinh thái nhân văn Từ lý thuyết sinh thái nhân văn, sinh thái văn hóa áp dụng vào phân tích các tác động tích cực và bất lợi của người dân tới TNR. Mỗi cộng đồng sinh sống và phát triển đều có các hoạt động KT-XH, sinh thái, văn hóa đặc trưng. Những yếu tố này ảnh hưởng tới nhận thức và hành động của mỗi con người trong cộng đồng. Những tác động của người dân tới TNR chịu sự chi phối của các yếu tố KT- XH, sinh thái, văn hóa đó song các yếu tố này tác động tới các hoạt động trong cộng đồng ở các giai đoạn khác nhau thì cũng khác nhau. Có những yếu tố giữ vai trò quan trọng trong cộng đồng vào thời điểm này nhưng lại không phải quan trọng vào thời điểm khác.sử dụng tháp sinh thái - nhân văn của Park (1936) đã được Teherani Kroenner (1992) và Nguyễn Bá Ngãi (2001) mô phỏng để giải thích tác động tích cực và bất lợi của người dân địa phương đến TNR
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2