Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu, đề xuất nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện Yên Lập - tỉnh Phú Thọ, giai đoạn 2011-2020
lượt xem 3
download
Mục đích nghiên cứu của luận văn là quy hoạch lâm nghiệp cho huyện Yên Lập - tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 - 2020 phát triển ổn định, bền vững và phù hợp với quy hoạch 3 loại rừng, quy hoạch vùng NLG và định hướng phát triển chung của tỉnh, huyện. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu, đề xuất nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện Yên Lập - tỉnh Phú Thọ, giai đoạn 2011-2020
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN VĂN BẢY NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT NỘI DUNG CƠ BẢN QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN YÊN LẬP - TỈNH PHÚ THỌ, GIAI ĐOẠN 2011-2020 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Nội, 2010
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP NGUYỄN VĂN BẢY NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT NỘI DUNG CƠ BẢN QUY HOẠCH LÂM NGHIỆP HUYỆN YÊN LẬP - TỈNH PHÚ THỌ, GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 Chuyên ngành lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học TS. NGUYỄN THỊ BẢO LÂM Hà Nội, 2010
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá, không những cung cấp gỗ và các loại lâm sản khác, mà nó còn có giá trị bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái, tạo cảnh quan du lịch, cung cấp oxy, và hấp thụ CO2, tham gia vào việc giữ cán cân oxy làm giảm lượng CO2 trong thành phần của khí quyển, góp phần làm giảm hiệu ứng nhà kính cho trái đất. Với những tác động tiêu cực, khó lường của sự biến đổi khí hậu toàn cầu người ta càng thấy rõ hơn vai trò và ý nghĩa to lớn của rừng. Hiện nay vai trò của rừng nói riêng hay ngành Lâm nghiệp nói chung không những được đánh giá ở khía cạnh kinh tế thông qua những sản phẩm trước mắt thu được từ rừng mà còn tính đến những lợi ích to lớn về xã hội, môi trường mà rừng và nghề rừng mang lại. Sự tác động đến rừng và đất rừng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nghề rừng và sự phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực có rừng mà còn tác động nhiều mặt đến các khu vực phụ cận cũng như nhiều ngành sản xuất khác. Do vậy, để sử dụng tài nguyên rừng một cách bền vững và lâu dài, việc xây dựng phương án quy hoạch hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với các nhà quản lý. Từ trước đến nay, để xây dựng phương án quy hoạch đảm bảo là cẩm nang trong quản lý rừng, người lập quy hoạch cần điều tra đầy đủ, chính xác về: điều kiện tự nhiên; điều kiện kinh tế - xã hội, tình hình kinh doanh và các quy luật cơ bản của tài nguyên rừng trong đối tượng quy hoạch. Tuy nhiên, trong điều tra và nghiên cứu các điều kiện cơ bản (tự nhiên, dân sinh, kinh tế, xã hội,...) để xây dựng phương án QHSDĐLN còn chưa chú ý tới cảnh quan tức là chưa chú ý tới mối tương hỗ giữa các hệ sinh thái trong cảnh quan. Còn xem xét, nghiên cứu các yếu tố cảnh quan (tự nhiên, nhân tạo) một cách riêng rẽ, vì vậy tính khả thi của các phương án QHSDĐLN chưa cao, thường phải điều chỉnh khi thực hiện hoặc nếu không điều chỉnh thì việc sử dụng rừng và đất rừng chưa đúng với tiềm năng vốn có. Do đó, tính bền vững trong quản lý
- 2 rừng thấp, là một trong những nguyên nhân làm cho rừng suy giảm cả về diện tích và chất lượng. Yên Lập là huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, diện tích rừng và đất lâm nghiệp chiếm hơn 70% so với tổng diện tích tự nhiên. Là huyện có diện tích đất lâm nghiệp đứng thứ ba sau huyện Tân Sơn và Thanh Sơn của tỉnh Phú Thọ, một phần diện tích rừng của huyện thuộc vùng đầu nguồn sông Ngòi Giành. Rừng Yên Lập có chức năng cung cấp lâm sản, phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ môi trường sinh thái, góp phần hạn chế thiên tai, bảo vệ sản xuất và đời sống của cộng đồng dân cư trong vùng. Năm 2006, thực hiện việc rà soát quy hoạch lại 3 loại rừng theo Chỉ thị 38/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ, nhằm cân đối lại cơ cấu 3 loại rừng trong đất lâm nghiệp để phát huy tối đa về hiệu quả sử dụng tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp. Kết quả rà soát đã làm thay đổi quy mô, vị trí, diện tích 3 loại rừng, dẫn đến việc thay đổi kế hoạch hàng năm trong công tác quản lý Nhà nước về rừng và đất lâm nghiệp. Những thay đổi trên đòi hỏi phải xây dựng quy hoạch, lập kế hoạch và triển khai phương án quy hoạch lâm nghiệp hợp lý, có cơ sở khoa học phù hợp với thực tế, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người dân trong vùng, thực hiện xoá đói giảm nghèo và đưa kinh tế xã hội miền núi phát triển hoà nhập với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những vấn đề trên, để có những cơ sở khoa học góp phần quy hoạch phát triển lâm nghiệp huyện theo hướng bền vững, trên cơ sở tiềm năng đất đai, quy hoạch phát triển lâm nghiệp phải coi trọng cả 4 khâu: trồng, bảo vệ, làm giàu rừng và sử dụng có hiệu quả tài nguyên rừng. Quy hoạch Phát triển lâm nghiệp phải đặt trong mối quan hệ tổng thể, hài hòa và ăn khớp với quá trình chuyển đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế; không gây cản trở mà phải hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển. Đó là lý do tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất nội dung cơ bản quy hoạch lâm nghiệp huyện Yên Lập - tỉnh Phú Thọ, giai đoạn 2011 - 2020”.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU Ngày nay, tài nguyên rừng của thế giới cũng như ở Việt Nam đã và đang bị thu hẹp về diện tích, giảm sút về chất lượng, môi trường bị suy thoái, ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng dẫn đến thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh xảy ra ngày càng tăng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do áp lực về dân số, kéo theo hoạt động kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp, sự đô thị hoá cũng diễn ra với tốc độ nhanh. Chính vì vậy, việc quy hoạch sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên rừng cũng như xây dựng nền lâm nghiệp bền vững không còn là trách nhiệm riêng của một quốc gia nào mà là công việc chung của toàn nhân loại. 1.1. Trên thế giới Việc quản lý sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững nói chung và tài nguyên rừng nói riêng đã và đang được các nhà khoa học trong nước và trên thế giới quan tâm. Tuỳ theo cách nhìn nhận về quy hoạch lâm nghiệp sao cho hợp lý đã được nhiều tác giả đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên quan đến tài nguyên rừng phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời đảm bảo sử dụng nó theo hướng lâu dài và bền vững. Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ tính đa dạng sinh học, các đặc điểm xã hội và nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng tài nguyên rừng trên thế giới luôn gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Quy hoạch
- 4 lâm nghiệp luôn phụ thuộc vào Quy hoạch vùng và Quy hoạch cảnh quan trong quá trình xây dựng phương án quy hoạch 1.1.1. Quy hoạch vùng Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng. - Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân tộc đó được phát triển đến mức độ nào” - Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất cho một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng và tương lai phát triển của vùng đó. Dựa trên học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hóa phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ nghĩa. Sự phân bố lực lượng sản xuất được xác định theo các nguyên tắc sau: - Phân bố lực lượng sản xuất có kế hoạch trên toàn bộ lãnh thổ của đất nước, tỉnh, huyện nhằm thu hút các nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động của tất cả các vùng và quá trình tái sản xuất mở rộng. - Kết hợp tốt lợi ích của Nhà nước và nhu cầu phát triển kinh tế của từng tỉnh và từng huyện. - Đưa các xí nghiệp công nghiệp đến gần nguồn nguyên liệu để hạn chế chi phí vận chuyển. - Kết hợp chặt chẽ các ngành kinh tế quốc dân ở từng vùng, từng huyện nhằm nâng cao năng suất lao động và sử dụng hợp lý tiềm năng thiên nhiên.
- 5 - Tăng cường toàn diện tiềm lực kinh tế và quốc phòng bằng cách phân bố hợp lý và phát triển đồng đều lực lượng sản xuất ở các vùng, huyện. 1.1.1.1. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari a. Mục đích - Sử dụng một cách hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước. - Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng. - Xây dựng đồng bộ môi trường sống. Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: + Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ. + Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người vào đây rất ít. + Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát. + Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có sự tác động của con người. + Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. + Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người. b. Nội dung của quy hoạch Quy hoạch lãnh thổ địa phương là thể thiện quy hoạch chi tiết các liên hiệp nông - công nghiệp và giải quyết các vấn đề sau: - Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp. - Phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp theo ngành dọc. - Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ công cộng và sản xuất. - Tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp trong phạm vi hệ thống nông thôn.
- 6 - Bảo vệ môi trường thiên nhiên và tạo điều kiện tốt nhất cho nhân dân lao động ăn, ở, nghỉ ngơi. 1.1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Pháp Trong mô hình quy hoạch vùng ở Pháp, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng buộc trong nội vùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là một bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc như sau: a) Các hoạt động sản xuất - Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển (truyền thống). - Hoạt động khai thác rừng. - Hoạt động đô thị: chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ thương mại.. b) Nhân lực theo các dạng thuê thời vụ, các loại lao động nông nghiệp, lâm nghiệp. c) Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào ràng buộc về diện tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực ... Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hoá trong điều kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài. 1.1.1.3. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Thái Lan Công tác qui hoạch phát triển vùng được chú ý từ những năm 1970. Về hệ thống phân vị, qui hoạch tiến hành theo ba cấp: Quốc gia, vùng, á vùng hay địa phương. - Vùng (Region) được coi như là một á miền (Subdivision) của đất nước đó là điều cần thiết để phân chia Quốc gia thành á miền theo các phương diện khác nhau như: phân bố dân cư, khí hậu, địa hình,... đồng thời vì lý do
- 7 quản lý hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như: đơn vị hành chính hay đơn vị bầu cử. - Qui mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước và diện tích của đất nước. Thông thường vùng nằm trên một diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất. Sự phân bố các vùng theo mục đích của qui hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ. - Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2 cách: Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sau đó kế hoạch vùng được giải quyết trong kế hoạch Quốc gia. Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các kế hoạch đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia. Qui hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước, phải phối hợp với Chính phủ và chính quyền địa phương. Dự án phát triển của Hoàng gia Thái Lan đã xác định được vùng nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế xã hội và chính trị ở Thái Lan và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm (1961 - 1988 và 1992 - 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nông nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6 %, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường [24]. 1.1.2. Quy hoạch cảnh quan Thuật ngữ “cảnh quan - Landscape” là tổng thể lãnh thổ tự nhiên của bất kỳ một quy mô nào, có sự đồng nhất tương đối về một số hợp phần tự nhiên nào đó, chúng mang tính chất kiểu loại và được phân loại theo các chỉ tiêu dấu hiệu của sự đồng nhất đó. Cảnh quan được các nhà cảnh quan học Trung Quốc lý giải theo 3 cách:
- 8 - Theo phương diện mỹ học, thì cảnh quan đồng nghĩa với từ “phong cảnh”. Cảnh quan là đối tượng thẩm mỹ, mà rừng được xem là phong cảnh (rừng phong cảnh) - Theo phương diện địa lý thì cảnh quan là tổng hợp các thành phần sinh vật, địa mạo, thổ nhưỡng, khí hậu trên bề mặt địa cầu. Khái niệm cảnh quan này rất gần gũi với thuật ngữ hệ sinh thái hoặc quần lạc sinh địa. - Cảnh quan sinh thái học. Cảnh quan là sự tổ hợp các hệ sinh thái khác nhau trong một không gian. Một cảnh quan bao gồm sự tụ họp của một số hệ sinh thái ở liền kề nhau có sự ảnh hưởng lẫn nhau, có chức năng liên quan hỗ trợ và phát sinh đặc điểm nhất định trong một không gian. Cảnh quan có thể thay đổi phụ thuộc vào hình dáng vật lý và vị trí như đỉnh núi, hồ, biển hay đất liền. Cảnh quan cũng có thể chia thành cảnh quan nông thôn hay thành thị tùy thuộc vào mức độ “nhân tạo” của cảnh quan đó. Quy hoạch cảnh quan là một hướng nghiên cứu trong khoa học kiến trúc cảnh quan, lý luận và thực tiễn đã có từ khá lâu, nhưng danh từ này thực sự trở thành thuật ngữ khoa học và được nhiều người công nhận thì mới bắt đầu những năm 70 của thế kỷ 20 (Sedon, 1986). Trong cuốn sách được công bố “land use and landscape planning” (Dereh Loviejoy, 1973), quy hoạch cảnh quan là sự sắp xếp mục đích sử dụng thích hợp nhất cho một nơi nào đó có quy mô tương đối lớn. Có nhiều cách hiểu về quy hoạch cảnh quan, nhưng có lẽ điều mà được nhiều người thừa nhận, thì quy hoạch cảnh quan là quá trình điều tiết mối quan hệ hài hòa giữa con người và tự nhiên trên một phạm vi vĩ mô, dựa trên cơ sở nhận thức về tự nhiên và quá trình nhân văn (Stiner and Osterman, 1988; Sedon, 1986; Langevelde, 1994). Mục đích chung nhất của quy hoạch cảnh quan là thông qua quy hoạch sử dụng đất, bảo tồn và lợi dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững. Trên quan điểm này, thì cảnh quan chính là một hệ sinh thái, do đó cảnh quan
- 9 được quy hoạch muốn đạt được tính bền vững, phải dựa trên những nhận thức và lý luận của sinh thái học (Sedon, 1986; Leita and Ahern, 2002). - Các nghiên cứu làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan sinh thái + Nghiên cứu tính đa dạng sinh học. Tính đa dạng sinh học đối với môi trường sống của con người có tầm quan trọng đặc biệt, sự đa dạng sinh học có quan hệ chặt chẽ tới đa dạng cảnh quan, Vì vậy, các nhà sinh học ở Mỹ (California), Nam phi, Chi lê, Australia (Mayer, Lugo, Wilson) đã tiến hành nghiên cứu sự đa dạng sinh học để làm cơ sở cho quy hoạch cảnh quan các khu vực rừng nguyên sinh. Duy trì tính đa dạng cảnh quan, đa dạng loài và tính đa dạng di truyền là một trong những mục tiêu chủ yếu của quản lý tài nguyên thiên nhiên núi chung, quản lý rừng nói riêng. + Để làm cơ sở quy hoạch cảnh quan sinh thái cho các khu bảo tồn, các nhà khoa học gồm Simpson, Shannnon - Weiner, Richness đã tập trung nghiên cứu về chỉ số đa dạng sinh học. Chỉ số đa dạng sinh học là cơ sở đánh giá đa dạng cảnh quan sinh thái khi tiến hành quy hoạch cảnh quan. 1.1.3. Quy hoạch lâm nghiệp Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy. Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “ Khoanh khu chặt luân chuyển”, có nghĩa đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh
- 10 khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn. Sau Cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 Phương thức kinh doanh rừng chồi được thay bằng Phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài. Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “Chia đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816, xuất hiện Phương thức luân kỳ lợi dụng của H. Cotta, Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời, quan điểm phương pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ 19, xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich. Phương pháp này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra” [21].
- 11 Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và 40 thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946, Jack G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên “phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây, nay là cộng hoà Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, Tạp chí “East African Journal for Agriculture Forestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam châu Phi. Năm1966, Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong qui hoạch sử dụng đất. 1.2. Ở Việt Nam 1.2.1. Quy hoạch cảnh quan sinh thái Quy hoạch cảnh quan là một qúa trình xây dựng kế hoạch quản lý đất đai cho một vùng đất trên cơ sở nghiên cứu sinh thái cảnh quan, nghiên cứu đến thế giới sinh vật, vật chất và năng lượng có thể tồn tại và lưu thông ngay trong Cảnh quan đó. Con người là một thành phần của thiên nhiên, tác động của con người tới thiên nhiên là một yếu tố then chốt ảnh hưởng tới các chức năng của Cảnh quan. Sinh thái cảnh quan giúp xác định những khiếm khuyết của chúng ta trong quá khứ, và cũng như vậy giúp ta xác định cách tiếp cận tốt hơn để có thể đáp ứng nhu cầu của con người mà không gây ảnh hưởng không bền vững tới các hệ sinh thái tự nhiên. Mục tiêu của quy hoạch cảnh quan là để bảo vệ các thành phần chủ yếu của hệ sinh thái cảnh quan và giữ lại các dòng chuyển động sống và … Một mục tiêu khác là hướng các hoạt động của con người khỏi những nơi dễ bị tổn hại sinh thái.
- 12 Một Cảnh quan không có một kích thước cố định, do vậy quy hoạch cảnh quan có thể thực hiện ở những quy mô khác nhau Thành phần chính của cảnh quan có thể chia thành 2 loại là tự nhiên/sinh thái, như rừng, sông hồ và nhân tạo như đất canh tác, thôn bản vv... Các yếu tố cảnh quan nhân tạo lại có thể chia thành các yếu tố sản xuất, văn hóa, lịch sử vv... Mối tương quan tỷ lệ về thành phần cùng quan hệ tương hỗ giữa hai thành phần này luôn biến đổi theo thời gian, điều này làm cho cảnh quan kiến trúc luôn vận động và phát triển. Theo Nguyễn Thế Thôn “Cảnh quan sinh thái là tổng thể lãnh thổ hiện tại, có cấu trúc cảnh quan địa lý và có chức năng sinh thái của các hệ sinh thái đang tồn tại và phát triển trên đó. Các cảnh quan sinh thái được phân biệt với nhau theo cấu trúc cảnh quan và theo chức năng sinh thái khác nhau trên các phần lãnh thổ khác nhau”. - Việc nghiên cứu cảnh quan trong lâm nghiệp đã được Nguyễn Văn Khánh vận dụng trong đề tài “Góp phần nghiên cứu phân vùng lập địa lâm nghiệp Việt Nam”. Tác giả xác lập cho toàn quốc theo 6 cấp phân vị: Miền - á miền - vùng - tiểu vùng - dạng đất đai - dạng lập địa. Trong đó 4 cấp phân vị đầu áp dụng cho vùng lớn, 2 cấp sau là đơn vị phân loại cơ bản (vi mô) thường được sử dụng trong điều tra đánh giá ở phạm vi hẹp (xã, lâm trường, tiểu khu, khoảnh). Đề tài mới dừng lại nghiên cứu ở 4 cấp phân vị đầu, căn cứ vào các yếu tố: chế độ nhiệt mùa đông, chế độ mưa, địa mạo, kiểu khí hậu, kiểu địa hình và nhóm đất để chia toàn quốc thành: 2 miền, 4 á miền, 12 vùng lập địa, 407 tiểu vùng lập địa. Dựa vào kết quả đạt được, tác giả đề xuất những định hướng lớn trong sản xuất kinh doanh lâm nghiệp như về chọn loài cây trồng rừng, xác định các tiểu vùng phòng hộ đầu nguồn, lập kế hoạch sản xuất lâm nghiệp trong năm theo á miền, lập các trạm trại nghiên cứu lâm nghiệp .
- 13 - Các tác giả Đỗ Đình Sâm và Nguyễn Ngọc Bình chủ biên công trình “Đánh giá tiềm năng sản xuất đất lâm nghiệp Việt Nam” (2001)[11]. Trong công trình các tác giả đã tiến hành đánh giá đất lâm nghiệp trong phạm vi toàn quốc trên 8 vùng kinh tế sinh thái lâm nghiệp, ở trên 4 đối tượng chính: đất vùng đồi núi, đất cát biển, đất ngập mặn sú vẹt, đất chua phèn. Qua nghiên cứu các tác giả đã đề xuất được các vùng thích hợp đối với một số loài cây trồng. - Trong Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 1996- 2020 đã căn cứ vào phân vùng kinh tế-sinh thái để xây dựng kế hoạch phát triển lâm nghiệp cho từng vùng (9 vùng): Tây Bắc, Đông Bắc, Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ, Duyên hải Nam Trung bộ, Tây Nguyên, Đông Nam bộ, Đồng bằng sông Cửu Long)[10]. - Các mô hình quy hoạch cảnh quan trong lâm nghiệp có: Quy hoạch không gian Khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang - Hà Tĩnh. Quy hoạch không gian Vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa....Trong các phương án quy hoạch cho các khu rừng đặc dụng này đã đề xuất và chấp nhận sự tham gia của cộng đồng vào hoạt động quản lý bảo vệ , vì vậy đã nâng cao được nhận thức, hạn chế xung đột giữa hoạt động của con người với nhiệm vụ bảo tồn đa dạng sinh học. - Gần đây (tháng 10/2009), với sự tài trợ của Ngân hàng Thế giới (WB), tại Thừa Thiên Huế đã tiến hành hội thảo quy hoạch cảnh quan cho 7 xã thuộc 3 huyện. Các vấn đề nêu ra tại hội thảo đang còn là bước đi đầu tiên trong việc tiếp cận một cách nhìn mới trong quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp (QHSDĐLN), thậm chí mới dừng lại ở phương pháp QHSDĐLN có sự tham gia của cộng đồng dân cư và cấp chính quyền sở tại.... Vì vậy, nghiên cứu và ứng dụng phương pháp quy hoạch cảnh quan vào trong QHSDĐLN là vấn đề tương đối mới lạ, mặc dù công tác quy hoạch SDĐLN đã và đang thực hiện đều trên cơ sở đề cập và phân tích đầy đủ các yếu tố tự nhiên, kinh tế- xã hội.
- 14 1.2.2. Quy hoạch vùng chuyên canh Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh lúa nước ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long; các vùng cây công nghiệp ngắn ngày: Vùng Mía đường (Thanh Hoá, Quảng Ngãi, Nghệ An); Vùng cây công nghiệp dài ngày: Vùng Cao su - Cà phê (Tây Nguyên ), Vùng Chè công nghiệp (Thái Nguyên ) vv... a) Tác dụng của quy hoạch vùng chuyên canh: - Xác định phương hướng sản xuất, chỉ ra những vùng chuyên môn hoá và những vùng có khả năng hợp tác kinh tế. - Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp Nhà nước tập trung đầu tư vốn đúng đắn. - Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và sản phẩm hàng hoá của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhu cầu lao động. - Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển nghiên cứu tổ chức quản lý kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ. Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ cấu cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng tập trung để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng xuất, sản lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, kế hoạch của các cơ sở sản xuất. b) Nội dung chủ yếu của quy hoạch vùng chuyên canh: - Xác định quy mô, ranh giới vùng. - Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất. - Bố trí sử dụng đất đai. - Xác định quy mô, ranh giới, nhiệm vụ chủ yếu cho các xí nghiệp trong vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp.
- 15 - Xác định hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống. - Tổ chức và sử dụng lao động. - Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế. - Dự kiến tiến độ thực hiện quy hoạch. 1.2.3. Quy hoạch lâm nghiệp Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta từ thời kỳ Pháp thuộc. Như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng Thông theo phương pháp hạt đều ... Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả ước lượng tài nguyên rừng. Năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Mãi đến năm 1960 - 1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường và mở rộng. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy hoạch của các Sở Lâm nghiệp (nay Sở Nông nghiệp & PTNT) không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của các nước ngoài cho phù hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [21]. Theo Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020 một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp & PTNT đánh giá là: “Công tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loạ irừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa.. ”[10]. Đây cũng là nhiệm vụ đặt ra ngày càng phải được hoàn thiện đối với ngành lâm nghiệp.
- 16 1.2.3.1. Đặc thù của công tác quy hoạch lâm nghiệp - Địa bàn quy hoạch lâm nghiệp rất đa dạng, phức tạp (bao gồm cả vùng ven biển, trung du, núi cao và biên giới, hải đảo), thường có địa hình cao, dốc, chia cắt phức tạp, giao thông đi lại khó khăn và có nhiều ngành kinh tế hoạt động. - Là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người, trình độ dân trí thấp, kinh tế xã hội chậm phát triển, đời sống vật chất và tinh thần còn gặp nhiều khó khăn. - Cây lâm nghiệp có chu kỳ kinh doanh dài (ngắn 8-10 năm, dài 40- 100 năm). - Mục tiêu của quy hoạch lâm nghiệp cũng rất đa dạng: Quy hoạch rừng phòng hộ (phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ ven biển, phòng hộ môi trường); Quy hoạch rừng đặc dụng (các vườn Quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu di tích văn hoá - lịch sử - danh thắng) và quy hoạch phát triển các loại rừng sản xuất. - Quy mô của công tác quy hoạch lâm nghiệp bao gồm cả tầm vĩ mô và vi mô: Từ quy hoạch toàn quốc cho đến quy hoạch phát triển lâm nghiệp xã và làng lâm nghiệp. * Những yêu cầu của công tác quy hoạch lâm nghiệp phục vụ chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Công tác quy hoạch lâm nghiệp được triển khai dựa trên những chủ trương, chính sách và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước và chính quyền các cấp trên từng địa bàn cụ thể. Với mỗi phương án quy hoạch lâm nghiệp phải đạt được: - Hoạch định rõ ranh giới đất nông nghiệp - đất lâm nghiệp và đất do các ngành khác sử dụng; Trong đó, đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp được quan tâm hàng đầu vì là hai ngành chính sử dụng đất đai.
- 17 - Trên phần đất lâm nghiệp đã được xác định, tiến hành hoạch định 3 loại rừng (phòng hộ, đặc dụng và sản xuất). Từ đó xác định các giải pháp lâm sinh thích hợp với từng loại rừng và đất rừng (bảo vệ, làm giàu rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, trồng rừng mới, nuôi dưỡng rừng, nông lâm kết hợp....khai thác lợi dụng rừng). - Tính toán nhu cầu đầu tư: Vì là phương án quy hoạch nên việc tính toán nhu cầu đầu tư chỉ mang tính khái quát, phục vụ cho việc lập kế hoạch sản xuất ở những bước tiếp theo. - Xác định một số giải pháp đảm bảo thực hiện những nội dung quy hoạch (giải pháp lâm sinh, khoa học công nghệ, cơ chế chính sách, giải pháp về vốn, lao động ...) - Đổi mới một số phương án quy hoạch có quy mô lớn (cấp toàn quốc, vùng, tỉnh) còn đề xuất các chương trình, dự án cần ưu tiên để triển khai bước tiếp theo là lập Dự án đầu tư hoặc báo cáo nghiên cứu khả thi[21]. 1.2.3.2. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp 1) Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý SXKD Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý SXKD bao gồm: Quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp; Quy hoạch lâm trường; Quy hoạch lâm nghiệp cho các đối tượng khác (quy hoạch cho các khu rừng phòng hộ; quy hoạch các khu rừng đặc dụng và quy hoạch phát triển sản xuất lâm nông nghiệp cho các cộng đồng làng bản và trang trại lâm nghiệp hộ gia đình). Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp mà lựa chọn các nội dung quy hoạch cho phù hợp [21]. 2) Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính: Từ toàn quốc tới tỉnh (thành phố trực thuộc trung ương), huyện (thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển, mỗi đơn vị đều
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn