Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái
lượt xem 2
download
Đề tài góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng của huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái; đánh giá hiện trạng quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp, điều kiện tự nhiên, tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện; đề xuất các nội dung cơ bản của quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện trong 8 năm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu đề xuất quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP -------------------------------- ĐÀO HUY DŨNG NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG HUYỆN MÙ CANG CHẢI TỈNH YÊN BÁI Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.02.01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Trần Hữu Viên Hà Nội, 2013
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Công tác quản lý bảo vệ rừng, phát triển rừng là một khâu quan trọng trong ngành lâm nghiệp và trong phát triển kinh tế xã hội. Trong suốt quá trình xây dựng phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong nhiều thập kỷ qua ngành lâm nghiệp nói chung và công tác lập quy hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng nói riêng đã phát huy tác động to lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Hiện nay, vai trò của rừng nói riêng hay ngành Lâm nghiệp nói chung không những được đánh giá ở khía cạnh kinh tế thông qua những sản phẩm trước mắt thu được từ rừng mà còn tính đến những lợi ích to lớn về xã hội, môi trường mà rừng và nghề rừng mang lại. Sự tác động đến rừng và đất rừng không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến nghề rừng và sự phát triển kinh tế - xã hội tại khu vực có rừng mà còn tác động nhiều mặt đến các khu vực phụ cận cũng như nhiều ngành sản xuất khác. Do vậy, để sử dụng tài nguyên rừng một cách bền vững và lâu dài, việc xây dựng phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng hợp lý là yêu cầu cấp thiết đối với các nhà quản lý. Huyện Mù Cang Chải có tổng diện tích đất đai tự nhiên tương đối lớn so với các huyện trong tỉnh với 119.773,36 ha. Huyện có tiềm năng về đất sản xuất lâm nghiệp với 3 chức năng là đặc dụng, phòng hộ và sản xuất, diện tích đất rừng tự nhiên chiếm tỷ lệ lớn, đa số diện tích đất lâm nghiệp có địa hình phức tạp, chia cắt, độ dốc lớn, nằm dọc theo sườn dãy núi phụ Hoàng Liên. Các diện tích đất này được giao quản lý sử dụng với các hình thức sau: Diện tích đất rừng đặc dụng giao cho Khu bảo tồn loài và sinh cảnh huyện Mù Cang Chải, rừng phòng hộ do Ban quản lý rừng phòng hộ huyện làm chủ đầu tư giao khoán khoanh nuôi tái sinh và bảo vệ rừng cho các hộ gia đình. Diện tích đất rừng sản xuất do UBND giao và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình quản lý bảo vệ và sử dụng. Thông qua hiện trạng và tình hình sử dụng đất đai ở địa phương cho thấy, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà hiệu quả sử dụng đất nhìn chung còn thấp, giá trị
- 2 thu nhập trên một đơn vị diện tích chưa cao, sản phẩm sản xuất ra phần lớn là đáp ứng nhu cầu tại chỗ chưa thực sự trở thành hàng hoá, chính vì vậy đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Trong những năm tới cần có quy hoạch, kế hoạch khai thác sử dụng đất đai vào các ngành, mục đích một cách khoa học hợp lý trên cơ sở tiết kiệm nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đồng thời cần hạn chế tới mức thấp nhất những tác động xấu đến môi trường nói chung và hệ sinh thái rừng nói riêng. Với những lý do trên và để hoàn thiện hoàn thành chương trình đào tạo thạc sỹ của mình tôi tiến hành luận văn với đề tài: “Nghiên cứu đề xuất quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái” nhằm hoàn thiện hơn nữa công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng trên địa bàn huyện.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Nhận thức chung về quy hoạch Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng là một hoạt động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí tổ chức các hoạt động trong không gian và thời gian một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong tương lai. 1.1.1. Quy hoạch sử dụng đất Hiện nay có rất nhiều tài liệu nghiên cứu định nghĩa về QHSDĐ khác nhau từ đó đưa đến những việc phát triển quan điểm và phương pháp được sử dụng trong QHSDĐ cũng khác nhau. Theo Dent (1988; 1993) [19]: QHSDĐ như là phương tiện giúp cho lãnh đạo quyết định sử dụng đất đai như thế nào thông qua việc đánh giá có hệ thống cho việc chọn mẫu hình trong sử dụng đất đai, mà trong sự lựa chọn này sẽ đáp ứng với mục tiêu riêng biệt, và từ đó hình thành nên chính sách và chương trình cho sử dụng đất đai. Một định nghĩa khác của Fresco và ctv (1993) [29], QHSDĐ như là dạng hình của quy hoạch vùng, trực tiếp cho thấy việc sử dụng tốt nhất về đất đai trên quan điểm chấp nhận những mục tiêu, và những cơ hội về môi trường, xã hội và những vấn đề hạn chế khác. Theo Mohammed (1999) [19], những từ vựng kết hợp với định nghĩa về QHSDĐ là hầu hết đều đồng ý chú trọng và giải đoán những hoạt động như là một tiến trình xây dựng quyết định cấp cao. Do đó QHSDĐ, trong một thời gian dài với quyết định từ trên xuống nên cho kết quả là nhà quy hoạch bảo người dân phải làm những gì. Trong phương pháp tổng hợp và người sử dụng đất đai là trung tâm (UNCED, 1992; trong FAO, 1993)[28] đã đổi lại định nghĩa về QHSDĐ như sau QHSDĐ là một tiến trình xây dựng những quyết định để đưa đến những hành động trong việc phân chia đất đai cho sử dụng để cung cấp những cái có lợi bền vững nhất (FAO, 1995).
- 4 Với cái nhìn về quan điểm khả năng bền vững thì chức năng của QHSDĐ là hướng dẫn sự quyết định trong sử dụng đất đai để làm sao trong nguồn tài nguyên đó được khai thác có lợi cho con người, nhưng đồng thời cũng được bảo vệ cho tương lai. Cung cấp những thông tin tốt liên quan đến nhu cầu và sự chấp nhận của người dân, tiềm năng thực tại của nguồn tài nguyên và những tác động đến môi trường có thể có của những sự lựa chọn là một yêu cầu đầu tiên cho tiến trình quy hoạch sử dụng đất đai thành công. Ở đây đánh giá đất đai giữ vai trò quan trọng như là công cụ để đánh giá thực trạng của đất đai khi được sử dụng cho mục đích riêng biệt (FAO, 1976) [27] hay như là phương pháp để giải nghĩa hay dự đoán tiềm năng sử dụng của đất đai (Van Diepen và ctv., 1988). Do đó có thể định nghĩa: “Quy hoạch sử dụng đất là sự đánh giá tiềm năng đất nước có hệ thống, tính thay đổi trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội để chọn lọc và thực hiện các sự chọn lựa sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng thời quy hoạch sử dụng đất đai cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng đất đai đó mà nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tương lai” [19]. Lê Quang Trí (2005) [19]: QHSDĐ là sự đánh giá tiềm năng đất nước có hệ thống, tính thay đổi trong sử dụng đất đai và những điều kiện kinh tế xã hội để chọn lọc và thực hiện các sự lựa chọn sử dụng đất đai tốt nhất. Đồng thời QHSDĐ cũng là chọn lọc và đưa vào thực hành những sử dụng đất đai đó mà nó phải phù hợp với yêu cầu cần thiết của con người về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tương lai. Do đó trong quy hoạch cho thấy: Những sự cần thiết phải thay đổi; Những cần thiết cho việc cải thiện quản lý, hay những cần thiết cho kiểu sử dụng đất đai hoàn toàn khác nhau trong các trường hợp cụ thể khác nhau. Các loại sử dụng đất đai bao gồm: Đất ở nông nghiệp (thủy sản, chăn nuôi …) đồng cỏ, rừng, bảo vệ thiên nhiên và du lịch đều phải được phân chia một cách cụ thể theo thời gian được quy định. Do đó trong QHSDĐ phải cung cấp những hướng dẫn cụ thể giúp cho các nhà quyết định có thể lựa chọn trong các trường hợp
- 5 có sự mâu thuẫn giữa đất nông nghiệp và phát triển đô thị hay công nghiệp hóa bằng cách chỉ ra các vùng đất đai nào có giá trị nhất cho đất nông nghiệp và nông thôn mà không nên sử dụng cho các mục đích khác. Quy hoạch sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của nhà nước về tổ chức sử dụng đầy đủ, hợp lý, có hiệu quả cao thông qua việc phân phối và tái phân phối quỹ đất (cả nước hoặc tổng phạm vi một đơn vị, đối tượng sử dụng đất cụ thể), tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất cùng với các tư liệu sản xuất khác gắn liền với đất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất, hiệu quả sản xuất xã hội tạo điều kiện bảo vệ đất và bảo vệ môi trường [23]. 1.1.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ Theo Nguyễn Nhật Tân - Nguyễn Thị Vòng (1995) [17] Quy hoạch vùng lãnh thổ là hệ thống các biện pháp xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý gắn liền với cơ cấu đất đai và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, các công trình kinh tế - văn hóa – xã hội, nguồn lao động, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế, xã hội nông thôn mới và xã hội mới. Quy hoạch vùng lãnh thổ là khoa học về quản lý tài nguyên mang cả 3 tính chất: Kinh tế, kỹ thuật và pháp lý. Là cơ sở để lập dự án đầu tư phát triển kinh tế và xây dựng nông thôn mới. Sự phát triển của khoa học quy hoạch vùng lãnh thổ liên quan đến sự phát triển của các quản lý phát triển kinh tế và phân bố lực lượng sản xuất trên địa bàn lãnh thổ. Quy hoạch phát triển nông thôn là quy hoạch tổng thể, nó bao gồm tổng hợp nhiều nội dung hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế văn hóa xã hội và môi trường liên quan đến vấn đề phát triển con người trong các cộng đồng nông thôn theo các tiêu chuẩn của phát triển bền vững. Về khái niệm quy hoạch phát triển nông thôn có thể tiếp cận theo 2 góc độ, đứng trên góc độ phân bố lực lượng sản xuất, quy hoạch phát triển nông thôn là sự phân bố các nguồn lực tài nguyên, đất đai, lao động, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, sự bố trí cơ cấu kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trên lãnh thổ nông thôn một cách hợp lý để đạt hiệu quả cao. Đứng trên góc độ kế
- 6 hoạch hóa, quy hoạch phát triển nông thôn là một khâu trong quy trình kế hoạch hóa nông thôn. Bắt đầu tự chiến lược phát triển kinh tế xã hội nông thôn đến quy hoạch phát triển nông thôn rồi cụ thể hóa bằng các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn trên địa bàn nông thôn [9]. Đặc điểm của quy hoạch là quy hoạch thường mang tính định hướng về tương lai, vì vậy quy hoạch phải có mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu không thể hình thành do ý nghĩa chủ quan của một số người làm quy hoạch, cũng không thể hình thành chóng vánh trong ngày một ngày hai mà nó phải trải qua một quá trình tìm tòi, cân nhắc lâu dài từ tổng quát đến chi tiết, từ cục bộ đến toàn diện. Mục tiêu phải có tính khả thi, nếu quy hoạch không hướng về tương lai thì chỉ là một việc làm tốn kém, một bức tranh không có lợi ích [9]. 1.1.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng Lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các hoạt động gắn liền với sản xuất hàng hóa và dịch vụ từ rừng như các hoạt động bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi, góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng [20]. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một hoạt động vừa mang tính khoa học vừa mang tính pháp lý của hệ thống các biện pháp kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Thực chất đó là quá trình ra quyết định sử dụng rừng và đất rừng như một tư liệu sản xuất đặc biệt, nhằm mục tiêu sử dụng rừng và đất rừng một cách hiệu quả. Công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng luôn được trú trọng và coi là nhiệm vụ chiến lược trong quản lý rừng và đất rừng. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng thể phát triển nông thôn. Do đó công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cần có sự phối hợp chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nông thôn nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Thực chất của
- 7 công tác quy hoạch là tổ chức không gian và thời gian phát triển cho một ngành hoặc một lĩnh vực sản xuất trong từng giai đoạn cụ thể. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại và phát triển thì nhất thiết phải thực hiện quy hoạch, sắp xếp một cách hợp lý mà trong đó công tác điều tra cơ bản phục vụ cho quy hoạch phát triển phải đi trước một bước. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngành lâm nghiệp nói riêng và sự phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nếu công tác quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng được chú ý quan tâm đúng mức thì sự phát triển của ngành lâm nghiệp được chú ý quan tâm đúng mức thì sự phát triển của ngành lâm nghiệp sẽ mang lại tính bền vững, trong điều kiện ngược lại sẽ gặp những trở ngại, khó khăn. Ngày nay khi nhu cầu của xã hội về lâm sản đáp ứng cho nguyên liệu, gỗ, củi … ngày càng cao, tạo áp lực ngày càng lớn vào tài nguyên rừng và đất rừng thì vấn đề quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng một cách bền vững càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, và đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển rừng của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn thế giới nói chung [14]. Tùy theo cách nhìn nhận về quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng sao cho hợp lý đã được nhiều tác giả khác nhau đề cập tới ở những mức độ rộng hẹp khác nhau. Việc đưa ra một khái niệm thống nhất là một điều rất khó thực hiện, song phân tích qua các khái niệm cho thấy có những điểm giống nhau, đó là dựa trên quan điểm về sự phát triển bền vững thì các hoạt động có liên quan đến đất đai phải được xem xét một cách toàn diện và đồng thời nhằm đảm bảo nó một cách lâu dài và bền vững. Những nội dung chủ yếu thường được chú ý là các yếu tố về mặt kinh tế, bảo vệ môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái đa dạng sinh học và các đặc điểm xã hội, nhân văn. Quá trình phát triển của việc quản lý sử dụng đất trên thế giới luôn gắn liền với lâm sản phát triển xã hội loài người.
- 8 1.2. Trên thế giới 1.2.1. Quy hoạch sử dụng đất Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu khối lượng gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hóa Tư bản chủ nghĩa. Thực tế sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy. Tại Châu âu, vào thập kỷ 30 và 40 của thế kỷ XX, quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Năm 1946, Jack.G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất với tên “Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng đất. Tại vùng Rhodesia trước đây, nay là cộng hòa Zimbabwe, Bộ Nông nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX, tạp chí “East Afican Journal fof Agricultue and Dorestry” đã xuất bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam Châu phi. Năm 1966, Hội đất học của mỹ và Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử dụng đất,v.v… [8]. Trong khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm 1976 đã đề xuất cấu trúc khung quy hoạch sử dụng đất với 10 điểm chính. Trong phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là các bước chính trong quá trình quy hoạch [27]. Năm 1985 một nhóm chuyên gia tư vấn quốc tế về quy hoạch sử dụng đất được tổ chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình quy hoạch sử dụng đất.
- 9 Wilkingson năm 1985 nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất theo khía cạnh luật pháp. Tác giả đề nghị “Một hệ thống luật pháp thích hợp cần được phát triển nhằm mục đích: Cung cấp chính sách và mục tiêu rõ ràng của Nhà nước về đất đai, thiết lập các tổ chức sử dụng đất phù hợp với yêu cầu sử dụng theo quy trình kế hoạch và kỹ thuật, tăng cường sự thông hiểu về sử dụng đất và khuyến khích sản xuất cơ chế giám sát và cưỡng chế” [30]. Năm 1986, Dent và nhiều tác giả nghiên cứu sâu về công trình quy hoạch. Ông khái quát quy hoạch sử dụng đất trên 3 cấp khác nhau và mối quan hệ của các cấp: kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp vùng (tỉnh, huyện) cấp cộng đồng (xã, thôn). Ông còn đề xuất quy trình quy hoạch gồm 4 giai đoạn và 10 bước [28]. Những kết quả thử nghiệm phân tích hệ thống canh tác tại Châu á, Châu Phi và Nam Mỹ xác nhận rằng tích hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch và lập kế hoạch nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Lung năm 1990 lần đầu tiên nghiên cứu đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác cho quy hoạch sử dụng đất. 1.2.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp ở Liên Xô trước đây: Nguyễn Nhật Tân – Nguyễn Thị Vòng (1995) [17]: Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp tổng hợp của nhà nước về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ các vùng hành chính – nông nghiệp nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả các ngành kinh tế quốc dân trong vùng. Quy hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc của kế hoạch hóa ương lai của nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất theo lãnh thổ của vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp chuyên môn hóa một cách hợp lý, là biện pháp thiết kế và đưa vào nề nếp việc sử dụng đất đai trên từng khu vực cụ thể của vùng, là biện pháp xác định sự phân bố đúng đắn các cơ quan y tế và phục vụ sinh hoạt văn hóa cho nhân dân, là biện pháp xây dựng các tiền đề tổ chức lãnh thổ nhằm sử dụng hợp lý các của cải tự nhiên, các thành tựu khoa học kỹ thuật, các nguồn lao động nhằm phát triển với tốc
- 10 độ nhanh kinh tế của tất cả các xí nghiệp đồng thời cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân trong vùng lao động nông nghiệp đó. Trần Hữu Viên (2005) [25]: Quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp tuân theo học thuyết Mác – Lê Nin về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Các Mác và Ăng Ghen đã chỉ ra “Mức độ phát triển lực lượng sản xuất của một dân tộc thể hiện rõ nét hơn hết ở sự phân công lao động của dân tộc đó được phát triển đến mức độ nào”. Lê Nin đã chỉ ra “Sự nghiên cứu tổng hợp tất cả các đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội của mỗi vùng là nguyên tắc quan trọng để phân bố sản xuất”. Vì vậy, nghiên cứu các đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố lực lượng sản xuất cho một vùng trong quá khứ và hiện tại để xác định khả năng tiềm tàng và tương lai phát triển của vùng đó. Dựa trên cơ sở học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu các hướng cụ thể về kế hoạch hóa và phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ nghĩa. Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari trước đây: Nhằm sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của đất nước. Bố trí hợp lý các hoạt động của con người nhằm đảm bảo tái sản xuất mở rộng. xây dựng đồng bộ môi trường sống. Quy hoạch lãnh thổ đất nước được phân thành các vùng: Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên phải bảo vệ; Lãnh thổ thiên nhiên không có nông thôn, sự tác động của con người vào đây rất ít; Lãnh thổ là môi trường thiên nhiên có mạng lưới nông thôn, có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp có mạng lưới nông thôn và có sự can thiệp vừa phải của con người, thuận lợi cho nghỉ mát; Lãnh thổ là môi trường nông nghiệp không có mạng lưới nông thôn nhưng có tác động đặc biệt của con người; Lãnh thổ là môi trường công nghiệp với sự can thiệp tích cực của con người.
- 11 Trên cơ sở quy hoạch vùng lãnh thổ cả nước tiến hành quy hoạch lãnh thổ vùng và quy hoạch lãnh thổ địa phương. Quy hoạch vùng ở Pháp: Theo quan niệm chung của hệ thống các mô hình quy hoạch vùng lãnh thổ M. Thensevin (M. Pierr Thenseevin), một chuyên gia thống kê đã giới thiệu một số mô hình quy hoạch vùng được áp dụng thành công ở miền Tây Nam nước Cộng hòa Coote D’ivoire. Trong mô hình quy hoạch vùng này, người ta đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các giàng buộc trong nội dùng, có quan hệ với các vùng khác và với nước ngoài. Thực chất mô hình là một bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc: - Các hoạt động sản xuất: + Sản xuất nông nghiệp theo các phương thức trồng trọt gia đình và trồng trọt công nghiệp với các mức thâm canh cao độ, thâm canh trung bình và cổ điển (truyền thống). + Hoạt động khai thác rừng + Hoạt động đô thị: Chế biến gỗ, bột giấy, vận chuyển, dịch vụ, thương mại … - Nhân lực phân theo các dạng thuế thời vụ, các loại lao động nông nghiệp, lâm nghiệp. - Cân đối xuất nhập, thu chi và các cân đối khác vào giàng buộc về diện tích đất, về nhân lực, về tiêu thụ lương thực, v.v… Tóm lại: Quy hoạch vùng nhằm đạt mục đích khai thác lãnh thổ theo hướng tăng thêm giá trị sản phẩm của xã hội theo phương pháp mô hình hóa trong điều kiện thực tiễn của vùng, so sánh với vùng xung quanh và nước ngoài. Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan: Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: (Quốc gia, vùng, á vùng hay địa phương).
- 12 Vùng (Region) được coi như một á miền (Subdivision) của đất nước. Đó là điều cần thiết để phân chia quốc gia thành các á miền theo các phương diện khác nhau như phân bố dân cư, khí hậu, địa hình… Đồng thời vì lý do quản lý hay chính trị, đất nước được chia thành các miền như đơn vị hành chính hay đơn vị bầu cử. Quy mô diện tích của một vùng phụ thuộc vào kích thước, diện tích của đất nước. Thông thường vùng năm trên một diện tích lớn hơn đơn vị hành chính lớn nhất. Sự phân chia các vùng theo mục đích của quy hoạch, theo đặc điểm của lãnh thổ. Quy hoạch phát triển vùng tiến hành ở cấp á miền được xây dựng theo 2 cách: Thứ nhất: Sự bổ sung của kế hoạch Nhà nước được giao cho vùng, những mục tiêu và hoạt động được xác định theo cơ sở vùng, sao đó kế hoạch vùng được giải quyết trong kế hoạch quốc gia. Thứ hai: Quy hoạch vùng được giải quyết căn cứ vào đặc điểm của vùng, các kế hoạch vùng đóng góp vào việc xây dựng kế hoạch quốc gia. Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý nhà nước, phải phối hợp với chính phủ và chính quyền địa phương. Dự án phát triển của Hoàng Gia Thái Lan đã xác định được vùng nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị ở Thái Lan và tập trung xây dựng ở 2 vùng: Trung tâm và Đông Bắc. Trong 30 năm (1961 – 1988 đến 1992 – 1996), tổng dân cư nông thôn trong các vùng nôn nghiệp từ 80% giảm xuống 66,6%, các dự án tập trung vào mấy vấn đề quan trọng: Nước, đất đai, vốn đầu tư kỹ thuật, nông nghiệp, thị trường [18]. 1.2.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng. Lê Sỹ Việt, Trần Hữu Viên (1999) [25]: Đầu thế kỷ 18, phạm vi quy hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “khoanh khu chặt luân chuyển” có nghĩa là đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc diện tích. Phương thức này phục vụ cho phương thức kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai thác ngắn.
- 13 Sau cách mạng công nghiệp, vào đầu thế kỷ XIX phương thức kinh doanh rừng chồi được thay thế bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai thác dài. Và phương thức “khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho phương thức “chia đều” của Hartig. Hartig đã chia chu kỳ khai thác thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm. Đến năm 1816 xuất hiện phương pháp phân kỳ lợi dụng của H.Cotta. Cotta chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế lượng chặt hàng năm. Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời. Quan điểm phương pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng thời vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ XIX xuất hiện phương pháp “Lâm phần kinh tế” của Judeich, phương pháp này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản. Judeich cho rằng những lâm phần nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ đưa vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm phần kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức rừng khác nhau. Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp cuối” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp “Lâm phần kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm phần” không căn cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm phần tiến hành phân tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “phương pháp kiểm tra”. Năm 1929 bang Wiscosin đã tạo ra luật sử dụng đất đai trong đó có quy định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xây dựng các diện tích cho sử dụng đất lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
- 14 1.3. Ở Việt Nam 1.3.1. Quy hoạch sử dụng đất Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã chỉ ra “Xúc tiến công tác điều tra cơ bản, dự báo, lập tổng sơ đồ phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, nghiên cứu chiến lược kinh tế xã hội, dự thảo kế hoạch triển vọng để chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm sau (1986 – 1990)”. Các tác giả: Phạm Văn Chiểu (1964); Bùi Huy Đáp (1977); Vũ Tuyên Hoàng (1987); Lê Trọng Cúc (1971); Nguyễn Ngọc Bình (1987); Bùi Quang Toản (1991) đã có nhiều công trình nghiên cứu về luân canh tang vụ, trồng xen, trồng gối vụ với mục đích sử dụng hợp lý tài nguyên đất đai. Bên cạnh đó những nghiên cứu lựa chọn hệ thống cây trồng phù hợp trên đất dốc vùng đồi núi phía Bắc Việt Nam cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến. Năm 1993, nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp cấp xã do dự án đổi mới chiến lược phát triển rừng thực hiện tại xã Tử Nê, xã Hang Kìa và xã Pà Cò thuộc tỉnh Hòa Bình. Một trong những bài học rút ra được qua việc thực thi dự án là công tác quy hoạch sử dụng đất phải được coi là một nội dung chính và cần được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản và chính quyền xã. Hạn chế của chương trình này là chưa có kế hoạch sử dụng chi tiết nên khó tránh khỏi các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Năm 1994, Tổng cục địa chính đã xây dựng kế hoạch và triển khai công tác quy hoạch sử dụng đất trên quy mô cả nước giai đoạn 1995 – 2000. Trong đó việc lập kế hoạch giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp có rừng để sử dụng vào mục đích khác cũng được đề cập tới. Báo cáo đánh giá tổng quát hiện trạng sử dụng đất và định hướng phát triển đến năm 2000 làm căn cứ để các địa phương, các ngành thống nhất triển khai công tác lập quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất [16].
- 15 Nguyễn Xuân Quát (1996) [11], đã phân tích tình hình sử dụng đất đai và đề xuất mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững, mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra tập đoàn cây trồng thích hợp cho các mô hình sử dụng đất tổng hợp bền vững trong công trình nghiên cứu “Sử dụng đất tổng hợp và bền vững”. Các vấn đề sử dụng đất đai gắn liền với bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi trường vùng đồi núi trung du phía Bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ (1996) đề cập tới trên các khía cạnh: Tiềm năng đất vùng trung du; Hiện trạng sử dụng đất vùng trung du; Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững. Tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges (1996) [7], đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hòa giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định và các nguồn lực hiện có tại địa phương; Đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo tính bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng. Luật đất đai năm 2003 quy định cụ thể về công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 22 quy định căn cứ để lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 23 quy định nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Điều 25 quy định rõ cả 4 cấp hành chính trong cả nước phải lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 26 quy định về thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Điều 29 thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [12]. Ngày 01/07/2004 Luật đất đai mới chính thức có hiệu lực thi hành. Luật quy định rõ về công tác quản lý đất đai, trong đó nêu rõ nội dung công tác quản lý quy hoạch sử dụng đất. Chính phủ đã ban hành nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về việc thi hành luật đất đai [4]. Đồng thời Bộ tài nguyên và môi trường cũng ban hành
- 16 thông tư số 20/2004/TT-BTNMT ngày 01/11/2004 về việc hướng dẫn, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [2]. 1.3.2. Quy hoạch vùng lãnh thổ 1.3.2.1. Quy hoạch vùng chuyên canh (Quy hoạch vùng chuyên canh cây trồng) Trong quá trình xây dựng nền kinh tế, đã quy hoạch các vùng chuyên canh lúa ở đồng bằng Sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, các vùng rau thực phẩm cho các thành phố lớn, các vùng cây công nghiệp ngắn ngày (hàng năm): Vùng bông Thuận Hải, vùng đay Hải Hưng, vùng thuốc lá Quảng An (Cao Bằng), Ba Vì (Hà Sơn Bình nay là Hà Nội), Hữu Lũng (Lạng Sơn), Nho Quan ( Hà Nam Ninh nay là Ninh Bình), vùng mía Vạn Điểm, Việt Trì, Sông Lam, Quảng Ngãi, … Các vùng cây công nghiệp dài ngày (lâu năm): Vùng cao su Sông Bé, Đồng Nai, Buôn Hồ (Đắc Lắc), Chư Pả, Ninh Đức (Gia Lai Kon Tum), vùng chè ở Hoàng Liên Sơn, Mộc Châu, Thái Nguyên, Lâm Đồng, Gia Lai Kon Tum, vùng dâu tằm Bảo Lộc (Lâm Đồng),… Quy hoạch vùng chuyên canh có tác dụng: Xác định phương hướng sản xuất, chỉ ra những vùng chuyên môn hóa và những vùng có khả năng hợp tác quốc tế; Xác định và chọn những vùng trọng điểm giúp nhà nước tập trung đầu tư vốn đúng đắn; Xây dựng được cơ cấu sản xuất, các chỉ tiêu sản xuất sản phẩm và sản phẩm hàng hóa của vùng, yêu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ sản xuất, nhu cầu lao động; Cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển, nghiên cứu tổ chức quản lý kinh doanh theo ngành và theo lãnh thổ. Quy hoạch vùng chuyên canh đã thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là bố trí cơ cấu cây trồng được chọn với quy mô và chế độ canh tác hợp lý, theo hướng tập trung, để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng sản phẩm cây trồng, đồng thời phân bố các chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ sở sản xuất, làm cơ sở cho công tác quy hoạch, kế hoạch của các cơ sở sản xuất. Quy hoạch vùng chuyên canh có các nội dung chủ yếu sau: Xác định quy mô, ranh giới vùng; Xác định phương hướng, chỉ tiêu nhiệm vụ sản xuất; Bố trí sử
- 17 dụng đất đai; Xác định quy mô ranh giới nhiệm vụ chủ yếu cho các xí nghiệp trong vùng và tổ chức sản xuất ngành nông nghiệp; Xác định hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất đời sống; Tổ chức và sử dụng lao động; Ước tính đầu tư và hiệu quả kinh tế; Dự tính tiến độ thực hiện quy hoạch [17]. 1.3.2.2. Quy hoạch nông nghiệp huyện Quy hoạch nông nghiệp huyện được tiến hành ở hầu hết các huyện là một quy hoạch ngành bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến. Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch nông nghiệp huyện: Một là trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện, căn cứ vào dự án phát triển và phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng nông nghiệp tỉnh (hoặc thành phố) đã được phê duyệt, xác định phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu phát triển nông nghiệp và xây dựng các biện pháp nhằm thực hiện được các mục tiêu đó theo hướng chuyên môn hóa, tập trung hóa kết hợp phát triển tổng hợp nhằm thực hiện ba mục tiêu nông nghiệp là giải quyết lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu ổn định. Hai là hoàn thiện phân bổ sử dụng đất đai cho các đối tượng sử dụng đất nhằm sử dụng đất đai được hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ và nâng cao được độ phì nhiêu cho đất. Ba là tạo điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Bốn là tính vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp theo quy hoạch. Nội dung chủ yếu của quy hoạch nông nghiệp huyện. Xác định phương hướng và mục tiêu phát triển nông nghiệp; Bố trí sử dụng đất đai; Xác định cơ cấu và quy mô sản xuất nông nghiệp (phân chia và tính toán quy mô các vùng sản xuất chuyên môn hóa, xác định vùng sản xuất thâm canh cao sản, các tổ chức liên kết nông – công nghiệp, các cơ sở sản xuất nông nghiệp; Tổ chức công nghiệp chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp trong nông nghiệp; Giải quyết mối quan hệ giữa các ngành sản xuất có liên quan trong và ngoài ngành nông nghiệp; Bố trí các cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ nông nghiệp (thủy lợi, giao thông, cơ khí, điện, cơ sở dịch vụ thương nghiệp); Tổ chức sử dụng lao động nông nghiệp, phân bố các điểm
- 18 dân cư nông thôn; Những cân đối chính trong sản xuất nông nghiệp (lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, phân bón, vật tư kỹ thuật nông nghiệp, nguyên liệu cho các xí nghiệp chế biến); Tổ chức các cụm kinh tế xã hội; Bảo vệ môi trường; Vốn đầu tư cơ bản; hiệu quả sản xuất và tiến độ thực hiện quy hoạch. Đối tượng quy hoạch nông nghiệp huyện là toàn bộ đất đai, ranh giới hành chính huyện [17]. 1.3.3. Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng Quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng áp dụng ở nước ta từ thời kỳ Pháp thuộc. Như việc xây dựng phương án điều chế rừng chồi, sản xuất củi, điều chế rừng Thông theo phương pháp hạt điều … Đến năm 1955 – 1957, tiến hành sơ thám mô tả để ước lượng tài nguyên rừng. Năm 1958 – 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền Bắc. Cho đến năm 1960 – 1964 công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp dụng ở Miền Bắc. Từ năm 1965 đến nay, lực lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường và mở rộng [18]. Viện điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy hoạch của các sở lâm nghiệp (nay là sở nông nghiệp và phát triển nông thôn) các tỉnh, không ngừng cải tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của các nước cho phù hợp với điều kiện, trình độ tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình thành và phát triển muộn hơn rất nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về kinh tế, xã hội, và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác quy hoạch lâm nghiệp chưa được giải quyết triệt để, nên công tác này ở nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng [21]. Trong công trình “Đất rừng Việt Nam”, Nguyễn Ngọc Bình (1996) đã đưa ra những quan điểm nghiên cứu và phân loại đất rừng trên cơ sở những đặc điểm cơ bản của đất rừng Việt Nam [1].
- 19 Năm 2997, Đặng Văn Phụ, Hà Quang Khải trong chương trình tập huấn hỗ trợ lâm nghiệp xã hội của Trường Đại học lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống, kỹ thuật sử dụng đất bền vững trong điều kiện Việt Nam. Trong đó các tác giả đã đi sâu phân tích về: Quan điểm về tính bền vững; Khái niệm tính bền vững và phát triển bền vững; hệ thống sự dụng đất bền vững; Kỹ thuật sử dụng đất bền vững; Các chỉ tiêu đánh giá tính bền vững trong các hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất [10]. Tài liệu tập huấn về quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân, tác giả Trần Hữu Viên (1997) [22] đã kết hợp phương pháp quy hoạch sử dụng đất trong nước và của một số dự án Quốc tế đang áp dụng tại một số vùng có dự án ở Việt Nam. Trong đó tác giả đã trình bày về khái niệm và nguyên tắc chỉ đạo quy hoạch sử dụng đất và giao đất có người dân tham gia. Theo chiến lược phát triển rừng quốc gia giai đoạn 2006 – 2020 một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá là: “Công tác quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được lâm phần ổn định trên thực địa …”. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề cấp bách đối với ngành lâm nghiệp ở nước ta hiện nay [7]. Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác kỹ thuật Việt Đức, dự án phát triển rừng xã hội sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Điện Biên) trên cơ sở hướng dẫn của Cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị hành chính để quy hoạch và giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 413 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 343 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn