Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu quy hoạch, đổi mới và phát triển lâm trường Bến Hải, tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2007 - 2015
lượt xem 3
download
Luận văn này nghiên cứu điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, dân sinh kinh tế, xã hội và ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Lâm trường Bến Hải. Phân tích đánh giá các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội của lâm trường làm cơ sở xây dựng phương án quy hoạch, đổi mới và phát triển Lâm trường Bến Hải. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học lâm nghiệp: Nghiên cứu quy hoạch, đổi mới và phát triển lâm trường Bến Hải, tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2007 - 2015
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------- VÕ VĂN HƯNG NGHIÊN CỨU QUY HOẠCH, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN LÂM TRƯỜNG BẾN HẢI, TỈNH QUẢNG TRỊ GIAI ĐOẠN 2007 - 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Hà Tây – 2007
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP ------------------------------------------------------ VÕ VĂN HƯNG NGHIÊN CỨU QUY HOẠCH, ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN LÂM TRƯỜNG BẾN HẢI, TỈNH QUẢNG TRỊ GIAI ĐOẠN 2007-2015 Chuyên ngành: LÂM HỌC Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP Người hướng dẫn: PGS.TS TRẦN HỮU VIÊN Hà Tây – 2007
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Tỉnh Quảng Trị có tổng diện tích tự nhiên là 474.415 ha, trong đó có gần 70 % diện tích tự nhiên đất quy hoạch cho lâm nghiệp. Vì vậy, ngành lâm nghiệp có vị trí rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội chung của toàn Tỉnh. Sau ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị đã thành lập 4 LTQD với nhiệm vụ chủ yếu là nhanh chóng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bị chiến tranh tàn phá, khai hoang mở rộng diện tích canh tác, phát triển sản xuất nông-lâm nghiệp; làm nòng cốt trong việc xây dựng một số vùng kinh tế mới, khôi phục, ổn định đời sống nhân dân sau chiến tranh; kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, các LTQD trên địa bàn Tỉnh nói riêng và trên toàn quốc nói chung đã có những chuyển đổi quan trọng cả về tổ chức quản lý và nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, cải thiện đời sống người lao động. Các LTQD đã đóng góp nhất định vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho đồng bào các dân tộc, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường các LTQD bộc lộ nhiều nhược điểm như vấn đề sử dụng đất đai, quản lý đất đai, tài nguyên rừng chưa đạt hiệu quả cao; tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất đai giữa hộ dân với lâm trường còn xảy ra ở nhiều nơi; việc ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất chậm được đổi mới, chủ yếu vẫn sử dụng giống cây cũ, giống đã thoái hoá; kỹ thuật canh tác, trang thiết bị phục vụ sản xuất còn lạc hậu; sản phẩm của các lâm trường chưa đa dạng, chất lượng còn thấp. Sản xuất, kinh doanh đạt hiệu quả không cao, số lâm trường làm ăn có lãi chưa nhiều, mức nộp ngân sách hàng năm còn thấp. Đời sống cán bộ, công nhân
- 2 viên tuy đã được cải thiện, song so với yêu cầu còn chưa cao. Bộ máy quản lý của các lâm trường tuy có giảm nhiều so với trước, nhưng vẫn còn cồng kềnh, hiệu quả điều hành chưa đáp ứng với yêu cầu mới. Để giải quyết những thực trạng trên, ngày 16/6/2003 Bộ Chính trị đã có Nghị quyết số 28–NQ/TW và ngày 03/12/2004 Chính phủ có Nghị định số 200/2004/NĐ-CP về sắp xếp, đổi mới và phát triển lâm trường quốc doanh theo phương hướng là phải phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ công ích. Vì vậy, các lâm trường quốc doanh phải sắp xếp, đổi mới theo các hình thức là chuyển thành công ty TNHH 1 thành viên để thực hiện nhiệm vụ chính là SXKD hoặc chuyển thành các Ban QL rừng phòng hộ, đặc dụng để thực hiện nhiệm vụ công ích hoặc bị giải thể. Trước yêu cầu trên, việc nghiên cứu đổi mới và phát triển các lâm trường trên địa bàn tỉnh Quảng Trị là rất cần thiết, nhằm góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng theo xu hướng phát triển bền vững, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn trong sản xuất kinh doanh, tác giả thực hiện đề tài "Nghiên cứu quy hoạch, đổi mới và phát triển lâm trƣờng Bến Hải tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2007 - 2015".
- 3 Chƣơng 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Nhận thức chung về quy hoạch lâm nghiệp Quy hoạch nói chung và quy hoạch lâm nghiệp nói riêng là một hoạt động định hướng nhằm sắp xếp, bố trí sử dụng đất một cách hợp lý vào thời điểm hiện tại và phù hợp với mục tiêu trong tương lai. Vấn đề quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế xã hội. Nếu quy hoạch sử dụng đất hợp lý thì nền kinh tế xã hội sẽ phát triển bền vững, trong điều kiện ngược lại thì sự phát triển của nền kinh tế xã hội sẽ gặp những cản trở, khó khăn. Ngày nay, trong điều kiện nhu cầu của xã hội về đất đai canh tác, đất xây dựng cơ sở hạ tầng, nguyên liệu gỗ, củi, vv … ngày càng cao, tạo áp lực ngày càng lớn vào tài nguyên rừng và đất rừng thì vấn đề quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp một cách bền vững càng trở nên quan trọng và cấp thiết và đã trở thành một nguyên tắc hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói riêng và trên toàn cầu nói chung. 1.1.1. Quy hoạch đất lâm nghiệp trên thế giới Từ lâu, vấn đề quy hoạch lâm nghiệp đã được các nước trên thế giới quan tâm. Từ thế kỷ thứ XIX, khi nền kinh tế tư bản chủ nghĩa bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh thì vấn đề quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp đã được đề cập đến và được thực hiện một cách triệt để, nghiêm túc, nhằm thoả mãn nhu cầu của thực tế khách quan của xã hội loài người. Thời kỳ này đã có những công trình nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp, phần lớn các công trình nghiên cứu này đều xuất phát tại Mỹ. Năm 1929, Bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai trong đó có quy định nguyên tắc sử dụng đất lâm nghiệp, tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide của Wiscosin, kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm nghiệp, nông nghiệp và nghỉ ngơi giải trí.
- 4 Năm 1946, Jack G.V đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại đất đai với tên là “phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất”. Đây cũng là tài liệu đầu tiên đề cập đến đánh giá khả năng của đất đai cho quy hoạch sử dụng đất. Năm 1966, Hội đất học và Hội nông dân học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng quy hoạch sử dụng đất [17]. Năm 1967, Hội đồng nông nghiệp Châu Âu đã phối hợp với FAO tổ chức nhiều hội nghị về phát triển nông thôn và quy hoạch sử dụng đất. Các hội nghị này khẳng định rằng quy hoạch vùng nông thôn trong đó quy hoạch các ngành sản xuất như nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, chế biến nhỏ . . . cũng như quy hoạch cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông phải dựa trên cơ sở quy hoạch đất đai [17]. Năm 1972 tác giả Haber (Đức) đã cho xuất bản tài liệu “Khái niệm về sử dụng đất khác nhau", đây được coi là lý thuyết sinh thái về quy hoạch sử dụng đất dựa trên quan điểm về mối quan hệ hợp lý giữa tính đa dạng của hệ sinh thái cũng như sự ổn định của chúng với năng suất và khả năng điều chỉnh. Vấn đề lập kế hoạch sử dụng và quản lý tài nguyên đất cũng được các nhà khoa học và các quốc gia đặc biệt quan tâm. Khởi đầu, công tác lập kế hoạch đựợc xây dựng bằng cách tiếp cận một chiều từ trên xuống. Tuy nhiên phương pháp này sớm bộc lộ những nhược điểm của nó, đó là thiếu vắng sự đóng góp của cộng đồng dân cư sở tại dẫn đến hiệu quả thực tế không cao. Về sau, những nghiên cứu về quy hoạch và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal đã chứng tỏ ưu thế của cách tiếp cận mới, đó là cách tiếp cận lấy người dân làm trung tâm trong công tác xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển của cộng đồng. Dựa trên những kết quả thực tiễn ở Ấn Độ. Cuối những năm 70 đến đầu những năm 80 của thế kỷ trước, ở nhiều quốc gia trên thế giới các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống dần được thay thế bằng các phương pháp điều tra đánh giá có sự tham gia của người dân (PRA) và đánh giá nhanh nông
- 5 thôn (RRA). Phương pháp này nhanh chóng thể hiện được ưu thế và hiệu quả nổi trội của nó trong việc điều tra, đánh giá, lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất nói chung và đất lâm nghiệp nói riêng. Năm 1985, tại Hội nghị RRA ở Đại học KhonKean (Thái Lan) từ “Sự tham gia/người tham gia” được sử dụng với sự tiếp tục của RRA. Năm 1994 đã có 2 cuộc hội thảo quốc tế về PRA tại Ấn Độ, đến nay có hơn 30 nước đã và đang áp dụng PRA vào phát triển các lĩnh vực: - Quản lý tài nguyên thiên nhiên. - Nông nghiệp. - Các chương trình xã hội và xoá đói giảm nghèo. - Y tế và an toàn lương thực ... Tại chương trình Hội thảo quốc tế tại Việt Nam (1998) cũng đã đề cập một cách chi tiết khái niệm về sự tham gia và đề xuất các chiến lược QHSDĐ và giao đất. Ngày nay, PRA và RRA đã dần dần được hoàn thiện và thể hiện được vai trò không thể thiếu của nó trong mọi hoạt động lập kế hoạch, quy hoạch sử dụng đất. 1.1.2. Quy hoạch đất lâm nghiệp ở Việt nam 1.1.2.1. Một số kết quả về QHSDĐ lâm nghiệp Trước đây, khi điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển, ông cha ta cũng đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng đất, chọn loài cây trồng, luân canh gối vụ, thể hiện qua các câu nói truyền miệng như “đất nào cây ấy”, “khoai đất lạ, mạ đất quen”,vv… - Trong thời kỳ pháp thuộc: Công tác quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp đã được quan tâm. Thời kỳ này cũng đã có các công trình nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp nhưng chủ yếu là các công trình của người Pháp, với mục đích là phục vụ cho việc khai thác thuộc địa.
- 6 - Giai đoạn 1955 đến 1975: Cả hai miền Nam - Bắc đều đã chú ý vào phân loại đất đai. Đặc biệt, ở miền Bắc công tác điều tra phân loại đất đã được tổng hợp một cách có hệ thống. - Giai đoạn từ năm 1975-1990: Trong giai đoạn này, các số liệu nghiên cứu về phân loại đất giữa miền Bắc và miền Nam mới được thống nhất. - Giai đoạn từ năm 1990 đến nay: Công tác quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp đã thực sự được coi trọng nhằm bảo vệ tài nguyên rừng hiện có, phát triển vốn rừng và đưa nghề rừng trở thành một ngành kinh tế quan trọng trong cơ cấu phát triển kinh tế đất nước. + Căn cứ vào mức độ và tính chất quy hoạch có thể phân chia thành các loại sau: Quy hoạch sơ bộ: Xây dựng các kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược, trong đó đánh giá tình hình hoạt động và dự báo xu thế phát triển chung của ngành trên phạm vi thế giới, quốc gia hay lãnh thổ. Đây chính là những nội dung cơ bản mạng tích chất định hướng cho quy hoạch phát triển ngành trong cả thời kỳ quy hoạch, làm cơ sở cho việc triển khai các bước tiếp theo. Quy hoạch tổng thể: Nhằm đánh giá chính xác tiềm năng thông qua các yếu tố cần thiết cho mục tiêu phát triển ngành. Quy hoạch tổng thể là cơ sở cho việc lập kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn và hoàn thiện các cơ chế chính sách, tổ chức quản lý sản xuất ngành lâm nghiệp. Quy hoạch phát triển bao gồm các công trình mang tính chất chuyên ngành và các công trình đòi hỏi sự phối hợp liên ngành nhằm tránh sự chồng chéo, hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Quy hoạch chi tiết: Là những dự án đầu tư được xây dựng cho từng công trình cụ thể, khi được cấp thẩm quyền phê duyệt sẽ được ghi vào kế hoạch chuẩn bị đầu tư. + Theo các cấp quản lý, quy hoạch lâm nghiệp được chia thành các cấp sau:
- 7 Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh: Bao gồm quy hoạch tổng công ty lâm nghiệp, công ty lâm nghiệp, lâm trường, các khu rừng phòng hộ, bảo tồn,… Các nội dung quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý sản xuất kinh doanh là khác nhau tuỳ theo điều kiện cụ thể của mỗi đơn vị và thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất lâm nghiệp. Quy hoạch lâm nghiệp cho các cấp quản lý lãnh thổ: Ở nước ta, các cấp quản lý lãnh thổ bao gồm các đơn vị quản lý hành chính: Từ toàn quốc tới tỉnh (Thành phố trực thuộc Trung ương); huyện (thành phố trực thuộc Tỉnh, thị xã, quận) và xã (phường). Để phát triển mỗi đơn vị đều phải xây dựng phương án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các ngành sản xuất và quy hoạch dân cư, … Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh rừng như các lâm trường, quy hoạch lâm nghiệp luôn giữ vai trò rất quan trọng, nó là kế hoạch, phương án thực hiện kinh doanh trong một thời gian nhất định. Hiện nay, tất cả các lâm trường đều đã và đang thực hiện quy hoạch lâm nghiệp bằng cách xây dựng phương án kinh doanh rừng đơn giản theo Chỉ thị số 15/LS-CNR ngày 19 tháng 7 năm 1989 của Bộ Lâm nghiệp về công tác xây dựng phương án điều chế rừng đơn giản cho các lâm trường [3]. Các bước thực hiện cơ bản như sau: - Thu thập tài liệu cơ bản (bản đồ, tài nguyên, một số quy luật lâm sinh và những thông số cơ bản về tăng trưởng quần thể, cấu trúc, khả năng tái sinh, dân số và lao động tại chỗ). - Xác định các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh (chỉ tiêu về khai thác, nuôi dưỡng làm giàu rừng, trồng rừng, các chỉ tiêu sản xuất nông nghiệp và nông lâm kết hợp). - Xác định các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội cho đơn vị quy hoạch. - Kế hoạch hóa phương án quy hoạch rừng.
- 8 Trong thời kỳ này có nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu về quy hoạch sử dụng đất lâm nghiệp ở phạm vi địa phương và trên toàn quốc, trong đó đáng chú ý là : Năm 1996, công trình QHSDĐ nông nghiệp ổn định ở vùng trung du và miền núi nước ta của tác giả Bùi Quang Toản đã đề xuất sử dụng đất nông nghiệp vùng đồi núi và trung du. Năm 1996, vấn đề sử dụng đất đai gắn liền với việc bảo vệ độ phì nhiêu của đất và môi trường sinh thái ở vùng đồi núi Trung du phía Bắc Việt Nam, đã được Lê Vĩ đề cập tới trên các khía cạnh sau: + Tiềm năng đất vùng trung du. + Hiện trạng sử dụng đất vùng trung du. + Các kiến nghị về sử dụng đất bền vững. Năm 1997, Đặng Văn Phụ; Hà Quang Khải trong chương trình tập huấn hỗ trợ lâm nghiệp xã hội (LNXH) của Trường đại học Lâm nghiệp đã đưa ra khái niệm về hệ thống sử dụng đất và đề xuất một số hệ thống và kỹ thuật sử dụng đất bễn vững trong điều kiện Việt Nam. Năm 1999, P.GS.TS Trần Hữu Viên và T.S Lê Sỹ Việt đã nêu rõ: xã là đơn vị quản lý hành chính nhỏ nhất, là đơn vị quản lý và tổ chức sản xuất lâm nghiệp trong các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân. Công tác quy hoạch cần giải quyết những nội dung sản xuất, các giải pháp kinh tế, kỹ thuật thật chi tiết, tỷ mỹ và cụ thể. Vấn đề QHSDĐ đất cấp vĩ mô có sự tham gia của người dân mới được nghiên cứu và ứng dụng trong những năm gần đây. Nghiên cứu đầy đủ nhất về QHSDĐ cấp xã được tác giả Vũ Nhâm thực hiện năm 1998. Chương trình phát triển nông thôn miền núi giai đoạn 1996 - 2000 trên phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến hành thử nghiệm quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp thôn và hộ gia đình.
- 9 Năm 1996, tác giả Vũ Văn Mễ và Desloges đã thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất có người dân tham gia tại Quảng Ninh đã đề xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong QHSDĐ trong đó cấp xã đóng vai trò phát triển trong phương pháp quy hoạch. Sáu nguyên tắc đó là: Kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của Chính phủ và nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa phương; tiến hành trong khuôn khổ luật định và các nguồn lực hiện có tại địa phương; đảm bảo tính công bằng, chú ý đến cộng đồng dân tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; đảm bảo phát triển bền vững; đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; kết hợp hướng tới mục tiêu phát triển cộng đồng. Trong khuôn khổ của chương trình hợp tác kỹ thuật Việt - Đức, dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và giao đất lâm nghiệp tại hai xã của 2 huyện Yên Châu (Sơn La) và Tủa Chùa (Lai Châu) trên cơ sở hướng dẫn của Cục kiểm lâm. Với cách làm 6 bước và lấy cấp thôn bản làm đơn vị chính để quy hoạch, giao đất lâm nghiệp và áp dụng cách tiếp cận lâm nghiệp xã hội đối với cộng đồng dân tộc vùng cao có thể là kinh nghiệm tốt [17]. Từ những kết quả nghiên cứu của đề tài nghiên cứu sinh, năm 1999 và 2000 Nguyễn Bá Ngãi cùng với nhóm tư vấn của Dự án khu vực lâm nghiệp Việt Nam - ADB đã nghiên cứu và thử nghiệm phương pháp quy hoạch và xây dựng tiểu dự án cấp xã. Mục tiêu là đưa ra một phương pháp quy hoạch nông lâm nghiệp cấp xã có sự tham gia của người dân để xây dựng tiểu dự án nông lâm nghiệp cho 50 xã của 4 tỉnh: Thanh Hoá, Gia Lai, Phú Yên và Quảng Trị. Trong những năm gần đây, các chương trình và dự án nông lâm nghiệp như dự án PAM, dự án trồng rừng Việt Đức tại Lạng Sơn, Hà Bắc, Thanh Hoá, Quảng Ninh, … do GTZ tài trợ cũng đã sử dụng triệt để phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia.
- 10 1.1.2.2. Một số nhận xét về công tác QHSDĐ trong những năm qua - Hiện tại Việt Nam chưa có nghiên cứu đầy đủ về quy hoạch lâm nông nghiệp cấp địa phương. Mặc dù đã có một số những thử nghiệm về quy hoạch sử dụng đất cấp địa phương, nhưng những thử nghiệm này chưa được tổng kết, đánh giá và phát triển thành phương pháp luận. - Phương pháp QHSDĐ chưa thống nhất mỗi một địa phương, một dự án sử dụng một phương pháp QHSDĐ riêng. - Phương pháp quy hoạch có sự tham gia của người dân mới được áp dụng trong công tác QHSDĐ tuy đã đạt được một số thành công nhưng chưa được tổng kết nên chưa xây dựng được phương pháp chung nhất cho quy hoạch lâm nông nghiệp. - Thiếu sự phối kết hợp giữa các ngành kinh tế trong việc xây dựng phương án QHSDĐ dẫn tới việc lúng túng, chồng chéo trong sử dụng đất ở nhiều địa phương. - Thiếu các nghiên cứu cơ bản hỗ trợ cho công tác QHSDĐ cho từng địa phương cụ thể như một số vấn đề cần tiến hành nghiên cứu trước như đánh giá tiềm năng đất đai, nghiên cứu chiến lược thị trường tiêu thụ lâm nông sản, nghiên cứu tập đoàn cây trồng… dẫn tới tính khả thi của phương án QHSDĐ không cao. 1.1.2.3. Một số chính sách về công tác quản lý đất đai và QHSDĐ Trong những năm qua nhằm đáp ứng nhu cầu về phát triển kinh tế và xã hội, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và đã ban hành nhiều chính sách rất quan trọng về quản lý đất đai và QHSDĐ, được thể hiện trong các văn bản pháp lý sau: - Luật đất đai 2003 số 13/2003/QH11 của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26-11-2003 gồm 7 chương và 146 điều . - Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI kỳ họp thứ 6 thông qua ngày
- 11 03/12/ 2004. Bao gồm 8 chương và 88 điều và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/04/2005, quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng (gọi chung là bảo vệ và phát triển rừng). - Quyết định 264/CT ngày 22/7/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) về chính sách khuyến khích đầu tư phát triển nghề rừng. Quyết định này ra đời phần nào giải quyết được những khó khăn về vốn cho cây trồng nông nghiệp, lâm nghiệp ở vùng định canh, định cư nông nghiệp hỗ trợ cho vay vốn phát triển kinh tế không lấy lãi. - Chỉ thị 525/TTg ngày 2/11/1993 của Thủ tướng Chính phủ quy định chủ trương biện pháp phát triển kinh tế xã hội miền núi. - Nghị định 02 - CP của Chính Phủ về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích lâm nghiệp, ban hành ngày 15/01/1994; Nghị định 135/2005/CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ về việc giao khoán đất nông nghiệp, đất rừng sản xuất và đất có mặt nước nuôi trồng thuỷ sản trong các nông, lâm trường quốc doanh. - Quyết định số 202/TTg ngày 2/5/1994 của Thủ tướng Chính phủ về khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng rừng. - Quyết định 3031/1997/QĐ-BNNPTNT ngày 20/11/1997 của Bộ Nông nghiệp & PTNT về việc ban hành Quy chế xác định ranh giới và cắm mốc các loại rừng. - Quyết định 661/TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng . - Nghị quyết 22/NQ-TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế miền núi làm thay đổi bước đầu về cơ sở hạ tầng, giao thông, giáo dục, y tế, . . . tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp xã hội. Làm cơ sở định hướng cho việc QHSDĐ theo cơ chế kinh tế thị trường.
- 12 - Quyết định 245/1998/QĐ - TTg ngày 21/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện trách nhiệm quản lý Nhà nước thuộc các cấp về rừng và đất lâm nghiệp. - Quyết định 135/TTg năm 1998 về dự án hỗ trợ hơn 1.700 xã đặc biệt khó khăn trong toàn quốc. - Thông tư 95/2004/TT- BTC ngày 11/10/2004 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn một số chính sách hỗ trợ tài chính và ưu đãi về thuế phát triển vùng nguyên liệu và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và muối. - Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 28/2004/CT-TTg về việc kiểm kê đất đai năm 2005. 1.2. Lâm trƣờng quốc doanh, quá trình phát triển và đổi mới LTQD 1.2.1. Lâm trường quốc doanh 1.2.1.1 Khái niệm về lâm trường quốc doanh Lâm trường quốc doanh là một tổ chức kinh tế do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam, hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng. Lâm trường có năng lực pháp luật dân sự, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản, có con dấu và tài khoản riêng [10]. 1.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của lâm trường Chức năng của lâm trường: Lâm trường quốc doanh là tổ chức sản xuất kinh doanh cơ bản và quan trọng nhất của ngành lâm nghiệp, chức năng của lâm trường là sản xuất kinh doanh và hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường và có sự điều tiết của Nhà nước. Song trong thực tế, do lâm trường được Nhà nước giao đất đai, tài nguyên rừng và địa bàn hoạt động, nên ngoài chức năng sản xuất kinh doanh, lâm trường còn thực hiện một số hoạt động công ích khác như: tham gia các hoạt động về y tế, giáo dục, chăm lo xây dựng cơ sở hạ tầng và các dịch vụ công khác. Việc bảo vệ, gây trồng rừng
- 13 phòng hộ ở vùng rất xung yếu và xung yếu được coi là hoạt động công ích, do lâm trường thực hiện theo nhiệm vụ Nhà nước giao [10]. Nhiệm vụ của lâm trường: Trong thời kỳ thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung (trước năm 1991) các lâm trường là lực lượng chủ lực trong việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch nhà nước về khai thác, vận chuyển, chế biến gỗ, lâm sản và trồng rừng. Bước vào thời kỳ "Đổi Mới", nền kinh tế Việt Nam chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, các lâm trường được tổ chức sắp xếp lại và đăng ký hoạt động theo cơ chế sản xuất kinh doanh, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, thực hiện việc quản lý, bảo vệ, nuôi dưỡng rừng, gây trồng rừng, khai thác, chế biến gỗ và lâm sản khác, cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến công nghiệp và nhu cầu tiêu dùng khác của nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra, lâm trường còn được phép kinh doanh tổng hợp các ngành nghề khác như: nông nghiệp, công nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ... nhằm sử dụng và phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng về lao động, kỹ thuật, đất đai, tài nguyên rừng được giao [36]. 1.2.1.3. Đặc điểm sản xuất kinh doanh của lâm trường - Việc tổ chức sản xuất, kinh doanh của Lâm trường được thực hiện trên một diện tích rất lớn về đất đai, tài nguyên rừng. Theo số liệu điều tra đến cuối năm 2000 tổng diện tích đất tự nhiên các lâm trường trên phạm vi toàn quốc quản lý là 5.000.794 ha, bình quân mỗi lâm trường quản lý, sử dụng 13.589 ha [10]. - Tư liệu sản xuất của lâm trường là tư liệu đặc biệt: đó là đất đai và tài nguyên rừng, nếu người quản lý, sử dụng có những giải pháp đúng đắn, thích hợp thì tư liệu sản xuất đó không những không mất đi mà còn được tái tạo lại và ngày càng phong phú. Nếu ngược lại thì tài nguyên rừng sẽ bị cạn kiệt dần và mất đi.
- 14 - Hoạt động sản xuất, kinh doanh của lâm trường phức tạp, đa dạng và có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài: đối tượng lao động chủ yếu của lâm trường là cây rừng, một thực thể sinh vật chịu sự chi phối rất nhiều về điều kiện tự nhiên (khí hậu, đất đai) và các giải pháp kỹ thuật tác động; quá trình sản xuất vừa mang tính chất nông nghiệp (gieo ươm, tạo cây con, gây trồng, chăm sóc và sản xuất có tính mùa vụ do chịu tác động của thời tiết, khí hậu) vừa mang tính chất công nghiệp (khai thác, vận chuyển, chế biến); chu kỳ kinh doanh dài (theo chu kỳ loài cây trồng) nên việc thu hồi vốn sẽ chậm, chịu rủi ro cao, đòi hỏi phải tổ chức quản lý, theo dõi chặt chẽ, cụ thể và liên tục… - Địa bàn hoạt động sản xuất kinh doanh của lâm trường rộng và phức tạp: phạm vi hoạt động của lâm trường rất rộng, địa bàn sản xuất của lâm trường chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, cơ sở hạ tầng còn thấp kém, nền kinh tế chậm phát triển và là nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số có đời sống còn nhiều khó khăn [10]. 1.2.1.4. Vai trò, vị trí của LTQD trong sản xuất và đời sống xã hội Theo Quyết định 187/1999/QĐ-TTg ngày 16/9/1999 của Thủ tướng Chính phủ quy định vai trò, vị trí của LTQD như sau: - Lâm trường có vai trò nòng cốt trong sản xuất lâm nghiệp, - Làm trung tâm dịch vụ vật tư, kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm cho các tổ chức hộ gia đình và cá nhân sản xuất lâm, nông nghiệp. - Góp phần bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. - Góp phần bảo đảm an ninh quốc phòng trên địa bàn [27]. 1.2.2. Quá trình phát triển, đổi mới của LTQD 1.2.2.1. Quan điểm về đổi mới LTQD Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị nêu rõ: Củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các lâm trường để làm tốt vai trò là trung tâm sản
- 15 xuất, dịch vụ khoa học, kỹ thuật trong từng khu vực. Tăng tiềm lực các doanh nghiệp quốc doanh có vị trí quan trọng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả; sắp xếp lại doanh nghiệp yếu kém và chọn lọc, tổ chức thêm một số doanh nghiệp quốc doanh mới đủ mạnh để bảo đảm vai trò chủ đạo trong các khâu cung cấp giống, vật tư, hướng dẫn kỹ thuật, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, tạo mối liên kết ổn định, lâu dài với nông dân. Năm 2001, Chính phủ đã xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX [29]. Mục tiêu của chương trình là: tiếp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước để doanh nghiệp nhà nước góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của xã hội và nhu cầu cần thiết của quốc phòng, an ninh, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và tạo nền tảng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngày 10 tháng 6 năm 2003, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX) đã ban hành Nghị quyết số 28/NQ-TW về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh. Theo đó lâm trường phải nâng cao hiệu quả sử dụng bền vững tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng; hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung chuyên canh, thâm canh quy mô lớn gắn chế biến với thị trường tiêu thụ; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bổ lại dân cư; tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, bảo vệ môi trường sinh thái và góp phầm xoá đói, giảm nghèo; làm điểm tựa cho phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Đổi mới lâm trường phải gắn với đổi mới về cơ chế quản lý theo hướng phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích [3]. 1.2.2.2. Quá trình hình thành và phát triển, đổi mới của LTQD Quá trình hình thành và phát triển, đổi mới LTQD được khái quát qua từng giai đoạn như sau :
- 16 * Giai đoạn trước năm 1990 Tính đến năm 1975, trên địa bàn các tỉnh ở miền Bắc có gần 200 lâm trường quốc doanh. Ở Miền Nam, sau ngày thống nhất đất nước đã có hàng trăm LTQD được thành lập và hoạt động theo mô hình tổ chức quản lý như các lâm trường ở miền Bắc. Giai đoạn này, các doanh nghiệp nhà nước nói chung và lâm trường nói riêng hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, sản phẩm lâm trường sản xuất ra phải bán cho những khách hàng và theo giá do Nhà nước quy định. Mọi yếu tố đầu vào do Nhà nước bao cấp, phần lớn lợi nhuận lâm trường làm ra phải nộp ngân sách nhưng nếu bị lỗ thì được ngân sách nhà nước cấp bù. Các lâm trường không có đầy đủ quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ của lâm trường là phải phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao hàng năm. Năm 1990, Bộ Lâm nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã tiến hành tổng kết, đánh giá quá trình hoạt động 30 năm (1960 – 1990) của các LTQD và đã rút ra những kết luận như sau: Về ưu điểm: - Lâm trường giữ vai trò là lực lượng chủ lực trong thực hiện nhiệm vụ lâm nghiệp của cả nước. - Là lực lượng tiên phong khai phá mở mang xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, tạo điều kiện để hình thành các cụm dân cư; góp phần quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế-xã hội, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. - Đã tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo cho một bộ phận lớn dân cư ở nông thôn miền núi. Khuyết điểm, tồn tại: - Phần lớn các lâm trường mới được giao đất, giao rừng một cách khái quát trên bản đồ, chưa được xác định một cách rõ ràng cụ thể ranh giới ngoài thực địa nên lâm trường chưa thực sự làm chủ vốn rừng được giao.
- 17 - Chưa có cơ chế gắn trách nhiệm của lâm trường với việc bảo toàn và phát triển vốn rừng, nên việc quản lý sử dụng rừng có những vấn đề bất cập. Vốn rừng ngày càng suy giảm cả về diện tích và chất lượng. - Hoạt động sản xuất kinh doanh của lâm trường chủ yếu dựa vào khai thác rừng tự nhiên. Số lâm trường đầu tư vốn vào lĩnh vực kinh doanh rừng trồng còn rất ít. Một số lâm trường tuy có tiến hành trồng rừng nhưng bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và hiệu quả chưa cao. - Cơ sở vật chất kỹ thuật trong các lâm trường còn nghèo nàn. Máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu, các công trình cầu đường, bến bãi, nhà xưởng bị xuống cấp không được sửa chữa kịp thời. Phần lớn các khâu công việc nặng nhọc trong lâm trường vẫn còn phải thực hiện bằng lao động thủ công. - Tiến bộ kỹ thuật chậm được áp dụng vào sản xuất, năng suất lao động và năng suất rừng trồng rất thấp (bình quân 4-5 m3/ha-năm). - Hiệu quả kinh tế thấp, tình trạng lãi giả lỗ thật xảy ra khá phổ biến. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chỉ vào khoảng từ 2 – 4%/năm. - Đời sống vật chất và tinh thần của người lao động hết sức thấp kém [10]. * Giai đoạn từ 1990 đến năm 1999 Năm 2000, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tiến hành tổng kết hoạt động của LTQD sau 10 năm thực hiện đường lối “Đổi mới” (1990 – 1999) và rút ra những kết luận sau: Những ưu điểm: - Ở một số địa phương đã tiến hành rà soát lại quỹ đất và rừng lâm trường đang quản lý, thu hồi bớt một phần diện tích rừng và đất rừng của lâm trường không sử dụng hoặc sử dụng không có hiệu quả để giao cho dân. - Các lâm trường đã chú ý nhiều hơn đến khâu lâm sinh và bảo vệ rừng. Rừng tự nhiên giao cho lâm trường quản lý được bảo vệ tốt hơn so với giao cho các thành phần kinh tế khác.
- 18 - Nhiều lâm trường đã trụ vững và thích ứng được với cơ chế thị trường. Sản xuất kinh doanh có hiệu quả, hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, đời sống người lao động làm nghề rừng được cải thiện. - Dự án 327 và Dự án 661 giao cho lâm trường quản lý được triển khai và thực hiện đạt kết quả tốt hơn so với việc giao cho các tổ chức khác quản lý do lâm trường sẵn có cơ sở vật chất kỹ thuật, có đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm trong quản lý và có trình độ kỹ thuật trong lâm nghiệp.. Những yếu kém tồn tại: - Hầu hết các lâm trường đều xây dựng phương án điều chế rừng và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, nhưng rất ít lâm trường thực hiện được nguyên tắc quản lý rừng bền vững. Rừng tự nhiên giao cho lâm trường quản lý, sử dụng sau một số năm đều suy giảm cả về diện tích và trữ lượng. - Do không được Nhà nước bao cấp, thiếu vốn đầu tư, nên nhiều lâm trường phải thu hẹp sản xuất hoặc lâm trường chỉ đơn thuần quản lý Dự án 327 hay Dự án 661 đã xảy ra tình trạng lao động dôi dư nhiều hoặc người có việc làm nhưng thu nhập thấp do định mức tiền công khoán quá thấp, nhiều lâm trường không nộp được bảo hiểm xã hội và đời sống của người lao động rất khó khăn. * Giai đoạn từ 2000 đến năm 2005 Trong giai đoạn này, các lâm trường tiếp tục được phát triển và tổ chức lại theo Quyết định 187/1999/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ và có thể phân ra làm ba loại như sau : - Loại thứ nhất, gồm các LTQD được duy trì, củng cố để hoạt động theo cơ chế kinh doanh bao gồm những LTQD đang quản lý rừng tự nhiên là rừng sản xuất và rừng phòng hộ ít xung yếu, những LTQD trồng rừng nguyên liệu công nghiệp. Nhiệm vụ chính của các LTQD thuộc loại này là gây trồng, bảo vệ nuôi dưỡng rừng, khai thác chế biến lâm sản, cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến công nghiệp và nhu cầu tiêu dùng khác của nền kinh tế
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 370 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 413 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 542 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 343 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 319 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 235 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 246 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn