Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai
lượt xem 2
download
Đề tài nghiên cứu nhằm 2 mục tiêu: Tập hợp một cách có hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, sử dụng làm thuốc; đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị, các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lâm nghiệp: Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP --------------------- NGUYỄN THỊ MINH HẢI NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN CÂY THUỐC ĐƯỢC ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG SỬ DỤNG TẠI XÃ SAN SẢ HỒ VÀ XÃ LAO CHẢI, HUYỆN SAPA, TỈNH LÀO CAI Chuyên ngành: Lâm học Mã số: 60.62.60 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỖ THỊ XUYẾN Hà Nội, 2011
- 1 ĐẶT VẤN ĐỀ Rừng là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên sinh vật vô cùng phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, trong những năm gần đây diện tích rừng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng bị suy giảm một cách nhanh chóng làm mất đi môi trường sống của nhiều loài động thực vật. Mặt khác, có rất nhiều loài cây còn chưa được biết tên, chưa phân tích được thành phần hoá học, chưa biết được công dụng của chúng. Đây là một trong những vấn đề còn chứa đựng nhiều bí ẩn. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết sử dụng nguồn dược liệu quý báu từ tự nhiên làm thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Từ việc lựa chọn các loài cây thuốc, phương pháp pha chế, phương pháp sử dụng, các bệnh được chữa,...đều là những kinh nghiệm lâu đời và được ghi chép cẩn thận, lưu truyền qua nhiều thế hệ. Đây là những kinh nghiệm quý báu của mọi dân tộc, mọi quốc gia đều có. Ngày nay, các phương pháp chữa bệnh bằng các loại thảo dược đang được tập trung nghiên cứu và phát triển. Cho đến nay, nước ta đã thống kê được trên 3200 loài cây thuốc (Võ Văn Chi, 1997), đây chắc hẳn chưa phải là con số đầy đủ nếu như không muốn nói là còn ít so với những con số thực tế bởi vì kho tàng kinh nghiệm của các dân tộc là rất lớn, trong khi công tác điều tra, nghiên cứu, thử nghiệm, bảo tồn nguồn tài nguyên quí giá này của chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế. Mặc dù xu thế hiện nay của thế giới là nghiên cứu việc chiết xuất ra các dạng dược phẩm có giá trị nhưng việc điều tra, nghiên cứu về nguồn dược liệu của các dân tộc hiện nay vẫn đang là vấn đề cần được quan tâm một cách sâu sắc. Các loài cây cỏ, đặc biệt là các loài cây thuốc có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời sống của các đồng bào dân tộc miền núi, ngoài được sử dụng làm thức ăn, làm nguyên liệu để xây dựng...thì các loài cây cỏ còn có vai trò quan trọng trong việc chữa các loại bệnh. Những kinh nghiệm của đồng bào dân tộc đến nay đã có nhiều kiểm nghiệm, chứng minh cơ sở chữa bệnh của chúng. Tuy nhiên, từ khi hoà bình lập lại, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngành dược liệu ngày càng phát triển mạnh nên các kinh nghiệm dân gian ít được quan tâm. Mặt khác, các kinh
- 2 nghiệm chữa bệnh này cũng chỉ có ở những người cao tuổi và những người này chỉ truyền lại cho con cái họ khi họ sắp qua đời. Vì vậy, những kinh nghiệm dân gian này đang ngày dần bị mai một. Sapa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai với phần lớn dân số là các đồng bào dân tộc ít người có cuộc sống phụ thuộc vào tài nguyên rừng, trong đó có các loài cây thuốc. Dân tộc H’Mông là một trong số các đồng bào dân tộc có truyền thống và nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng các loài cây thuốc phục vụ cho chữa bệnh. Tuy nhiên, giá trị của nguồn tài nguyên cây thuốc ở huyện Sapa cũng như những kinh nghiệm bản địa của đồng bào dân tộc H’Mông nơi đây chưa được đánh giá một cách đầy đủ. Thêm vào đó, việc khai thác cây thuốc một cách bừa bãi của đồng bào sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với nguồn tài nguyên này cũng như tới công tác bảo vệ phát triển rừng, bảo tồn thiên nhiên của Vườn quốc gia Hoàng Liên nói riêng và của hụyện Sapa nói chung. Xuất phát từ những lý do trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu tài nguyên cây thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai” nhằm mục đích làm cơ sở để sử dụng hợp lý tài nguyên thực vật, góp phần vào công cuộc bảo tồn các loài thực vật và tri thức bản địa của Việt Nam cũng như trong khu vực.
- 3 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước trên thế giới 1.1.1. Từ trước thể kỷ XX Thực vật đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống của loài người. Một trong những tác dụng không thể không kể đến của thực vật là làm thuốc chữa bệnh. Trải qua nhiều thế hệ, với sự tích lũy kinh nghiệm, đã có rất nhiều loài cây có tác dụng chữa bệnh được tìm ra. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, ngày càng có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về công dụng của các loài cây nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống. Vấn đề sử dụng cây cỏ làm thuốc được các quốc gia trên thế giới tiến hành ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của dân tộc đó. Trung Quốc là một trong những quốc gia có nền y học cổ truyền rất phát triển. Theo truyền thuyết của Vua Thần Nông tức Viêm Đế (3320 – 3080 trước Công nguyên) thì Thần Nông đã đếm hàng trăm loại cây cỏ, phân loại dược tính của cây cỏ và soạn ra cuốn sách “Thần nông thảo bản”. Theo các tài liệu nghiên cứu về Trung Quốc của các nhà khoa học thì “Thần nông thảo bản” không soạn trong đời Thần Nông mà được soạn vào đời Đông Hán, vì thời Thần Nông không có văn tự. Tất cả mọi chuyện đều là truyền thuyết. Trong cuốn “Thần nông thảo bản” đã thống kê được 365 vị thuốc có giá trị. Trong đó, nhiều bài thuốc vẫn được sử dụng cho tới ngày nay như cây Gai mèo (Cannabis sp) để chống nôn, cây Đại Phong Tử (Hydnocarpus kurzii) làm thuốc chữa bệnh phong… Vào thời Tam Quốc, danh y Hoa Đà, sử dụng Đàn hương, Tử đinh hương để chế hương nang để phòng chống và chữa trị bệnh lao phổi và bệnh lỵ. Ông còn dùng hoa Cúc, Kim ngân phơi khô cho vào chiếc gối (hương chẩm) để điều trị chứng đau đầu, mất ngủ, cao huyết áp. Từ thời nhà Hán (năm 168 trước Công nguyên) trong cuốn sách “Thủ hậu bị cấp phương” tác giả đã kê 52 đơn thuốc chữa bệnh từ các loại cây cỏ. Giữa thế kỷ XVI, Lý Thời Trân đã thống kê 12.000 vị thuốc trong tập “Bản thảo cương mục”,…. [30] Cho đến nay, Trung Quốc đã cho ra đời khá nhiều công trình về sử dụng các loài cây cỏ để chữa bệnh.
- 4 Ở các vùng khác tại Châu Á như Việt Nam và Nhật Bản, y học và văn hóa Trung Quốc đã có ảnh hưởng lớn. Mặc dù Kampod – dược thảo cổ truyền của Nhật Bản, là nét đặc sắc về y học của quốc gia này, nhưng nguồn gốc thật sự của phương thuốc này lại bắt đầu từ Trung Quốc. Không chỉ có ở Trung Quốc, nhiều nước khác cũng có những kinh nghiệm chữa bệnh lâu đời của họ. Ở Ấn Độ, nền y học cổ truyền được hình thành cách đây hơn 3000 năm. Chủ trương của người Ấn là ngừa bệnh là chính, nếu phải điều trị bệnh thì các liệu pháp tự nhiên chủ yếu thông qua thực phẩm và thảo mộc sẽ giúp loại bỏ gốc rễ căn bệnh. Bộ sử thi Vedas được viết vào năm 1.500 TCN và cuốn Charaka samhita được các thầy thuốc Charaka bổ sung tiếp vào bộ sử thi Vedas, trình bày cụ thể 350 loài thảo dược. Trong số đó, có cây cần ami (Ammi visnaga) là loài thảo mộc có nguồn gốc từ Trung Đông, gần đây được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị bệnh hen suyễn, cây rau má (Centella asiatica) từ lâu được sử dụng để chữa bệnh phong.. Ấn Độ là quốc gia rất phát triển về nghiên cứu thảo dược như tổng hợp chất hữu cơ, tách chiết chứng minh cấu trúc, sàng lọc sinh học, thử nghiệm độc tính, và nghiên cứu tác dụng hóa học của các chất tới cơ thể con người. Hiện nay, chính phủ khuyến khích sử dụng công nghệ cao trong trồng cây thuốc. Hầu hết các viện nghiên cứu dược của Ấn Độ đã tham gia vào nghiên cứu chuyển hóa các loại thuốc và hợp chất có hoạt tính từ thực vật. Từ thời cổ xưa, các chiến binh La Mã đã biết dùng dịch cây Lô hội (Aloe barbadensis) để rửa vết thương, vết loét làm cho chúng chóng lành bệnh mà ngày nay khoa học đã chứng minh là dịch cây có khả năng làm liền sẹo thông qua sự kích thích tổ chức hạt và tăng nhanh quá trình biểu mô hóa. Người cổ Hy Lạp đã sử dụng rau Mùi tây (Coriandrum officinale) để đắp vết thương cho mau lành. Hippocratrs (460 – 377 TCN), ông tổ của y học Hy Lạp, xem bệnh tật là một hiện tượng tự nhiên chứ không phải là một hiện tượng siêu nhiên và ông cho rằng người ta có thể dùng các vị thuốc mà không cần phải tiến hành các nghi lễ cúng bái hoặc phù phép.
- 5 Ở Châu Âu, vào thời Trung cổ, các kiến thức về cây thuốc chủ yếu được các thầy tu sưu tầm và nghiên cứu. Họ trồng cây thuốc và dịch các tài liệu về thảo mộc bằng tiếng Ả rập. Vào năm 1649, Nicolas Culpeper đã viết cuốn sách “A Physical Directory”, sau đó vài năm, ông lại xuất bản cuốn “The English Physician”. Đây là cuốn dược điển có giá trị và là một trong những cuốn sách hướng dẫn đầu tiên dành cho nhiều đối tượng sử dụng, người không chuyên có thể sử dụng để làm cẩm nang chăm sóc sức khỏe. Cho đến nay, cuốn sách này vẫn được tham khảo và trích dẫn rộng rãi. Galen (131-200 SCN), một thầy thuốc của Hoàng đế La Mã Marcus Aurelius, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của các vị thuốc bào chế từ thảo mộc. Galen được Hippocratrs chỉ dẫn và đã đặt các giả thuyết chữa bệnh của mình trên cơ sở khoa học thuyết bốn thể dịch (gồm bốn chất lỏng chính hay thể dịch tồn tại trong cơ thể con người như: máu, dịch mật, u sầu và đàm). Những ý tưởng của ông có ảnh hưởng to lớn đến việc chữa bệnh trong 1400 năm sau. Tại Ấn Độ và Trung Quốc, các phương pháp trị bệnh tinh tế có phần tương tự với học thuyết bốn thể dịch cũng đã phát triển và tồn tại cho tới ngày nay. 1.1.2. Từ sau thế kỷ XX Trong Y học dân gian Liên Xô đã sử dụng nước sắc vỏ cây Bạch dương (Betula alba), vỏ cây Sồi (Quercus robus) để rửa vết thương và tắm ghẻ. Ở nước Nga, Đức đã dùng cây Mã đề (Plantago major) sắc nước hoặc giã nát lá tươi đắp, chữa trị vết thương, viêm tiết niệu, sỏi thận. Tại Bungaria, “đất nước của hoa hồng” từ lâu đã sử dụng hoa hồng để chữa nhiều bệnh khác nhau. Người ta dùng cả hoa, lá, rễ để làm thuốc tan huyết ứ và phù thũng. Ngày nay, người ta đã chứng minh được trong cánh hoa hồng có một lượng tanin, glusit, tinh dầu đáng kể, tinh dầu này không chỉ để chế nước hoa mà còn được dùng để chữa nhiều bệnh. [13] Thầy lang và những bài thuốc cổ truyền từ thực vật đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe của hàng triệu người. Tỷ lệ người làm nghề thuốc cổ truyền và các bác sĩ được đào tạo ở các trường Đại học có liên quan tới toàn bộ dân số của các nước châu Phi. Ước tính số lượng thầy lang ở Tanzanmia có khoảng 30.000 – 40.000
- 6 người, trong đó, bác sĩ làm nghề y chỉ có khoảng 600 người. Tương tự ở Malasia có khoảng gần 20.000 người làm nghề thuốc cổ truyền nhưng số lượng bác sĩ rất ít. Nền y học cổ truyền ở các quốc gia Châu Phi có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe cộng đồng. Từ lâu, người Haiiti thường dùng cây Cỏ lào (Eupatorium odoratum) để làm thuốc chữa những vết thương bị nhiễm khuẩn, cầm máu, áp xe, nhức răng, vết loét lâu ngày không liền sẹo. Ở Pêru, người ta dùng hạt của cây Sen cạn (Tropaeolum majus L.) để trị phổi và đường tiết niệu. Ở Cu Ba, người ta đã dùng bột papain lấy từ mủ cây Đu đủ (Carica papaya) để kích thích hoại tử, kích thích tổ chức hạt ở các vết thương phát triển. Ở Philippin, người ta sử dụng cây Bồ cu vẽ (Breynia fructicosa) lấy vỏ sắc làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc lên mụn nhọt, vết lở loét làm chúng chóng khỏi. Ở Malaixia, cây Húng chanh (Coleus amboinicus) dùng lá sắc cho phụ nữ sau khi sinh đẻ uống hoặc giã nhỏ, vắt nước cốt cho trẻ em uống trị sổ mũi, đau họng, ho gà. Ở Cămpuchia, Malaixia người ta dùng Hương nhu tía (Ocimum sanctum), trong đó rễ trị đau bụng, sốt rét, nước lá tươi có tác dụng long đờm hoặc giã nát đắp trị bệnh ngoài da, khớp. Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên ở khu vực Đông Nam Á, Perry đã ghi nhận những cây thuốc trong Y học cổ truyền và các loài cây này đã được các nhà khoa học kiểm chứng, trong đó có 146 loài có tính kháng khuẩn. [13]. Hay gần đây, tập thể các nhà khoa học đã cho ra đời cuốn sách Tài nguyên các loài cây thuốc ở Đông Nam Á “Plant Resources of South-East Asia, Medicinal and poisonous Plant (2001)” với 121 loài cây [46]. Cùng với phương thức chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian, các nhà khoa học trên thế giới tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu cơ chế và các hợp chất hóa học trong cây có tác dụng chữa bệnh, đúc rút thành những cuốn sách có giá trị. Các nhà khoa học công nhận rằng hầu hết các cây cỏ đều có tính kháng sinh, đó là khả năng miễn dịch tự nhiên của thực vật. Tác dụng kháng khuẩn do các hợp chất tự nhiên có mặt phổ biến trong thực vật như phenolic, antoxy, các dẫn xuất quino, ancaloid, flavonoid, saponin, … Cho đến nay, nhiều hợp chất tự nhiên đã được giải mã về cấu
- 7 trúc, những hợp chất này được chiết xuất từ cây cỏ để làm thuốc. Dựa vào cấu trúc được giải mã, người ta có thể tổng hợp nên các chất nhân tạo để chữa bệnh. Gotthall (1950) đã phân lập được chất Glucosid barbaloid từ cây Lô hội (Aloe vera), chất này có tác dụng với vi khuẩn lao ở người và vi khuẩn Baccilus subtilis. Lucas và Lewis (1994) đã chiết xuất một hoạt chất có tác dụng với các loài vi khuẩn gây bệnh tả, lị, mụn nhọt từ Kim ngân (Lonicera sp). Từ cây Hoàng Liên (Coptis teeta), người ta đã chiết xuất được berberin. Trong lá và rễ cây Hẹ (Allium odorum) có các hợp chất sulfua, sapoin và chất đắng. Năm 1948, Shen-Chi-Shen phân lập được một hoạt chất Odorin ít độc đối với động vật bậc cao nhưng lại có tác dụng kháng khuẩn. Hạt của cây Hẹ cũng có chứa chất Alcaloid có tác dụng kháng khuẩn gram+ và gram-, nấm. Reserpin và Serpentin là chất hạ huyết áp được chiết xuất từ cây Ba gạc (Rauvolfa spp.). Đặc biệt, Vinblastin và Vincristin vừa có tác dụng hạ huyết áp vừa có tác dụng làm thuốc chống ung thư, được chiết xuất từ cây Dừa cạn. Digitalin được chiết xuất từ cây Dương địa hoàng (Digitalis spp.), strophatin được chiết xuất từ cây Sừng dê (Strophanthus spp.) để làm thuốc trợ tim. Từ những thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất tự nhiên, nhiều loại thuốc có tác dụng chữa bệnh cao đã ra đời bằng tổng hợp hoặc bán tổng hợp. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985, có trên 20.000 loài thực vật bậc cao có mạch và ngành thực vật bậc thấp được sử dụng trực tiếp làm thuốc hoặc cung cấp các hoạt chất tự nhiên để làm thuốc (trong tổng số 250.000 loài đã biết). Trong đó, vùng nhiệt đới Châu Mỹ có hơn 1.900 loài, vùng nhiệt đới Châu Á có khoảng 6.500 loài thực vật có hoa được dùng làm thuốc. Mức độ sử dụng thuốc thảo dược ngày càng cao. Khoảng 80% dân số ở các quốc gia đang phát triển sử dụng các phương pháp y học cổ truyền để chăm sóc sức khỏe, trong đó chủ yếu là cây cỏ. Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, có nền y học dân tộc phát triển nên trong số cây thuốc đã biết hiện nay có tới 80% số loài (khoảng trên 4.000 loài) là được sử dụng theo kinh nghiệm cổ truyền của các dân tộc ở đât nước này. Ở Ghana, Mali, Nigeria và Zambia, 60% trẻ em có triệu chứng sốt rét ban đầu được điều trị tại chỗ bằng thảo
- 8 dược. Tỷ lệ dân số tin tưởng vào hiệu quả sử dụng thảo dược và các biện pháp chữa bệnh bằng y học cổ truyền cũng đang tăng nhanh ở các quốc gia phát triển. Ở Châu Âu, Bắc Mỹ, và một số nước khác, ít nhất 50% dân số sử dụng thực phẩm bổ sung hay thuốc thay thế từ thảo mộc. Ở Đức, 90% dân số sử dụng các phương thuốc có nguồn gốc thiên nhiên để chăm sóc sức khỏe. Ở Anh, chi phí hàng năm cho các loại thuốc thay thế từ thảo mộc là 230 triệu đôla. Tuy nhu cầu sử dụng cây thuốc của con người trong việc chăm sóc sức khỏe ngày một tăng, nhưng nguồn tài nguyên thực vật đang bị suy giảm. Nhiều loài thực vật đã bị tuyệt chủng hoặc đang bị đe dọa tuyệt chủng do các hoạt động trực tiếp và gián tiếp của con người. Theo tổ chức Bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) cho biết, trong tổng số 43.000 loài thực vật mà cơ quan này lưu giữ thông tin có tới 30.000 loài được coi là đang bị đe dọa tuyệt chủng ở các mức độ khác nhau. Trong đó có nhiều loài là cây thuốc quý hiếm, có giá trị kinh tế cao. Chẳng hạn như ở Bangladesh, một số cây thuốc quý như Tylophora indicia để chữa hen, Zannia indicia (thuốc tẩy xổ)…trước đây mọc rất phổ biến, nay đã trở nên hiếm hoi. Loài Ba gạc (Rauvolfila serpentina) vốn mọc rất tự nhiên ở Ấn Độ, Bangladesh, Thái Lan…mỗi năm có thể khai thác hàng ngàn tấn nguyên liệu xuất khẩu sang thị trường Âu, Mỹ làm thuốc chữa cao huyết áp. Tuy nhiên, do bị khai thác liên tục nhiều năm nên nguồn gốc cây thuốc này đã bị cạn kiệt. Vì vậy một số bang ở Ấn Độ đã đình chỉ khai thác loài Ba gạc này [20]. Vào những năm 1960, Trung Quốc đã thiết lập được một hệ thống gồm “các bác sĩ chân đất” nhằm phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe của hàng triệu người dân các vùng nông thôn. Chính nhờ vậy, mà nền Y học Cổ Truyền Trung Quốc được củng cố và phát triển mạnh với nhiều phương thuốc chữa bệnh được ghi chép trong nhiều tác phẩm. Trong cuốn sách “Cây thuốc Trung Quốc” xuất bản năm 1985 đã liệt kê một loạt các cây cỏ chữa bệnh như: cây gấc (Momordica cochinchinensis) có rễ chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch, hạt chữa trị sưng tấy đau khớp, sốt rét, vết thương tụ máu; cải soong (Nasturtium officinale) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu chân răng, bướu cổ.
- 9 Nguyên nhân gây nên sự suy giảm nghiêm trọng về mặt số lượng của các loài cây thuốc trước hết là do sự khai thác quá mức nguồn tài nguyên dược liệu và do môi trường sống của chúng bị hủy diệt bởi các hoạt động của con người. Đặc biệt, ở các vùng rừng nhiệt đới và Á nhiệt đới là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao của thế giới nhưng lại bị tàn phá nhiều nhất. Theo số liệu của tổ chức Nông Lương (FAO) của Liên hợp quốc, trong vòng 40 năm (1940 – 1980), diện tích của các loại rừng kể trên đã bị thu hẹp tới 44%, ước tính khoảng 75.000 hecta rừng bị phá hủy. Trong thế kỷ 21, với mục đích phục vụ sức khỏe con người, sự phát triển của xã hội, chống lại các bệnh nan y thì sự cần thiết là phải kết hợp giữa Đông Y với Tây Y, giữa Y học hiện đại và Y học cổ truyền của các dân tộc. Chính những kinh nghiệm của các dân tộc là chìa khóa giúp chúng ta khám phá ra nhiều loại thuốc mới cho tương lai. Chính vì điều đó mà việc bảo tồn, khai thác và phát triển các loài cây thuốc cần được chú ý quan tâm. Vấn đề chính trong tương lai của ngành dược liệu là các cây thuốc chữa bệnh và kiến thức cổ truyền hiện đang sử dụng sẽ được đánh giá đúng như những gì nó có, đó là những nguồn lợi to lớn của sự an toàn, kinh tế và các phương thuốc cân bằng sinh thái, hay chúng chỉ được khai thác cho những khía cạnh khác của cuộc sống vì những lợi ích nhất thời. 1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam Cũng như các dân tộc khác, nền y học cổ truyền của Việt Nam đã có từ rất lâu đời, nhiều phương thuốc bào chế từ cây thuốc được áp dụng chữa bệnh trong dân gian. Những kinh nghiệm này đã được ghi chép thành những cuốn sách có giá trị và lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với lợi thế về khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng và ẩm, Việt Nam có nguồn tài nguyên thực vật phong phú. Ước tính, nước ta có khoảng 12.000 loài thực vật bậc cao có mạch, 800 loài rêu, 600 loài nấm và hơn 2.000 loài tảo. Có khoảng gần 4.000 loài thực vật bậc cao dùng làm thuốc [41]. Dưới thời Hồng Bàng và các vua Hùng Vương (năm 2400-258 trước Công nguyên) qua các văn tự hán nôm còn sót lại, tổ tiên ta đã biết dùng cây cỏ làm gia vị, kích thích sự ngon miệng và chữa bệnh. Theo Long Úy chép lại, vào đầu thế kỷ
- 10 thứ 2 trước Công nguyên, có hàng trăm vị thuốc từ đất Giao Chỉ như Ý dĩ (Coix lachryma-jobi), Hoắc hương (Pogostemon cablin), hay việc tìm ra bột đao trong thân cây Báng, quả Cọ, Móc có chất bổ ăn để chống đói; dùng Gừng ăn với chim, cá, ba ba cho đỡ tanh và dễ tiêu hoá, từ đó đã bắt nguồn tục dùng Gừng, Hành, Tỏi,… làm gia vị trong bữa ăn hàng ngày để phòng bệnh. [23] Vào thế kỷ XVI, danh y Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) là người có công phát triển nền y dược học Việt Nam tới đỉnh cao. Cuốn sách thuốc đầu tiên của ông được nhiều người biết đến là cuốn “Nam dược thần hiệu” với 11 quyển, nói tới công dụng của 496 vị thuốc Nam. Tác phẩm tiếp theo cũng gây được tiếng vang đó là “Hồng nghĩa giác tứ y thư” với hai bài Hán Nôm, trong đó có tóm tắt công dụng của 130 loài cây thuốc cùng cách chữa trị 37 chứng sốt khác nhau. Hai cuốn sách này được xem là những cuốn sách xuất hiện sớm nhất về cây thuốc Việt Nam. Đời nhà Trần có Phạm Ngũ Lão thừa lệnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, thu thập trông nom một vườn thuốc lớn để chữa bệnh cho quân sĩ, gọi là “Sơn dược”, nay vẫn còn di tích tại xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Đến thế kỷ 18, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã xuất bản bộ sách lớn “Y Tông Tâm Tĩnh” gồm 28 tập, 66 quyển đã mô tả khá chi tiết về các loài thực vật, các đặc tính chữa bệnh [24]. Thời kỳ Pháp thuộc (1884 - 1945), nền y học cổ truyền của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của dược học phương Tây. Các phương thức chữa bệnh mới được mang đến qua quá trình khai thác thuộc địa, họ đã gián tiếp thúc đẩy quá trình nghiên cứu thực vật của Việt Nam nói chung và nghiên cứu cây thuốc nói riêng. Đặc biệt bộ sách “Thực vật chí đại cương Đông Dương” của Lecomte (chủ biên) xuất bản cuối thể kỷ 18 đầu thể kỷ 19 đã mô tả và phân loại hơn 7.000 loài thực vật [49]. Bộ sách “Danh mục các sản phẩm ở Đông Dương” của C. Crévost và A. Pétélot năm 1935 đã thống kê được 1.340 vị thuốc có nguồn gốc thảo mộc được dùng trong y học của Đông Dương [49]. Đến năm 1952 tác giả tái bản lại cuốn sách, bổ sung và đặt tên mới là “Những cây thuốc của Campuchia, Lào và Việt Nam” gồm 4 tập, 1.050 trang và thống kê khoảng 1.480 loài thực vật. Tuy nhiên
- 11 cuốn sách này chưa hoàn thiện về mô tả, phân bố, thành phần hóa học và dược lý của các loại thảo mộc. Trong thời gian 1962-1965, Đỗ Tất Lợi đã tổng hợp các công trình khoa học đã công bố và các kết quả nghiên cứu của cá nhân để biên soạn bộ sách “Các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” gồm 6 tập. Năm 1995, tác giả bổ sung và hoàn thiện công trình nêu trên, trong đó giới thiệu hơn 800 loài động vật và thực vật làm thuốc, trong đó nhiều loài thực vật đã được mô tả về mặt cấu tạo, phân bố, cách thu hái và chế biến, thành phần hóa học, công dụng và liều dùng. Đây là bộ sách có giá trị lớn về mặt khoa học, kết hợp giữa khoa học dân gian với khoa học hiện đại. Cùng thời gian này, nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về thành phần loài và công dụng của các cây thuốc ở nước ta. Các công trình nghiên cứu lần lượt được công bố phục vụ cho việc sử dụng và phát triển cây thuốc như : + Vũ Văn Chuyên (1976) cho công bố tập “Tóm tắt đặc điểm các họ cây thuốc”[10]. + Vũ Văn Kính (1979) xuất bản “Sổ tay y dược học” với 500 bài thuốc gia truyền. + Phạm Hoàng Hộ (1991-1993) đã xuất bản bộ sách “Cây cỏ Việt Nam” đã giới thiệu được công dụng làm thuốc của nhiều loài thực vật [16]. Thời gian này nhiều đề tài điều tra nghiên cứu cây thuốc được triển khai. Trong các đợt điều tra sưu tầm được thực hiện từ năm 1961 đến năm 1985, đã thống kê trên toàn quốc có 1.863 loài và dưới loài thực vật dùng làm thuốc. Theo Viện Dược liệu, phần lớn các cây thuốc được sử dụng theo kinh nghiệm của dân gian, chỉ có khoảng 5% các loài là ghi nhận theo tài liệu nước ngoài. Trong đó, 700 loài phân bố chủ yếu ở các vùng rừng núi, 400 loài phân bố ở vùng đồi và trung du. Theo số liệu điều tra của Viện Dược liệu (2001), nước ta có 3.800 loài cây thuốc. Dự đoán số loài cây thuốc của Việt Nam nếu được nghiên cứu đầy đủ sẽ có thể lên tới 6.000 loài. Như vậy, tiềm năng cây thuốc của nước ta là rất dồi dào. Võ Văn Chi (1997) trong cuốn sách từ điển cây thuốc Việt Nam, đã mô tả được 3.200 loài cây thuốc, trong đó thực vật có hoa là 2.500 loài thuộc 1.050 chi, được xếp và 230 họ thực vật theo hệ thống của Takhtajan. Tác giả đã trình bày về
- 12 cách nhận biết, các bộ phận được sử dụng, nơi sống và thu hái, thành phần hóa học, tính vị và tác dụng, công dụng của các loài thực vật [7]. Đến năm 2000, Võ Văn Chi và Trần Hợp tiếp tục giới thiệu cuốn sách “Cây cỏ có ích ở Việt Nam” mô tả khoảng 6.000 loài thực vật bậc cao có mạch với các đặc điểm hình thái, sinh thái, phân bố và công dụng [8], [6]. Trong nghiên cứu cây thuốc, không thể không kể đến nhiều bộ công trình có giá trị của Viện Dược liệu (Bộ Y Tế) là: Đỗ Huy Bích và Bùi Xuân Chương (1980) đã giới thiệu 159 loài cây thuốc trong “Sổ tay cây thuốc Việt Nam”; Tập thể các tác giả Viện Dược Liệu (1993) cho ra đời cuốn “Tài nguyên Cây thuốc Việt nam” với khoảng 300 loài cây thuốc đang được khai thác và sử dụng ở các mức độ khác nhau trong toàn quốc; Tập thể các tác giả Viện Dược Liệu (1994) “Dược điển Việt Nam, 2 tập” (1994); Tập thể các tác giả Viện Dược Liệu (2001) “Selected medicinal plants in Vietnam”; Tập thể các tác giả Viện Dược Liệu (2004) “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, 2 tập”. Nguyen Van Duong (1993), đã xuất bản cuốn “Medicinal plants of Vietnam, Cambodia and Laos”, trong đó có 879 loài cây thuốc được mô tả. [47] Trần Đình Lý (1993) và cộng sự đã xuất bản cuốn sách “1900 loài cây có ích”. Trong số các loài thực vật bậc cao có mạch đã biết ở Việt Nam có 76 loài cho nhựa thơm, 160 loài có tinh dầu, 260 loài cho dầu béo, 600 loài chứa tanin, 500 loài cây gỗ có giá trị cao, 400 loài tre nứa, 40 loài song mây. Trong số các nhóm thực vật này, rất nhiều loài có công dụng làm thuốc, Ngô Trực Nhã với “Cây thuốc trong trường học”, [35]... Bên cạnh đó, nhiều cuốn sách có giá trị trong nghiên cứu về tài nguyên cây thuốc ở Việt Nam như Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (2003, 2005) đã công bố bộ sách “Danh lục các loài thực vật Việt Nam” [2] [37]. Cuốn sách đã trình bày đầy đủ các thông tin về tên khoa học, tên thường gọi, nhận dạng, phân bố, dạng sống – sinh thái và công dụng. Bộ sách này rất có ý nghĩa cho việc tra cứu hệ thực vật nói chung và tra cứu thành phần loài cây thuốc nói riêng.
- 13 Trong những năm qua, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách đầu tư cho công tác điều tra, nghiên cứu về cây thuốc và kế thừa nền y học cổ truyền, phục vụ cho nhu cầu chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Các ngành Y tế, Lâm nghiệp và Sinh học đã tiến hành nhiều đợt điều tra cơ bản, đặc biệt là chương trình điều tra nghiên cứu cây thuốc của Viện Dược liệu – Bộ Y tế đã tiến hành trên phạm vi toàn quốc. Đến nay ở nước ta có khoảng 3.948 loài cây thuốc được ghi nhận, thuộc 307 họ của 9 ngành thực vật bậc cao và bậc thấp, bao gồm cả nấm. Kết quả điều tra được ghi nhận là các kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của cộng đồng dân tộc ở các địa phương trong cả nước. Hay các nhà khoa học thuộc Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về tri thức và kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Đặc biệt là các nghiên cứu về y học cổ truyền của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc trong những năm gần đây như: Đề tài Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri thức bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học; Nghiên cứu và ứng dụng thành công tri thức sử dụng cây Ngấy (Rubus cochinchinesis) của đồng bào dân tộc trong việc chữa trị u tiền liệt tuyến của tác giả Lưu Đàm Cư và cộng sự (2002). Năm 2001, Nguyễn Thị Phương Thảo và cộng sự đã điều tra đánh giá về tài nguyên cây thuốc và kinh nghiệm sử dụng các loài thực vật làm thuốc của một số cộng đồng dân tộc Dao, Tày và Hoa tại Yên Tử - Quảng Ninh và đã thu thập được 362 loài thực vật làm thuốc. Năm 2005, tác giả đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu tác động kinh tế - dân sinh của các cộng đồng dân tộc vào tài nguyên thực vật và ảnh hưởng của nó tới đa dạng sinh học tại Chiềng Yên – Mộc Châu – Sơn La”. Kết quả đã thống kê được 209 loài cây thuốc do người H’Mông sử dụng và 176 cây thuốc được người Dao sử dụng. Hay công trình của Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự (2001) về “Cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái ở Con Cuông, tỉnh Nghệ An”; Phạm Quốc Hùng và Hoàng Ngọc Ý (2009). Nghiên cứu tri thức bản địa trong bảo vệ rừng của người Mông tại khu BTTN Hang Kia – Pà Cò, tỉnh Hoà Bình [18].
- 14 1.3. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện SaPa, tỉnh Lào Cai Trước đây, xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai cũng như nhiều vùng núi khác, việc chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho người dân còn rất hạn chế và khó khăn. Người dân tự tìm hiểu và tìm ra được nhiều loài cây rừng có tác dụng chữa bệnh. Những tri thức và kinh nghiệm sử dụng những loài cây để chữa bệnh đã được người dân địa phương giữ gìn và lưu truyền lại qua nhiều đời, nhiều thế hệ sau. Về sau, một phần nhỏ người dân, chủ yếu là các bà mế, ông lang ở đây đã đưa một số loài cây thuốc về trồng trong vườn nhà. Tuy nhiên đó chỉ là số lượng nhỏ, một số loài không thể trồng được nên họ vẫn khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc trong rừng để chữa bệnh, trao đổi mua bán. Đề án "Điều tra đánh giá dược liệu một số vùng trọng điểm của tỉnh Lào Cai" (Viện Dược liệu 1997, 1998) đã thống kê có 706 loài cây thuốc có tiềm năng làm thuốc ở huyện Sapa, trong đó có xã San Sả Hồ và xã Lao Chải. Theo điều tra sơ bộ của Viện Dược liệu chỉ có 17 loài còn trữ lượng khá, có khả năng khai thác tự nhiên. Phần lớn là các cây thuốc thông thường. Có 35 loài cây thuốc bị đe dọa ở các mức độ khác nhau bao gồm 10 loài ở mức độ E (Endangered - đang nguy cấp); 8 loài ở mức độ V (Vulnerable - sẽ nguy cấp); 10 loài ở mức độ R (Rare- hiếm); 7 loài ở mức độ T (Threatened - bị đe dọa). Có 98 loài cây thuốc được trồng ở huyện Sa Pa. Trong đó 23 loài được trồng phổ biến như: Thảo quả, Bạch truật, Đỗ trọng, Lão quan thảo, Đương quy,... Phần lớn các cây là nhập nội, chỉ có một số loài là bản địa. Năm 2003, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tiến hành đề tài “Xây dựng luận cứ khoa học để bảo vệ tri thức bản địa cho việc sử dụng đa dạng sinh học” có triển khai tại một số điểm của huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, nhưng đây chỉ là một số ghi nhận nhỏ [43]. Năm 2008, Nguyễn Nghĩa Thìn và cộng sự công bố “Đa dạng sinh học VQG Hoàng Liên” trong đó có ghi nhận nằm trong khu vực VQG có 761 loài cây thuốc. Cũng theo tác giả thì nơi đây là trung tâm của các loài cây thuốc nguy cấp, một số loài cây thuốc quí hiếm như Ô đầu (Aconitum camichaeli), Bạch chỉ (Angelica
- 15 dahurica), Đương quy (Angelica uchiyamae), Dâm dương hoắc (Epimedium macranthum), Tam thất (Panax stipuleanatus), Hoàng liên (Coptis chinensis),… Nhưng đây là công trình tổng hợp về đa dạng sinh học nói chung của cả vườn quốc gia, không có ghi nhận về các bài thuốc của đồng bào các dân tộc nơi đây [36]. Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào về vấn đề cây thuốc và vị thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai được xuất bản, chưa có dự án nào về bảo tồn các loài cây thuốc hiện có trong nguồn gen thực vật của các xã này được triển khai.
- 16 Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Mục tiêu của đề tài - Tập hợp một cách có hệ thống các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, sử dụng làm thuốc. - Đánh giá mức độ đa dạng về thành phần các taxon, các bệnh chữa trị, các bộ phận sử dụng và dạng sống của những loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc. 2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Các loài thực vật bậc cao có mạch được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, sử dụng làm thuốc. - Một số bài thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai đang lưu trữ và sử dụng. - Thời gian thực hiện: Từ tháng 12 năm 2010 đến tháng 10 năm 2011. 2.3. Nội dung nghiên cứu 2.3.1. Đa dạng loài Thu thập và xử lý mẫu vật, xác định tên, xây dựng danh lục và phân tích đánh giá đa dạng các loài thực vật được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai sử dụng làm thuốc. 2.3.2. Sự phân bố các loài cây thuốc theo môi trường sống 2.3.3. Xây dựng bản đồ phân bố các loài cây thuốc có giá trị cần được bảo vệ 2.3.4. Vấn đề sử dụng cây thuốc: Đa dạng về công dụng chữa trị của các loài cây thuốc, bộ phận của cây được sử dụng làm thuốc. Một số bài thuốc 2.4. Phương pháp nghiên cứu 2.4.1. Điều tra thực địa theo tuyến Điều tra khảo sát sơ bộ sau đó ta tiến hành chọn tuyến điều tra. Tuyến được chọn phải đảm bảo yêu cầu phải chạy qua các sinh cảnh đặc trưng cho Vườn quốc
- 17 gia. Trên mỗi tuyến cắt ngang chọn các ô tiêu chuẩn là những điểm chốt đặc trưng nhất để nghiên cứu đa dạng tài nguyên cây thuốc (Theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997). Trên mỗi tuyến, tiến hành điều tra các loài cây thuốc của đồng bào dân tộc H’Mông sử dụng trong phạm vi 10 m mỗi bên. Mỗi loài lấy 5-6 tiêu bản. Sau thời gian gần một năm với 2 chuyến điều tra thực địa, được sự giúp đỡ của Ban lâm nghiệp xã San Sả Hồ và xã Lao Chải và các trạm kiểm lâm trực thuộc, các ông lang, bà mế, chúng tôi đã tiến hành 2 chuyến điều tra khảo sát và thu mẫu trong phạm vi khu vực nghiên cứu. - Các tuyến điều tra thực địa là: + Xã San Sả Hồ: tuyến đi suối Cát Cát, tuyến đi Ý Linh Hồ, tuyến đi Sín Chải, tuyến đi Suối vàng – Thác tình yêu. + Xã Lao Chải: tuyến đi Lao Chải San, tuyến đi Lồ Hàng Chải, Lý Lao Chải. - Các ông lang, bà mế đã phỏng vấn là: + Ông Lý Láo Lở, bản Cát Cát, xã San Sả Hồ. + Ông Hầu A Kỷ, bản Cát Cát, xã San Sả Hồ. + Ông Hạng A Chếch, bản Sín Chải, xã San Sả Hồ. + Ông Sùng A Tả, bản Lao Chải San, xã Lao Chải. + Bà Sùng Thị Mủa, bản Lồ Lao Chải, xã Lao Chải. + Bà Chảo Sử Mẩy, Bản Lồ Lao Chải, xã Lao Chải. 2.4.2. Thu thập số liệu, tài liệu - Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thông tin đáng tin cậy như các báo cáo khoa học của Vườn quốc gia, kỷ yếu, tạp chí khoa học, internet, …. - Phương pháp phỏng vấn nhanh có sự tham gia của người dân (PRA): Phỏng vấn đồng bào, các cán bộ làm công tác quản lý, nhất là các ông lang, bà mế, các lương y dân tộc H’Mông tại xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai, thông qua các bảng câu hỏi đã được xây dựng sẵn để sưu tầm và phát hiện các bài thuốc, cây thuốc sử dụng theo kinh nghiệm dân gian. Mỗi cây thuốc, bài thuốc đều có mẫu thu và ghi chép các thông tin cần thiết như công dụng, bộ phận sử dụng, cách sử dụng của cây (phụ lục 2).
- 18 - Thu thập các loài thực vật làm thuốc được đồng bào dân tộc H’Mông ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện SaPa, tỉnh Lào Cai sử dụng (theo Nguyễn Nghĩa Thìn, 1997; Nguyễn Thượng Dong và cộng sự, 2006). 2.4.3. Xử lý số liệu - Phương pháp chuyên gia: Dựa vào kinh nghiệm của các chuyên gia đặc biệt là các vấn đề như xác định tên khoa học của các mẫu đã thu hái, các thuật ngữ về các bệnh được chữa trị. - Phương pháp xử lý mẫu vật, chỉnh lý tên khoa học (theo Nguyễn Nghĩa thìn, 1997). Các tiêu bản tươi được thu thập ngoài thực địa tiếp tục xử lý trong phòng thí nghiệm tại Phòng Thực vật, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật. Các mẫu sau khi sấy khô được ngâm tẩm bằng dung dịch cồn chứa 0,3-0,5% HgCl2 để diệt khuẩn và chống côn trùng phá hại. Các mẫu tiêu bản được sấy khô, ép khẳng, trình bày và khâu trên giấy bìa cứng kích thước 28 cm x 42 cm. - Xác định tên khoa học, kiểm tra, chỉnh lý tên theo các tài liệu chính là các tập Cây cỏ Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ), Thực vật chí Việt Nam (nhiều tác giả), Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam (nhiều tác giả) cùng nhiều tài liệu liên quan khác,…. - Xây dựng danh lục: Điều chỉnh khối lượng họ, chi theo hệ thống của bộ Sách “Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam” 3 tập [4,37]. Danh lục được xây dựng theo nguyên tắc sự phát triển của các ngành thực vật từ Lá thông đến thực vật Hạt kín. Trong mỗi ngành các họ, chi loài được xếp theo vần ABC. Riêng ngành thực vật Hạt kín do khối lượng lớn nên chia thành 2 lớp là lớp Hai lá mầm và lớp Một lá mầm, sau đó cũng xếp tương tự như trên. Danh lục ngoài tên khoa học, tên Việt Nam của các loài còn có các thông tin khác như công dụng, dạng sống, môi trường sống của các loài thực vật, bộ phận sử dụng và cách thức sử dụng loài đó làm thuốc như mô hình bảng 2.1.
- 19 Bảng 2.1. Danh lục các loài thực vật làm thuốc (mẫu) BỘ MÔI TÊN KHOA TÊN VIỆT CÔNG CÁCH DẠNG TT PHẬN TRƯỜNG HỌC NAM DỤNG DÙNG CÂY DÙNG SỐNG 1 2 3 - Xác định các loài quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt: Trên cơ sở danh lục thực vật, lập danh sách các loài quí hiếm ở xã San Sả Hồ và xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai. Các loài được xác định quí hiếm có nguy cơ bị tiêu diệt dựa vào tiêu chí của các công trình sau: - Sách đỏ Việt Nam, 2007; - Danh lục các loài thực vật quý hiếm của IUCN, 2009; - Nghị định số 32 của chính phủ về quản lý các loài động thực vật quý hiếm. - Đánh giá tính đa dạng của các loài cây thuốc, về dạng sống của các loài cây thuốc, môi trường sống của các loài cây thuốc, về tần số sử dụng các bộ phận, về số lượng các bộ phận sử dụng làm thuốc (theo Viện Dược liệu). - Các nhóm bệnh được phân chia theo tài liệu của Lê Trần Đức (1997) “Cây thuốc Việt Nam trồng hái chế biến và trị bệnh ban đầu”. Chi tiết như sau: + Nhóm 1: Bệnh ngoại cảm (gồm cảm mạo phát sốt ớn lạnh, nghẹt mũi, cảm cúm hơi sốt sợ lạnh, đau mỏi, cảm gió lạnh, rét run, cảm nóng rét nắng mưa thời khí hỗn tạp, cảm về mùa hè nôn đầy, cảm cúm mùa hè sốt dai đau mình, cảm nắng hay sốt nóng đơn thuần, nóng rét qua lại, sốt rét cơn, sốt dị ứng, phát ngứa sưng phù, bệnh ôn nhiệt sốt hè thu, trúng gió méo mồm lệch mắt, trúng phong thấp hôn mê co cứng, trúng phong hàn hôn mê quyết lạnh). + Nhóm 2: Bệnh về hô hấp (ngạt mũi, sổ mũi, hắt hơi, viêm mũi dị ứng, ho, viêm họng, ho đờm, ho khan, viêm phế quản, viêm phổi, sưng phổi, hen phế quản, hen suyễn, suyễn thở, ho lao). + Nhóm 3: Bệnh về huyết mạch (gồm các loại chảy máu, huyết áp cao, huyếp áp thấp, hạ đường huyết, mạch máu xơ cứng (tắc mạch, giãn mạch), đau tim).
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 321 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm tín hiệu thẩm mĩ thiên nhiên trong ca từ Trịnh Công Sơn
26 p | 204 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn