intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội từ năm 2010 đến 2013

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:86

16
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của đề tài là xác định thực trạng một số chỉ số hình thái - thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K43 Trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội từ năm 2010-2013; đánh giá mức độ phát triển thể chất của sinh viên K43 trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội sau bốn năm học tập.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội từ năm 2010 đến 2013

  1. MỞ ĐẦU Việt Nam đang trên con đường đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước để theo kịp và hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới. Điều này đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực dồi dào đủ năng lực trí tuệ, xã hội phải có những con người có trình độ học vấn, hiểu biết mọi lĩnh vực. Đào tạo ra những con người có sức khỏe, có trình độ cao về khoa học kĩ thuật và công nghệ đáp ứng được yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ của ngành giáo dục. Vì thế nghị quyết TW2 khóa VIII năm 1996 và các nghị quyết, văn kiện của Đảng trong các kì đại hội đã khẳng định “Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển” do đó mục tiêu của giáo dục và đào tạo ở nước ta đã xác định là “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều 2- luật giáo dục 2012]. Vì vậy việc nâng cao sức khỏe thể chất cho thanh niên sẽ góp phần làm tăng chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. “Sức khỏe là một trạng thái hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh hoặc tật nguyền” (WHO). Như vậy, một cơ thể khỏe mạnh trước hết phải có thể chất tốt, sức khỏe về mặt thể chất phản ánh một phần thực trạng sức khỏe nói chung và đặc biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động và thẩm mỹ của con người. Do đó vấn đề phát triển thể chất ở lứa tuổi học sinh, sinh viên là một trong những vấn đề được quan tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực con người của mỗi quốc gia. 1
  2. “Giáo dục thể chất là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh, sinh viên” [Điều 20, Mục 2 - Luật Thể dục, thể thao 2006]. Để đạt được những mục tiêu này, vai trò cũng như chất lượng của giáo viên giáo dục thể chất trong nhà trường là một yếu tố hết sức quan trọng, nhiệm vụ của giáo viên giảng dạy môn Giáo dục thể chất là hướng dẫn học sinh tham gia các bài tập thể dục nhằm nâng cao sức khỏe đồng thời phát hiện, đào tạo các vận động viên năng khiếu. Từ sau năm 1975 đến nay đã có một số tác giả tiến hành nghiên cứu trên đối tượng sinh viên chuyên ngành Thể dục thể thao. Tuy nhiên những nghiên cứu dọc về hình thái - thể lực của sinh viên sư phạm Thể dục thể thao giai đoạn từ 18 đến 21 tuổi chưa nhiều. Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu sự phát triển cơ thể sinh viên khóa 43 trường Đại học sư phạm TDTT Hà Nội từ năm 2010-2013” nhằm đạt các mục tiêu sau: - Xác định thực trạng một số chỉ số hình thái - thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K43 Trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội từ năm 2010-2013. - Đánh giá mức độ phát triển thể chất của sinh viên K43 trường Đại học sư phạm Thể dục thể thao Hà Nội sau bốn năm học tập. 2
  3. CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU HÌNH THÁI - THỂ LỰC, CHỨC NĂNG SINH LÍ CƠ THỂ NGƢỜI 1.1.1. Những nghiên cứu trên thế giới Hình thái và thể lực là những đặc điểm sinh học quan trọng, phản ánh một phần thực trạng sức khỏe và đặc biệt liên quan chặt chẽ đến khả năng lao động của con người. Vì vậy, đã từ lâu hình thái - thể lực được các nhà y học, hình thái học quan tâm nghiên cứu. Quyển sách đầu tiên viết về sự tăng trưởng chiều cao ở người (Wachstum der Menschen in die Lange) của A.Stoeller được xuất bản ở Magdeburg (Đức) vào năm 1729. Tuy nhiên, trong cuốn sách này chưa có các số liệu đo đạc cụ thể. Nghiên cứu về sự tăng trưởng ở người thực sự được trình bày trong luận án tiến sĩ của Christian Friedrich Jumpert ở Halle (Đức) năm 1754, trong đó trình bày các số liệu đo đạc về cân nặng, chiều cao đứng và các chỉ tiêu sinh học khác của một loạt bé trai, bé gái và thanh niên từ 1-25 tuổi tại các trại mồ côi Hoàng gia ở Berlin và một số nơi khác trên nước Đức. Công trình này được xem là nghiên cứu cắt ngang đầu tiên về tăng trưởng ở trẻ em [dẫn theo 30]. Nghiên cứu dọc đầu tiên về chiều cao đứng được thực hiện bởi Philibert Guénneau de Monbeilard trên con trai của mình từ năm 1759 đến năm 1777. Trong 18 năm liên tục, cậu bé được đo 2 lần mỗi năm, cách nhau 6 tháng. Đây là một trong số những nghiên cứu tốt nhất đã được tiến hành cho đến nay và được trích dẫn trong các nghiên cứu về tăng trưởng trong suốt thế kỷ XIX [dẫn theo 17]. 3
  4. Người đặt nền móng cho nhân trắc học hiện đại là nhà nhân trắc học người Đức Rudolf Martin. Vào năm 1919, Rudolf Martin đã đề xuất các phương pháp và dụng cụ đo đạc kích thước cơ thể người một cách hệ thống qua hai tác phẩm “Giáo trình về nhân học” và “Kim chỉ nam đo đạc cơ thể và xử lí thống kê” [dẫn theo 22]. Từ đó đến nay Nhân trắc học đã trở thành một môn khoa học độc lập và ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác nhau như:tìm hiều các đặc trưng hình thái, chủng tộc của các cộng đồng người (trong nhân chủng học), xác định những biến đổi hình thái cơ thể, bệnh lý (trong y học), thiết kế công nghiệp (trong ecgonomi). Năm 1925, R. Martin đưa ra phương pháp đánh giá mới về thể lực. Ông lập bảng chuẩn nhiều đặc điểm hình thái cơ thể, đối với mỗi đặc điểm lại chia làm nhiều loại. Phương pháp này sau đó được Stephenco bổ sung, ông coi chiều cao đứng, cân nặng và vòng ngực là ba đặc điểm biến đổi độc lập trong khi thực tế chỉ có chiều cao đứng là biến đổi độc lập còn cân nặng và vòng ngực thì biến đổi phụ thuộc vào chiều cao đứng [dẫn theo 12]. Trong những năm 60 của thế kỉ XX,trong chương trình nghiên cứu sinh học thế giới do UNESSCO chủ trì, nhân trắc học được đặc biệt chú ý và các dụng cụ đo đạc nhân trắc học đã được chuẩn hóa và sản xuất ở nhiều nước. Năm 1961, Nold và Volsuski nghiên cứu ảnh hưởng của hoàn cảnh địa lý đến sự tăng trưởng chiều cao ở trẻ em. Cũng trong thời gian này, Graef và Cone đã thống kê nhiều số liệu chứng minh rằng tình trạng dinh dưỡng và bệnh tật ảnh hưởng rõ rệt đến sự gia tăng các kích thước và chỉ số cơ thể, đặc biệt là chiều cao và cân nặng. Năm 1962, Baskirov đã xuất bản cuốn “Học thuyết về sự phát triển thể lực con người” trong đó tác giả nêu một số quy luật phát triển cơ thể dưới ảnh hưởng của những điều kiện sống khác nhau [dẫn theo 44]. 4
  5. Năm 1964, F.Vandervael một thầy thuốc người Bỉ đã viết cuốn sách giáo khoa“Nhân trắc học”và đưa ra những nhận xét toàn diện về các quy luật phát triển thể lực theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp và xây dựng các thang phân loại thể lực theo các chỉ số đánh giá thể lực với các đặc trưng thống kê trung bình cộng ( X ) và độ lệch chuẩn (SD) [dẫn theo 29]. Cũng giống như chiều cao, cân nặng, vòng ngực là chỉ tiêu thường được sử dụng trong các nghiên cứu cơ bản về hình thái người. Vòng ngực được nghiên cứu từ những năm 20 của thế kỷ XIX, đến cuối thế kỉ XIXvòng ngực trở thành một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá thể lực sau chiều cao, cân nặng. Việc đánh giá thể lực chỉ dựa trên một trong các chỉ tiêu như cân nặng, chiều cao đứng hay vòng ngực đều không cho kết quả mong muốn. Vì vậy, người ta đã hợp nhất nhiều số đo vào một chỉ số chung để đánh giá thể lực. Ban đầu là những chỉ số dùng 2 kích thước (cân nặng và chiều cao) như chỉ số Broca, chỉ số Quetelet, chỉ số Kaup, Rohrer và Livi, v.v. sau đó là những chỉ số được hợp nhất từ 3 kích thước trở lên như chỉ số Pignet, chỉ số Vervaek, chỉ số Pimo, v.v. Nhìn chung, một chỉ số được xác định từ nhiều thông số khác nhau thì chỉ số đó càng chính xác nhưng việc đo đạc và tính toán càng cồng kềnh và phức tạp. Trong thế kỉ XIX, các công trình nghiên cứu về nhân trắc học còn hạn chế về số lượng, kích thước chưa thống nhất, phương pháp đo lường và các tính toán thống kê còn đơn giản. Trong vòng 50 năm trở lại đây, một số nước trên thế giới đã có nhiều côngtrình nghiên cứu về nhân trắc học như: Đức, Pháp, Mĩ, Liên Xô, Nhật, Rumani... Các công trình này đề cập nhiều tới sự tăng trưởng các kích thước cơ thể và sự phát triển cơ thể của học sinh ở các lứa tuổi. Các nhà khoa học nhận thấy trong thời gian gần đây, có sự gia tăng về các số đo cơ thể của 5
  6. thanh thiếu niên. Đặc biệt tại các nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật các nhà khoa học đã xác định được một cách đầy đủ, hoàn thiện các chỉ số thể lực để đánh giá thực trạng và mức tăng trưởng thể lực của dân tộc qua những giai đoạn khác nhau [53, 56]. Một chỉ tiêu khác được nhiều nhà khoa học quan tâm là huyết áp động mạch. Huyết áp động mạch được nghiên cứu từ thế kỉ XIX do nhiều tác giả tiến hành. Huyết áp được Korotkov xác định bằng phương pháp đo gián tiếp, phương pháp này hiện nay vẫn được dùng rất phổ biến. Kết quả nghiên cứu của nhiều tác giả cho thấy, huyết áp của nam và nữ từ 5 tuổi trở nên đã có sự khác biệt rõ, trong đó huyết áp của nam thường cao hơn của nữ và còn chịu ảnh hưởng nhiều của môi trường sống [54, 55]. 1.1.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam Hình thái - thể lực con người Việt Nam được nghiên cứu lần đầu năm 1875 do Mondiere thực hiện trên trẻ em. Vào những năm 30 của thế kỉ XX tại Viện Viễn Đông Bác Cổ, sau đó là trường Đại học Y khoa Đông Dương (1936- 1944) đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về vấn đề này [dẫn theo 41]. Ở Việt Nam, từ lâu một số tác giả như Đỗ Xuân Hợp (1943), Trần Nhật Úc (1959), Ngô Thế Phương (1960), Nguyễn Quang Quyền (1960-1975) đã có những nghiên cứu có giá trị về thể lực người Việt Nam trưởng thành. Đặc biệt, từ sau năm 1975 đã có nhiều công trình nghiên cứu về tầm vóc - thể lực người Việt Nam trên các nhóm đối tượng như sinh viên, nông dân, công nhân…với những phương pháp chuẩn xác đã đưa ra các kết quả đáng tin cậy và có sức thuyết phục phần nào cho thấy sự thay đổi về hình thái, thể lực của người Việt Nam theo thời gian [dẫn theo 22]. Sau hai Hội nghị về hằng số sinh học năm 1967 và 1972, một tập thể các tác giả do giáo sư Nguyễn Tấn Gi Trọng chủ biên đã biên soạn cuốn “Hằng số sinh học người Việt Nam” (1975). Trong công trình này, các tác giả 6
  7. đã tập hợp đầy đủ nhất về các chỉ tiêu nhân trắc ở trẻ em và người trưởng thành. Đây là công trình nghiên cứu thể hiện những chỉ số hình thái, thể lực điển hình của người Việt Nam ở mọi lứa tuổi [43]. Năm 1986, cuốn “Atlat Nhân trắc học người Việt Nam trong lứa tuổi lao động” là công trình nghiên cứu trên người trưởng thành do Giáo sư Võ Hưng làm chủ biên được xuất bản. Đây là công trình nghiên cứu được tiến hành từ năm 1981 đến 1984 trên 13.233 người (6.493 nữ và 6.730 nam) ở 15 tỉnh trên cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Năm nhóm tuổi được nghiên cứu là 17-19, 20-29, 30-39, 40-49 và 50-55 tuổi. Kết quả của công trình này được xem như là mẫu chuẩn thứ hai sau “Hằng số sinh học, 1975”, tuy nhiên đây là công trình ứng dụng vào ergonomie (thiết kế dụng cụ và nơi làm việc) nên đối tượng nghiên cứu đa số là công nhân, tập trung chủ yếu là ở nhóm tuổi 30-39 do đó đối tượng ít nhiều có sự chọn lọc, chưa mang tính đại diện [47]. Năm 1987, trong luận án phó tiến sĩ sinh học “Góp phần nghiên cứu các đặc điểm hình thái thể lực người Việt lứa tuổi trưởng thành”, Trịnh Hữu Vách đã nêu lên một số kết luận đáng chú ý trong quá trình nghiên cứu trên 4.510 người Việt và so sánh với 428 người Chill (Lâm Đồng) và người Mường (Thanh Hóa), trong đó tác giả đặc biệt nhấn mạnh đến tình trạng thiếu dinh dưỡng về cả chất lượng lẫn số lượng trong thời gian dài đã ảnh hưởng tới tầm vóc, thể lực của người Việt Nam và hạn chế quy luật gia tăng theo thời gian [45]. Năm 1979, Nguyễn Thị Đoàn Hương, Lê Tuyết Lan và Cs đã tiến hành nghiên cứu thể lực của 767 sinh viên (476 nam và 300 nữ) có độ tuổi từ 18-26 của hai trường Đại học ở thành phố Hồ Chí Minh là Trường Đại học Y Dược và Đại học Sư phạm kỹ thuật Thủ Đức. Kết quả cho thấy, có sự khác biệt về một số chỉ số thể lực giữa sinh viên miền Nam so với “Hằng số sinh học, 1975”. Các số liệu cũng cho thấy có sự tăng trưởng vượt trội vào giai đoạn 18 7
  8. lên 19 tuổi (từ năm thứ nhất lên năm thứ hai đại học) của một số chỉ số thể lực [23]. Năm 1980-1990, Thẩm Thị Hoàng Điệp tiến hành nghiên cứu dọc trên 101 học sinh phổ thông ở Hà Nội từ 6-17 tuổi với 31 chỉ tiêu sinh học và đưa ra nhận xét: chiều cao phát triển mạnh nhất lúc 11-12 tuổi ở nữ và 13-15 tuổi ở nam, cân nặng phát triển mạnh nhất ở nữ lúc 13 tuổi và ở nam lúc 14 tuổi, có sự gia tăng về chiều cao và cân nặng ở lứa tuổi học sinh. Quy luật phát triển các đoạn chi phù hợp quy luật phát triển chiều cao, học sinh thành phố có chiều cao lớn hơn so với học sinh vùng nông thôn [12]. Năm 1991, Đào Huy Khuê nghiên cứu cắt ngang gần 50 chỉ tiêu nhân trắc và mô tả của 1.478 học sinh phổ thông 6 – 17 tuổi ở thị xã Hà Đông, bao gồm các đặc điểm hình thái, bề dày lớp mỡ dưới da và đặc điểm phát dục. Tác giả nhận thấy: hầu hết các chỉ tiêu hình thái tăng dần theo tuổi nhưng nhịp độ tăng trưởng không đồng đều. Từ 6-9 tuổi các kích thước cơ thể của nam và của nữ không có sự khác biệt rõ rệt. Từ 10-15 tuổi kích thước của nữ thường vượt nam và đến 16-17 tuổi các kích thước của nam lại vượt lên trước nữ. Ông cũng rút ra nhận xét, có sự gia tăng về chiều cao của người Việt Nam so với các thập kỉ trước [24]. Năm 1995, Nguyễn Yên và cộng sự đã nghiên cứu trên 2.033 người thuộc các lứa tuổi 1-5 và 18-55 tuổi của 3 nhóm dân tộc Việt, Mường, Dao ở tỉnh Hà Tây. Tác giả kết luận tầm vóc, thể lực của người Việt tốt nhất, sau đến người Mường và cuối cùng là người Dao [dẫn theo 30]. Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Thế Hùng (1996) khi nghiên cứu, so sánh thể lực của 495 sinh viên Đại học Y Hải Phòng (264 nam và 231 nữ) trong ba năm, từ 1992-1994 đã kết luận: Thể lực của sinh viên Đại học Y Hải Phòng trong các năm 1992-1994 có cải thiện so với thể lực người Việt Nam trưởng 8
  9. thành trong “Hằng số sinh học, 1975”, thể lực của nam sinh viên phát triển mạnh hơn nữ sinh viên cùng lứa tuổi [19]. Cũng theo Nguyễn Hữu Chỉnh,sinh viên lớp tuổi 18-25 ở khu vực Kiến An, thành phố Hải Phòng vẫn có sự tăng trưởng. Song khác biệt về các chỉ số sinh học giữa các lớp tuổi không có ý nghĩa thống kê [8]. Trong hai năm 1998 và 1999, Vũ Thị Thanh Bình và Cs đã nghiên cứu các chỉ tiêu hình thái, thể lực và chức năng sinh lý của sinh viên K30 trường Cao đẳng sư phạm thể dục TW1 và kết luận: sinh viên trường Cao đẳng sư phạm thể dục TW1 có thể lực tốt hơn sinh viên các trường đại học khác và thuộc loại tốt so với thanh niên Việt Nam nói chung. Những khác biệt này là do đặc trưng về thể lực của sinh viên năng khiếu Thể dục thể thao và tác động của việc rèn luyện thể chất ở cường độ cao [2, 3]. Năm 2003, Mai Văn Hưng nghiên cứu trên sinh viên một số trường đại học phía Bắc Việt Nam cho thấy, vẫn có sự tăng trưởng về hình thái và một số chỉtiêu sinh lý ở độ tuổi 18-25. Chiều cao đứng của nam đạt giá trị cao nhất là năm 23 tuổi và nữ là năm 21 tuổi, sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội II có chiều cao và trọng lượng trung bình lớn nhất, tiếp đó là sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội I và thấp nhất là sinh viên Đại học Hồng Đức.Tác giả giải thích sự khác biệt này là do điều kiện kinh tế - xã hội. Điểm đáng chú ý là các chỉ tiêu về chức năng của hệ tuần hoàn và hệ hô hấp của sinh viên ở 3 trường không có sự khác biệt [22]. Năm 2001, dự án điều tra, đánh giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam do Ủy ban khoa học Thể dục thể thao chủ trì đã tiến hành điều tra giai đoạn I với 13 kích thước hình thái và chỉ số thể lực được nghiên cứu trên 47.846 người Việt Nam từ 6-20 tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam trong đó có 8.400 sinh viên có độ tuổi từ 18-20 thuộc 17 trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp. Kết quả 9
  10. điều tra cho thấy, chiều cao trung bình của nam, nữ 20 tuổi tại thời điểm năm 2001 đã tăng lần lượt là 6,14 cm và 4,88 cm so với số liệu về chiều cao trong “Hằng số sinh học, 1975”. Cân nặng trung bình cũng tăng lần lượt là 8,19 kg và 3,02 kg. Trên cơ sở kết quả điều tra, Ủy ban Thể dục thể thao đã đề ra hệ thống tiêu chuẩn đánh giá mức độ phát triển thể chất cho mọi đối tượng nhân dân theo tuổi và giới tính. Hệ thống tiêu chuẩn này có giá trị sử dụng trong vòng 10 năm [48]. Sau khi hoàn thành giai đoạn I, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban TDTT đã có quyết định số 1532/2002/QĐ-UBTDTT, ngày 27 tháng 9 năm 2002 giao cho Viện Khoa học TDTT tiếp tục triển khai giai đoạn II “Điều tra, đánh giá thực trạng thể chất và xây dựng hệ thống tiêu chuẩn thể lực chung của người Việt Nam từ 21-60 tuổi”. Điều tra giai đoạn II thực hiện trên 31.125 người từ 21-60 tuổi trong đó tập trung vào giai đoạn 21-40 tuổi. Dựa trên kết quả điều tra, dự án đã xây dựng hệ thống tiêu chuẩn đánh giá thể chất cho người Việt Nam từ 21 đến 60 tuổi đồng thời lựa chọn được những chỉ tiêu cơ bản để xây dựng tiêu chuẩn rèn luyện thân thể cho tất cả các nhóm đối tượng [49]. Năm 2003, trong khuôn khổ đề tài “Phân tích thực trạng hình thái, thể lực của nam thanh niên Việt Nam qua số liệu khám tuyển quân, tuyển sinh từ 1987-2003”, Trần Thị Trung Chiến, Lê Quang Bách và Cs đã tiến hành nghiên cứu tầm vóc, thể lực của 334.728 thanh niên từ 17-27 tuổi trong đó nghiên cứu hồi cứu là 314.289 người và nghiên cứu cắt ngang là 20.439 người. Kết quả nghiên cứu cho thấy tầm vóc, thể lực của thanh niên trong nghiên cứu đã tăng lên một cách rõ rệt qua từng thời kì, tuy nhiên chỉ số BMI không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi và giữa các giai đoạn [44]. Năm 2003, Bộ Y tế đã công bố cuốn sách “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 - thế kỷ XX” [1]. Các vấn đề về tầm vóc, 10
  11. thể lực được quan tâm đặc biệt với các đề mục: “Các chỉ tiêu nhân trắc người trưởng thành miền Bắc Việt Nam”, “Nghiên cứu sự phát triển cơ thể lứa tuổi đến trường phổ thông 6-18 tuổi”, “Đặc điểm phát triển thể lực của trẻ dưới 6 tuổi”, “Một số chỉ tiêu nhân trắc được điều tra ở Hải Phòng”, “Đánh giá một số chỉ tiêu nhân trắc của trẻ em và người cao tuổi ở nông thôn Thái Bình” [5]. Năm 2005, trong luận án tiến sĩ Y học “Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, thể lực, dinh dưỡng người Việt trưởng thành ở một số tỉnh đồng bẳng Bắc Bộ”, Trần Sinh Vương đã đưa ra một số kết luận khi nghiên cứu 7.968 người (3.769 nam và 4.199 nữ) có độ tuổi từ 16 trở lên thuộc 5 tỉnh, thành phố và 3 Trường đại học ở đồng bằng Bắc Bộ: Các kích thước nhân trắc, các chỉ số thể lực, dinh dưỡng ở cả hai giới đều tăng dần theo tuổi và đạt mức cao nhất ở nhóm tuổi 40-49. Chiều cao cơ thể đạt đỉnh cao nhất vào tuổi 20-21 với nữ và 21-22 tuổi với nam, so với số liệu trong “Hằng số sinh học, 1975”chiều cao trung bình nam thanh niên tăng 5 cm và nữ tăng 4 cm [50]. Năm 2009, Nguyễn Trường An khi nghiên cứu giá trị của vòng cánh tay và vòng đùi trong đánh giá suy dinh dưỡng đã tiến hành điều tra trên 662 sinh niên Đại học Y Dược Huế có độ tuổi từ 18-25 trong đó có 348 nam và 318 nữ. Tác giả kết luận có sự khác biệt về chiều cao, cân nặng, vòng cánh taygiữa nam và nữ, tuy nhiên vòng đùi của nam và nữ khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra được hệ số tương quan giữa vòng cánh tay và vòng đùi với chỉ số BMI. Ngưỡng kết luận suy dinh dưỡng là vòng cánh tay< 24 cm với nam và < 22 cm với nữ, vòng đùi là < 49 cm với cả hai giới [1]. Năm 2010, Nguyễn Đức Hinh cùng nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu trên 15.051 người từ 6 tuổi trở lên sống tại hai 4 quận, huyện của Hà Nội trong đó lứa tuổi từ 20-24 có 2990 người (1377 nam và 1613 nữ). Theo nghiên cứu này, ở giai đoạn từ 20-24 11
  12. tuổi, chiều cao trung bình của nam giới là 166,97 ± 5,69 cm và của nữ là 155,53 ± 4,75 cm. Tuy nhiên,chiều cao của nam giới sống tại 4 quận, huyện có sự khác biệt. Trong đó, nam sống tại quận Hoàn Kiếm có chiều cao lớn nhất, cụ thể là 169,93 cm. Cũng theo nghiên cứu này, chiều cao đạt mức tối đa ở tuổi 23 với nam và tuổi 21với nữ [17]. Chiều cao là một đặc điểm sinh học vô cùng quan trọng, mỗi dân tộc đều có một khung chiều cao nhất định, nó được xác định trong quá trình hình thành các đặc điểm cơ thể. Theo Nguyễn Quang Quyền và Cs (1975) thanh niên Việt Nam lớp tuổi 18-25 có chiều cao đứng của nam đạt 159,0 ± 5,0 cm và nữ đạt 150,0 ± 4,0 cm. Chiều cao của nam lớn hơn của nữ trung bình là 9 cm. Đây là mức chênh lệch phổ biến của nhiều quần thể người trên thế giới. Tuy nhiên, không chỉ có khác biệt về chiều cao giữa nam và nữ mà giữa các dân tộc thuộc các vùng miền khác nhau cũng có sự khác biệt. Sự khác biệt này là do ảnh hưởng của môi trường sống đến sự tăng trưởng và phát triển cơ thể người trong các giai đoạn khác nhau [dẫn theo 22]. Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2010 của Bộ Y Tế, mặc dù chiều cao của thanh niên Việt Nam 22-26 tuổi đã được cải thiện đáng kể nhưng so với các nước trong cùng khu vực thanh niên Việt Nam vẫn thuộc loại “thấp, còi”. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam thấp hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới. Cụ thể chiều cao nam, nữ thanh niên lần lượt là 163,7cm và 153 cm, thấp hơn so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới đề nghị là 13,1 cm và 10,7 cm [6]. 12
  13. Bảng 1.1. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam và một số nước trên thế giới [6]. Chiều cao trung bình (cm) Năm điều Quốc gia Độ tuổi Nam Nữ tra Úc 181,4 169,5 18-24 2002 Trung Quốc 170,2 158,6 17-20 2004 Ấn Độ 173,0 165,0 20 2005 Nhật Bản 171,5 158,0 19 2006 Malaysia 168,4 157,7 25-34 2008 Philippin 164,9 155,6 20 2005 Singapore 170,6 160,0 17-25 2003 Hàn Quốc 173,9 161,1 19 2006 Thái Lan 167,5 157,3 20 1991-1995 Việt Nam 163,7 153,0 22-26 2010 Chiều cao thanh niên Việt Nam thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á, thấp hơn rất nhiều khi so sánh với một số nước phát triển ở khu vực châu Á. Cùng với chiều cao đứng, cân nặng cũng là một trong những chỉ tiêu thông dụng để đánh giá hình thái, thể lực. Cân nặng có liên quan mật thiết với chiều cao và phụ thuộc nhiều vào tình trạng dinh dưỡng của cơ thể. Các công trình nghiên cứu trước đây cũng cho thấy, cân nặng thay đổi theo quy luật giống như tăng trưởng chiều cao, cân nặng tăng dần theo tuổi sau đó giảm xuống ở các lớp tuổi cao. Dân cư các vùng khác nhau cũng có sự khác biệt về khối lượng trung bình [11, 13, 49, 50]. Vòng ngực là một chỉ tiêu đánh giá thể lực thường được dùng trong nghiên cứu, vòng ngực còn giúp phần nào đánh giá được chức năng hô hấp của cơ thể. Đặc điểm chung của tất cả các đối tượng là kích thước vòng ngực 13
  14. trung bình phát triển cao nhất ở giai đoạn từ 16-25 tuổi đối với nữ và 26-40 tuổi đối với nam. Ở các giai đoạn sau đó kích thước vòng ngực giảm dần. Các số liệu về vòng ngực trung bình trong nghiên cứu của các tác giả cũng không hoàn toàn giống nhau [dẫn theo 22]. Kích thước vòng ngực hít vào hết sức tỉ lệ thuận với vòng ngực trung bình, chỉ số này ở giai đoạn từ 18-25 tuổi với nam là 80,0  4,0 cm và của nữ là 76,0  4,0 cm [dẫn theo 22]. Theo nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và Cs, ở lứa tuổi 24 vòng ngực trung bình ở nam là 82,44  3,58 cm và ở nữ là 74,89  4,06 cm. Chỉ số Pignet của nam ở lứa tuổi này là 36,38  6,38 và của nữ là 36,50  6,54 31. Như vậy, so với “Hằng số sinh học, 1975” thì chỉ số Pignet của nam và nữ sai khác không lớn. Chỉ số BMI cũng được đề cập tới trong nhiều công trình, theo nghiên cứu của Trịnh Văn Minh và Cs thì chỉ số BMI của nam 24 tuổi là 18,78  1,50 và của nữ là 19,13  1,67 31. “Các chỉ tiêu nhân trắc, hình thái, thể lực người miền Bắc Việt Nam trưởng thành trong thập niên 90” do Trịnh Văn Minh và Cs thực hiện cho thấy, ở lớp tuổi thanh niên sau tuổi dậy thì, các kích thước vẫn tiếp tục phát triển. Nam giới có chiều cao, cân nặng và các kích thước liên quan đến thể lực, cụ thể là với hoạt động cơ bắp luôn cao hơn nữ. Trong khi đó, các chỉ số khác có liên quan đến dinh dưỡng, khối mỡ, chỉ số Pignet thì ở nữ lại cao hơn so với nam giới 31. Với dự án “Điều tra cơ bản một số chỉ tiêu sinh học người Việt Nam bình thường thập kỉ 90- Thế kỷ thứ XX” do trường Đại học Y Hà Nội chủ trì với sự tham gia của hàng loạt các nhà khoa học ở 7 trường Đại học Y và 8 Viện, Bệnh viện trung ương. Dự án đã tiến hành nghiên cứu 11 nhóm chỉ tiêu sinh học của người Việt Nam sống ở 19 tỉnh, thành phố thuộc cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Riêng nhóm chỉ tiêu hình thái, thể lực, dinh dưỡng do Giáo sư Trịnh Văn Minh làm chủ nhiệm đề tài đã tiến hành nghiên cứu trên 43.991 14
  15. người (21.443 nam và 22.548 nữ). Mỗi đối tượng được đo 10 kích thước nhân trắc cơ bản và 4 chỉ số hình thái - thể lực, dinh dưỡng được tính toán. Theo kết quả dự án này, chiều cao trung bình của nam, nữ thanh niên giai đoạn 20- 24 tuổi lần lượt là 163,72 ± 4,67 cm và 153,00 ± 4,32 cm. Sau tuổi dậy thì, chiều cao vẫn tiếp tục phát triển, tới 19-20 tuổi với nữ, 21-22 tuổi với nam chiều cao chững lại và đạt tối đa ở tuổi 25 với cả hai giới. Cân nặng trung bình của nam, nữ thanh niên 20-24 tuổi lần lượt là 52,11 ± 4,70 kg và 44,60 ± 4,22 kg. Cân nặng đạt mức tối đa ở nhóm tuổi 40-49, sau đó giảm dần trong đó miền Nam giảm chậm nhất, miền Trung giảm nhanh nhất. Cũng theo nghiên cứu này chỉ số Pignet của người Việt Nam trưởng thành đã tăng lên so với số liệu trong “Hằng số sinh học, 1975” song chỉ số Pignet ở cả nam và nữ vẫn thuộc loại yếu [11]. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về hình thái - thể lực của học sinh, sinh viên Việt Nam khá phong phú. Tuy các kết quả nghiên cứu về các chỉ số này có sự khác biệt ít nhiều nhưng tất cả các nghiên cứu đều chỉ ra rằng: các chỉ số về hình thái, thể lực đều biến đổi theo lứa tuổi và mang các đặc điểm giới tính. Năm 1989, Thẩm Thị Hoàng Điệp đã nghiên cứu về sự phát triển chiều cao, vòng đầu và vòng ngực của hơn 8000 người Việt Nam từ 1 đến 55 tuổi ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Tác giả đã rút ra kết luận: chiều cao trung bình của nam trưởng thành là 163 cm và của nữ là 158 cm, chiều cao của nam tăng nhanh đến 18 tuổi còn nữ tăng nhanh đến 14 tuổi. Vòng ngực trung bình của nam trưởng thành là 78-80 cm, vòng đầu là 55-56 cm và của nữ tương ứng là 79 cm và 54-55 cm [13]. Bên cạnh việc nghiên cứu các chỉ số về hình thái và thể lực các nhà hình thái học cũng nghiên cứu về các chỉ số sinh lý như các chỉ số hô hấp, tuần hoàn, thần kinh… 15
  16. Tần số tim và huyết áp động mạch được nghiên cứu khá sớm trên nhiều đối tượng khác nhau. Trong công trình “Hằng số sinh học, 1975” kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tần số tim của nam, nữ trưởng thành trung bình là 70- 80 lần/ phút [43]. Các kết quả nghiên cứu về huyết áp động mạch người Việt Nam của Trịnh Bỉnh Dy trình bày trong cuốn “Về những thông số sinh học trên người Việt Nam ” cho thấy: huyết áp của người Việt Nam không những thấp mà còn tăng chậm theo tuổi [dẫn theo 22]. Trong “Hằng số sinh học, 1975” huyết áp tâm thu của người trưởng thành dao động từ 90-140 mmHg và huyết áp tâm trương là 50-90 mmHg [43]. Theo tác giả Phạm Thị Minh Đức, huyết áp tâm thu bình thường có trị số là 90-110 mmHg, nếu trên 140 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới 90 là hạ huyết áp. Huyết áp tâm trương bình thường có trị số là từ 50-70 mmHg, nếu vượt quá 90 mmHg được coi là tăng huyết áp và dưới 50 mmHg là hạ huyết áp [14]. Các công trình nghiên cứu trên học sinh phổ thông cho thấy, huyết áp động mạch tăng dần theo tuổi [27]. Nghiên cứu trên những người trưởng thành cho thấy, huyết áp động mạch khác nhau ở các chủng tộc, môi trường sống và khí hậu trong khu vực [11, 22, 28]. Năm 1993, Đoàn Yên và Cs dựa vào kết quả nghiên cứu tần số tim và huyết áp của người Việt Nam cho rằng: sau khi sinh tần số tim và huyết áp động mạch biến đổi có tính chất chu kì. Huyết áp động mạch tăng đến 18 tuổi, sau đó ổn định đến 49 tuổi rồi lại tăng lên. Tần số tim giảm dần đến 25 tuổi và ổn định đến 69 tuổi [dẫn theo 33]. Năm 1996, Trần Đỗ Trinh và Cs khi nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học người Việt Nam từ 15 tuổi trở lên sống tại 20 tỉnh thành phố thuộc 7 vùng địa lý khác nhau đã kết luận: huyết áp tăng dần theo tuổi, giai đoạn 18-25 tuổi 16
  17. huyết áp tăng chậm lại rồi tương đối ổn định ở tuổi trung niên. Huyết áp của nam thường cao hơn của nữ [dẫn theo 22]. Năm 2002, Nguyễn Văn Mùi và Cs đã nghiên cứu tần số tim và huyết áp động mạch trên 182 vận động viên một số môn thể thao ở Hải Phòng. Các kết quả cho thấy, huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương ở cả nam và nữ đều thấp hơn so với người bình thường cùng lứa tuổi và nằm trong giới hạn bình thường. Trong số này, nhóm vận động viên bơi lội có huyết áp thấp hơn cả. Tần số tim ở các vận động viên đều thấp hơn so với thanh niên cùng lứa tuổi. Nhóm vận động viên bắn súng có tần số thấp nhất, điều này chứng tỏ việc rèn luyện các môn thể thao có ý nghĩa rất quan trọng với chức năng của hệ tim mạch [32]. Kết quả nghiên cứu của các tác giả đều khẳng định, tần số tim và huyết áp động mạch biến đổi có tính chất chu kì. Tần số tim giảm dần, huyết áp động mạch tăng dần theo tuổi nhưng mức độ thay đổi không đều qua các thời kì. Tần số tim và huyết áp động mạch chịu ảnh hưởng của điều kiện sống, trạng thái tâm lí và hoạt động Thể dục thể thao. Như vậy, các chỉ số hình thái - thể lực và chức năng sinh lý một số cơ quan đã được nhiều tác giả nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu đã xây dựng được các “hằng số” và cho thấy sự biến đổi của chúng theo quá trình phát triển cá thể. Tuy nhiên sự biến đổi các chỉ số này trên đối tượng sinh viên chuyên ngành giáo dục thể chất vẫn còn ít được nghiên cứu. 1.2. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƢỞNG, PHÁT TRIỂN VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CƠ THỂ LỨA TUỔI THANH NIÊN 1.2.1. Một số nét về sinh trƣởng và phát triển cơ thể lứa tuổi thanh niên Một trong những đặc điểm cơ bản của cơ thể sống là quá trình sinh trưởng và phát triển diễn ra liên tục từ lúc trứng mới thụ tinh cho đến khi 17
  18. trưởng thành, bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau về tính chất và đặc điểm. Sinh trưởng là sự biến đổi về số lượng và kích thước tế bào, phát triển là sự tổng hợp các biến đổi liên tục về chất, những biến đổi về hình thái và chức năng của tất cả các cơ quan trong cơ thể từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành. Hai quá trình đó có mối liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau để cơ thể tăng trưởng về tầm vóc và thể lực. Quá trình sinh trưởng và phát triển diễn ra không đều theo lứa tuổi, mỗi giai đoạn có những đặc điểm khác nhau về hình thái, sinh lí khác nhau [25, 26]. Chính vì vậy, người ta đã phân chia quá trình phát triển cơ thể thành các giai đoạn khác nhau Bunak V.V phân chia các thời kì phát triển cơ thể người dựa vào các dấu hiệu hình thái và nhân chủng. Gundobin N.P. và Arshavski I.A. chia ra các thời kì phát triển dựa vào bậc học của học sinh, v.v. Theo đó, các tác giả cũng chưa hoàn toàn thống nhất về cách phân chia các giai đoạn phát triển cơ thể người [dẫn theo 30]. Năm 1965, Viện Hàn lâm Sư phạm Liên Xô đưa ra cách phân chia các thời kì phát triển của con người. Họ cho rằng, về mặt sinh lý không có cơ sở đầy đủ để định ra các mốc rõ ràng giữa các thời kỳ phát triển. Theo cách phân chia này thời kỳ thanh niên được tính từ 17-21 tuổi với nam và 16-20 tuổi với nữ [dẫn theo 27]. Tuy nhiên, các cách phân chia này đều chỉ mang tính chất tương đối, mức độ khác biệt giữa các thời kì có thể không thực sự rõ ràng. Lứa tuổi thanh niên là thời kì tiếp theo của tuổi dậy thì, là giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Theo một số tác giả, lứa tuổi thanh niên là giai đoạn từ 19-25 tuổi [34]. Ở giai đoạn này sự phát triển thể chất của con người đã đạt mức hoàn thiện. Sự tăng chiều cao trong giai đoạn này chủ yếu do kích thước xương ống dài ra. Đặc điểm chung của cơ thể trưởng thành là các cơ quan đã phát triển hoàn thiện, hoạt động chức năng ổn định và dần đạt hiệu quả tối ưu [52]. Giai 18
  19. đoạn thanh niên có đặc điểm là tốc độ phát triển chiều cao chậm lại, mỗi năm tăng trung bình không quá 1-2 cm. Khối lượng cơ tăng nhiều so với giai đoạn trước. Các đặc điểm giới tính thứ cấp phát triển tới mức tối đa, cấu tạo và chức năng của não đạt đến độ hoàn chỉnh. Tầm vóc cơ thể phát triển cân đối [34]. Khối lượng não đạt mức tối đa, chất lượng nơron thần kinh tốt do quá trình myelin hóa cao độ. Số lượng xinap của các tế bào thần kinh đảm bảo cho liên lạc rộng khắp, chi tiết, linh hoạt giữa vô số các kênh làm cho hoạt động của não bộ trở nên nhanh, nhạy, chính xác [35]. Lứa tuổi thanh niên cũng là lứa tuổi phát triển ổn định, đồng đều về hệ thống cơ, xương, khớp. Các tố chất về thể lực như sức mạnh, sức bền, sức nhanh, độ linh hoạt, dẻo dai đều phát triển mạnh nhờ sự phát triển ổn định của các yếu tố nội tiết cũng như sự tăng trưởng của các hormon giới tính. Hoạt động nhận thức của sinh viên là hoạt động trí tuệ thực sự, căng thẳng, cường độ cao và có tính lựa chọn rõ rệt. Các thao tác trí tuệ phát triển ở trình độ cao, có sự phối hợp nhịp nhàng, tinh tế, uyển chuyển [35]. 1.2.2. Ảnh hưởng của hoạt động Thể dục thể thao đến sự phát triển cơ thể lứa tuổi thanh niên Tốc độ tăng trưởng và phát triển của thanh niên phụ thuộc vào nhiều yếu tố cũng như phụ thuộc vào hoàn cảnh sống. Một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng và phát triển ở thanh niên chính là hoạt động tập luyện thể dục thể thao (TDTT). Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ đem lại những biến đổi theo hướng thích nghi có lợi cho cơ thể, sự biến đổi đó được biểu hiện cụ thể qua các kích thước hình thái, chỉ số thể lực và chức năng sinh lý. Ở những người luyện tập TDTT thường xuyên một cách có hệ thống, bộ xương sẽ có những biến đổi rõ nét. Các mấu xương to ra làm chỗ bám 19
  20. vững chắc cho các cơ, xương chắc sẽ dày lên, cấu trúc các bè xương thay đổi để phù hợp với lực tác dụng vào xương. Các hốc ở xương xốp cũng mở rộng hơn so với những người không tập luyện TDTT. Các bài tập TDTT làm cho thuộc tính cơ học của xương được nâng cao, tăng cường sức chống đỡ khi bị bẻ gập, uốn cong, kéo giãn, vặn xoắn. Ảnh hưởng của hoạt động TDTT lên cấu trúc, hình thái của xương được biểu hiện rõ nét ở những vận động viên chuyên nghiệp, đặc biệt là vận động viên thành tích cao [10]. Hoạt động TDTT thường xuyên còn ảnh hưởng đến hoạt động của khớp, làm tăng tính linh hoạt và độ bền vững của các khớp. Sụn khớp dày lên, đặc biệt là sụn ở các diện khớp tiếp xúc rộng do đó giảm áp lực cho khớp, nhờ đó khớp ít bị chấn thương [10]. Với người bình thường, khối lượng cơ chiếm khoảng 40% khối lượng cơ thể nhưng với những người tập luyện TDTT thường xuyên trọng lượng cơ có thể chiếm tới 50% cân nặng cơ thể. Điều này là do khi tập TDTT thường xuyên, quá trình trao đổi chấtvà khả năng sử dụng oxi của cơ tăng lên. Sợi cơ trở nên dày hơn, thiết diện ngang và thể tích cơ tăng. Khối lượng các tơ cơ và hàm lượng các chất dự trữ năng lượng cao hơn so với cơ của người bình thường [10]. Sự khác biệt giữa người luyện tập TDTT thường xuyên và người không luyện tập TDTT còn được thể hiện qua những biến đổi của hệ tuần hoàn. Với người bình thường, khối lượng quả tim khoảng 260-300 g còn với những vận động viên đẳng cấp, nhất là với vận động viên sức bền thì khối lượng quả tim có thể lên đến 450-490 g [18]. Những người tập luyện TDTT liên tục trong thời gian dài, tần số tim có xu hướng giảm, nhu cầu sử dụng oxi của cơ tim giảm xuống, huyết áp động mạch cũng giảm so với những người không tập luyện TDTT. Tần số tim trong yên tĩnh của vận động viên các môn thể thao 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2