intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Hệ thống quan niệm thơ thời thơ mới (1932 – 1945)

Chia sẻ: Lộ Lung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:112

23
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn khảo sát mảng hệ thống quan niệm thơ trong thời Thơ Mới nhằm hướng tới mục đích: Hình dung quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống quan niệm về thơ trong thời kì 1932 - 1945; nhận diện và hệ thống những luận điểm cơ bản của hệ thống quan niệm thơ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Hệ thống quan niệm thơ thời thơ mới (1932 – 1945)

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM Hoàng Thị Huyền Trang HỆ THỐNG QUAN NIỆM THƠ THỜI THƠ MỚI ( 1932 – 1945 ) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 201 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM Hoàng Thị Huyền Trang HỆ THỐNG QUAN NIỆM THƠ THỜI THƠ MỚI ( 1932 – 1945 ) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số : 602 234 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ TUẤN ANH THÁI NGUYÊN - 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành, tác giả xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học -Trường Đại học Sư phạm- Đại học Thái Nguyên cùng các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy và góp ý cho tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với PGS.TS Vũ Tuấn Anh, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tác giả nghiên cứu hoàn thành luận văn. Xin được chân thành cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp, những người thân trong gia đình đã động viên, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học. Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng, nhưng luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp quan tâm đến luận văn này. Thái Nguyên, tháng 8 năm 1010 Tác giả Hoàng Thị Huyền Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. 1.1. Sự bùng nổ của trào lưu Thơ Mới thời kì 1932 -1945 là một hiện tượng lớn, một dấu ấn, một thành tựu rực rỡ của thơ ca trong tiến trình lịch sử thơ ca dân tộc. Có người đã ví phong trào Thơ Mới như một bà đỡ và khai sinh cho thơ Việt Nam hiện đại. Có thể khẳng định rằng Thơ Mới là “buổi bình minh” hứa hẹn một ngày bừng sáng cho thơ ca nước nhà, là “một cuộc cách mạng trong thi ca” dân tộc… Những thành tựu rực rỡ của Thơ Mới , sức mê hoặc kì diệu và ý nghĩa văn học sử của nó đã khiến cho hơn nửa thế kỉ nay, giới nghiên cứu phê bình vẫn không ngừng say mê tìm hiểu, nghiên cứu về nó, để khám phá được trong nó những giá trị nhân văn sâu thẳm, trường tồn, những cảm xúc tươi mới, lung linh… 1.2. Để Thơ Mới đạt đến một tầm vóc như thế, không thể không nói đến những vấn đề của lí luận thơ, những quan niệm về thơ thời Thơ Mới - một vấn đề cho đến nay dù đã được đề cập đến nhưng vẫn chưa thể nói là đã được chú ý thích đáng. Những bài Thơ Mới làm say đắm lòng người dường như đã lấn át những điều mà Thơ Mới bàn luận về chính nó, trong đó hàm chứa rất nhiều quan niệm lí luận thể loại quan trọng có ý nghĩa mở đầu giai đoạn thi ca hiện đại. Có thể nói, ngay từ bước đi ban đầu với những bài thơ mới non trẻ đầu tiên cho đến thời kì trưởng thành và phát triển rực rỡ nhất của nó, Thơ Mới đã từng bước gây dựng cho mình một hệ thống quan niệm về thơ như một sự tự ý thức chiều sâu về bản thân nó. Ở đây, có thể thấy sự song hành nhịp nhàng giữa thực tiễn sáng tác và lí luận thơ ca. Nói cách khác, quá trình phát triển Thơ Mới không thể thiếu sự đóng góp của lí luận: ý thức đột phá mở đường, những quan điểm lí luận phê bình có vai trò nhận diện, định hướng, hỗ trợ và tác động vào thực tiễn sáng tác, góp phần thúc đẩy sự sáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. tạo những giá trị đích thực của thơ ca. Cứ như vậy, thơ và lí luận thơ của Thơ Mới là hai mảng liên kết, tương hỗ, không thể tách rời. Và cùng với sự sôi động của hoạt động sáng tác, mảng lí luận - phê bình về thơ trong giai đoạn này cũng vô cùng sôi động, phong phú. 1.3. Tìm hiểu những quan niệm về thơ trong thời kì Thơ Mới là nghiên cứu những gì Thơ Mới bàn về chính nó; để rồi cuối cùng tạo nên hệ thống lí luận về thơ trong suốt quá trình hình thành, phát triển và tự hoàn thiện nên diện mạo của chính mình. Đây là một việc làm cần thiết để hiểu rõ, hiểu sâu sắc và toàn diện hơn về thơ ca trong “buổi bình minh” của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, mảng nghiên cứu này cho đến giờ dường như vẫn còn khá nhiều chỗ trống. Có rất nhiều công trình công phu, đồ sộ, khảo cứu khá đầy đủ về trào lưu Thơ Mới, về các tác giả, tác phẩm thơ cụ thể nhưng lại chưa có công trình nào tổng kết, đánh giá riêng về lĩnh vực lí luận thơ: hệ thống quan niệm về thơ - một địa hạt vô cùng phong phú, sôi động trong sự sôi động chung của thi ca và văn học giai đoạn này. Nhận ra một lối đi còn mở ngỏ, luận văn đã cố gắng sưu tầm, khảo cứu, tổng kết về mảng hệ thống quan niệm về thơ của phong trào Thơ Mới. 1.4. Thơ Mới thời kì 1932 – 1945 là một hiện tượng lớn, một bước chuyển, một dấu mốc quan trọng của văn học nước nhà. Trong chương trình phổ thông, nó cũng có một vị trí khá quan trọng và tần số xuất hiện trong các đề thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp, thi đại học là khá cao. Vì thế, đề tài của luận văn sẽ góp phần vào công việc giảng dạy ngữ văn ở nhà trường phổ thông. Vì tất cả những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Hệ thống quan niệm thơ trong thời Thơ Mới 1932 – 1945 nhằm đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề có ý nghĩa lí luận và thực tiễn này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 2. Lịch sử vấn đề. 2.1. Thơ Mới là một hiện tượng lớn, một dấu ấn đậm nét trong sự vận động, chuyển mình của văn học dân tộc những năm đầu thế kỉ XX. Bởi vậy mà trong suốt hơn nửa thế kỉ qua, người ta vẫn không ngừng tìm hiểu, nghiên cứu về nó; khám phá, soi chiếu nó dưới nhiều góc độ, nhiều phương diện khác nhau.Với chiều dài thời gian, công việc đánh giá về Thơ Mới của giới nghiên cứu phê bình ngày càng có chiều sâu, thể hiện ở nhiều công trình nghiên cứu khá công phu, sâu sắc. Xin được kể ra một số công trình như: - Phong trào Thơ mới 1932 – 1945 của Phan Cự Đệ (Nhà xuất bản Khoa học, H 1966) - Việt Nam thi nhân tiền chiến cuả Nguyễn Tấn Long (Nhà xuất bản Sóng mới, Sài Gòn, 1968) - Thơ mới, những bước thăng trầm của Lê Đình Kị (Nhà xuất bản Văn nghệ T.p Hồ Chí Minh, 1988) - Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca do Huy Cận và Hà Minh Đức chủ biên (Nhà xuất bản Giáo dục, 1993) - Thơ mới - bình minh thơ Việt Nam hiện đại của Nguyễn Quốc Tuý (Nhà xuất bản Văn học, Hà nội, 1995) - Thi ca Việt Nam thời tiền chiến của Phan Canh (Nhà xuất bản Đồng Nai, 1999) - Về một cuộc cách mạng trong thi ca - Phong trào Thơ mới do Phan Cự Đệ biên soạn (Nhà xuất bản Giáo dục, 2007) Đây là những công trình khoa học có giá trị về Thơ Mới và phong trào Thơ Mới thời kì 1932 - 1945. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu vẫn lấy đối tượng là văn bản tác phẩm và sự nghiệp của tác giả để khảo cứu, nhận định. Một số ít trong đó có đề cập đến khía cạnh lí luận song không mang tính chất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. chuyên biệt, hệ thống… Đây là các tài liệu tham khảo gián tiếp, góp phần soi chiếu cho các vấn đề về hệ thống quan niệm thơ đặt ra trong luận văn. 2.2. Những quan niệm về thơ trong thời kì Thơ Mới 1932 - 1945 được thể hiện khá phong phú: các cuộc “khẩu chiến” gay gắt trên diễn đàn, các bài “bút chiến” nảy lửa trên các tờ báo, các tạp chí, các ý kiến khác nhau xoay quanh vấn đề luật thơ, nội dung - hình thức của thơ… và Hoài Thanh, Hoài Chân kết thúc bằng cuốn sách mang tính chất tổng kết về phong trào Thơ Mới: cuốn Thi nhân Việt Nam. Sưu tầm và khảo cứu các bài tranh luận ấy, chúng tôi nhận thấy: Các khía cạnh khác nhau của vấn đề quan niệm thơ như: luật thơ, hình thức thơ, khuynh hướng thơ… đã được bàn bạc đến khá nhiều, song dường như chưa đi đến một sự thống nhất cao. Các bài viết thường đề cập đến từng vấn đề nhỏ và lại thiên về tranh luận chứ chưa chú ý đi sâu vào một vấn đề, chưa có sức bao quát. Trong buổi đầu của nền lí luận văn học Việt Nam (Từ đầu thế kỉ XX đến 1945) có thể nhận thấy rằng chưa có sự phân định rạch ròi giữa hai địa hạt phê bình và lí luận. Nhiều ý kiến lí luận được ẩn dưới hình thức phê bình, nhiều bài phê bình xen lí luận, các bài giới thiệu tác giả, giới thiệu tập thơ mang hình thức phê bình song trong đó lại có nhiều ý kiến lí luận thơ sắc sảo và thuyết phục… là thực tế phổ biến của lí luận phê bình thời kì này. Đây là chất liệu, là dẫn chứng trực tiếp giúp cho luận văn trong quá trình khảo cứu về hệ thống quan niệm thơ trong thời kì Thơ Mới. 2.3. Tìm hiểu về hệ thống quan niệm thơ trong thời kì Thơ Mới là nghiên cứu về việc Thơ Mới bàn về chính nó, là hình thức lí luận của chính nó trong suốt quá trình hình thành, phát triển và tự hoàn thiện, xây dựng nên một diện mạo của mình. Xác định được tính chất đó, chúng tôi đã sưu tầm, hệ thống được khoảng 150 bài viết của các học giả thời kì Thơ Mới, từ đó: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. - Miêu tả, tập hợp lại những ý kiến tranh luận, bàn luận. - Khái quát hoá thành hệ thống quan niệm cơ bản để nhận diện bản chất của Thơ Mới trên cơ sở tập trung vào một số vấn đề lí luận như: bản chất của thơ, sứ mệnh của nghệ thuật, của thi sĩ; luật thơ; các khuynh hướng và hình thức thơ... Với mong muốn nhìn lại một cách tập trung, khoa học những vấn đề về hệ thống quan niệm thơ trong thời kì này, chúng tôi sẽ phác họa được những nét chính yếu gương mặt của Thơ Mới, nhìn từ góc độ lí luận, trong thời kì 1932 - 1945. 3. Đối tƣợng nghiên cứu. Luận văn nghiên cứu về hệ thống quan niệm thơ trong thời kì Thơ Mới. Đối tượng nghiên cứu, khảo sát của luận văn là những quan điểm, những ý kiến lí luận về thơ trong thời kì này (1932 - 1945) được thể hiện qua: Các bài báo, các bài diễn thuyết, tranh luận trên văn đàn vô cùng sôi nổi và phong phú trong thời kì này. Trong đó, có những bài mang màu sắc lí luận rõ rệt, có bài phê bình xen quan điểm lí luận, các ý kiến lí luận dưới hình thức phê bình. Trong giai đoạn đầu của lí luận phê bình thơ, hai địa hạt này thường đan xen, chưa phân định rạch ròi. Cần phải “lọc” ra các quan điểm lí luận trong đó. Các Lời tựa, Lời giới thiệu các tập thơ bộc lộ khá rõ ý tưởng lí luận, quan niệm về thơ ca. Tham khảo các tác phẩm Thơ Mới tiêu biểu để đối chiếu các khía cạnh của hệ thống quan niệm về thơ, bởi hình tượng thơ cũng thể hiện nhận thức lí luận của chính nhà thơ. 4. Mục đích nghiên cứu và đóng góp của luận văn. 4.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn khảo sát mảng hệ thống quan niệm thơ trong thời Thơ Mới nhằm hướng tới mục đích: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. - Hình dung quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống quan niệm về thơ trong thời kì 1932 - 1945. - Nhận diện và hệ thống những luận điểm cơ bản của hệ thống quan niệm thơ. Qua đó, tổng kết chân dung của hệ thống quan niệm về thơ trong một chặng đương đầy biến chuyển, đầy sôi động của văn học nói chung và của thơ ca nói riêng. Đây cũng là một chặng, một bước chuyển quan trọng trên con đường phát triển, hoàn thiện của lí luận thơ ca Việt Nam trên đường hiện đại hóa. Con đường đi từ thực tiễn sáng tác đến nhu cầu lí luận, nhận diện chính mình của Thơ Mới; từ việc xây dựng hệ thống quan niệm của Thơ Mới và của thơ Việt Nam hiện đại để rồi nó lại tác động trở lại vào hoạt động sáng tác: định hướng, xác định mục tiêu, đặt ra những nguyên tắc, chuẩn mực… cho thơ ca, góp phần thúc đẩy sự phát triển, tạo nên những thành tựu rực rỡ của thơ ca Việt Nam 1930 - 1945, là con đường tất yếu, biện chứng. Nghiên cứu quan niệm thơ, bởi thế, cũng chính là nghiên cứu, xác định đặc trưng, thành tựu của Thơ Mới, từ góc độ lí luận. 4.2. Đóng góp của luận văn. 4.2.1. Một nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu về quan niệm thơ trong thời kì Thơ Mới, như trên đã xác định, là một công việc cần thiết nhưng các công trình nghiên cứu trước đây chưa đề cập toàn diện, đầy đủ. Luận văn đã cố gắng bước đầu thực hiện công việc này. 4.2.2. Xác định quan niệm về thơ trong thời kì Thơ Mới là một nhu cầu, một bước phát triển theo hướng hiện đại của thơ ca. Và nó đã góp phần tìm đường, định hướng, thúc đẩy sự phát triển, tạo nên những thành tựu của Thơ Mới 1932 - 1945. Lí luận và sáng tác là hai bộ phận đi liền, tương hỗ trong sự phát triển chung của thơ ca giai đoạn này. Luận văn, bằng việc khảo cứu hệ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. thống quan niệm về thơ, soi chiếu vào sáng tác, cung cấp một góc nhìn, một hướng đi nhằm hiểu thêm và hiểu sâu sắc hơn về thơ trong “buổi bình minh” đầy hứa hẹn của thơ Việt Nam hiện đại. 4.2.3. Luận văn, với việc khảo cứu khoa học những vấn đề về hệ thống quan niệm thơ, sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích, thiết thực, giúp cho công việc giảng dạy và học tập trong trường phổ thông, cũng như người đọc quan tâm đến Thơ Mới và văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu và cấu trúc của luận văn. 5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: 5.1.1. Phương pháp lịch sử. Hệ thống quan niệm về thơ trong thời kì Thơ Mới là sự phát triển tiếp những mầm mống, những “phôi thai” của những quan niệm thời kì trước nó (1900 – 1930) và sự phát triển mang tính bước ngoặt do ảnh hưởng bởi nhiều quan điểm lí luận của văn học Pháp, văn học phương Tây. Đồng thời, bản thân các quan niệm về thơ của Thơ Mới cũng là một quá trình với những tiến triển, mở rộng đáng kể. Luận văn vận dụng phương pháp lịch sử để làm rõ những biểu hiện đó và giải thích sự vận động hoàn thiện hệ thống quan niệm về thơ thời kì Thơ Mới. 5.1.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp, hệ thống. Phương pháp phân tích - tổng hợp được vận dụng trong quá trình lập luận để làm sáng tỏ các luận điểm chính của luận văn. Phương pháp hệ thống nhằm định dạng và hệ thống hóa các ý kiến, quan điểm lí luận, làm cơ sở trong quá trình xây dựng các luận điểm của luận văn. 5.1.3. Phương pháp so sánh đối chiếu. So sánh hệ thống quan niệm về thơ thời kì Thơ Mới với những quan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. niệm trước đó và sau này để chỉ ra những nét đặc trưng của hệ thống quan niệm về thơ thời kì Thơ Mới, cũng như những quan điểm khác biệt ngay trong các quan niệm về thơ. Các phương pháp trên không tách rời mà được vận dụng kết hợp, đan xen trong quá trình thực hiện đề tài luận văn. 5.2. Cấu trúc của luận văn. Luận văn gồm có phần Mở đầu trình bày lí do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng - mục đích nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn, phương pháp nghiên cứu. Phần Nội dung của luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống quan niệm thơ thời Thơ Mới. Chương 2: Quan niệm về bản chất của thi ca và sứ mệnh của nhà thơ. Chương 3: Quan niệm về các phương diện luật thơ và hình thức thơ Cuối cùng là phần Kết luận và Thư mục Tài liệu tham khảo. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. PHẦN NỘI DUNG Chương 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG QUAN NIỆM VỀ THƠ CỦA THƠ MỚI 1. Giới thuyết về Thơ Mới và khái niệm “Hệ thống quan niệm về thơ thời Thơ Mới”. 1.1. Giới thuyết về Thơ Mới. Thơ Mới là một hiện tượng nổi bật của Văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỉ XX. Đồng thời đây cũng là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến tranh luận khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả trong suốt thời gian từ khi nó ra đời cho đến nay: Thơ Mới là gì? Thực chất tinh thần Thơ Mới như thế nào? Mốc thời gian đánh dấu sự ra đời và khép lại của “Một thời đại trong thi ca” là 1932 - 1941 , “Một thời đại vừa chẵn mười năm” như tổng kết của Hoài Thanh hay trùng với mốc 1930 - 1945 của văn học giai đoạn này ? Khái niệm Thơ Mới có phải chỉ là Thơ Mới lãng mạn không ? Sở dĩ có những tranh luận ấy là vì giới nghiên cứu phê bình văn học đương thời cũng như sau này còn có những bất đồng về khái niệm và giới hạn Thơ Mới. Các nhà phê bình thời Thơ Mới cũng bàn cãi rất nhiều về khái niệm này. Còn theo Hoài Thanh thì: “Danh từ này (Thơ Mới) vốn mới đặt ra, người ta trao cho nó nghĩa gì thì nó sẽ có nghĩa ấy”. Thơ Mới được khởi xướng bởi các nhà thơ lãng mạn, thể hiện khát vọng tạo nên một cuộc cách mạng trong thi ca, vượt thoát khỏi lối thơ cũ mòn sáo và gò bó. Tinh thần mới, được ấp ủ và khát khao, giờ có dịp trỗi dậy, thổi bùng lên, mạnh mẽ bởi luồng gió lạ đến từ Tây phương xa xôi, như một tất yếu có tính thời đại. Tinh thần mới ấy đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. tạo nên diện mạo mới, tính cách “phá cách vứt điệu luật” của hình thức Thơ mới. Được công chúng hào hứng đón nhận và cổ vũ, sáng tác thơ theo lối mới, tinh thần mới đã trở thành xu hướng tất yếu của thơ đương thời, từ các nhà thơ sáng tác theo khuynh hướng lãng mạn, hiện thực hay các chiến sĩ trên con đường đấu tranh, vận động quần chúng làm cách mạng. Như vậy, trong sự vận động chung của tiến trình thơ ca dân tộc, Thơ mới là một chặng, là kết quả sự vận động tự thân của thơ ca ở một giai đoạn lịch sử mà văn học, văn hóa đất nước đòi hỏi cấp bách phải duy tân, đổi mới. Thơ Mới mở “đột phá khẩu” ở trào lưu văn học lãng mạn, nhưng chỉ sau một thời gian phát triển, nó đã vượt ra ngoài ý nghĩa trào lưu, vượt ra ngoài cảm hứng khởi xướng ban đầu của chủ nghĩa lãng mạn để trở thành một mô hình, một phương thức tư duy có khả năng thể hiện và truyền tải tâm hồn con người thời đại, mở ra những khuynh hướng sáng tác phong phú. Cho đến nay, sau khá nhiều tranh luận, giới nghiên cứu phê bình đã tương đối thống nhất về vấn đề này. Và luận văn sẽ khảo cứu về hệ thống quan niệm thơ thời kì Thơ mới, trên những kiến giải về Thơ Mới như sau: Phạm trù Thơ Mới, hiểu theo nghĩa đầy đủ nhất, là các sáng tác trong phong trào Thơ Mới, hay những sáng tác theo lối mới, ra đời từ 1932 và trào lưu này đã hoàn tất sứ mệnh của mình năm 1945. Là một mô hình tư duy và hình thức thơ hiện đại (đối lập với Thơ cũ ), Thơ Mới bao chứa trong nó nhiều khuynh hướng , bao trùm lên cả chặng đường lịch sử thơ ca dân tộc thời kì 1932 - 1945. Bởi thế - như giới nghiên cứu đã tương đối thống nhất - Thơ Mới bao gồm cả thơ lãng mạn , thơ cách mạng, thơ hiện thực trào phúng ... Thơ Mới được định danh như một phong trào - phong trào Thơ Mới, nhưng có thể gọi nó bằng một tên gọi tổng quát, đó là thơ Việt Nam giai đoạn 1932 - 1945. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 1.2. Về khái niệm “Hệ thống quan niệm thơ thời Thơ Mới”. Trong quá trình hình thành và khẳng định mình, Thơ Mới đã đấu tranh với thơ cũ, bằng lí luận học thuật, bằng quan điểm sáng tác, bằng chính những tác phẩm mang hơi thở và điệu tâm hồn của thời đại mới…Tất cả tạo nên một trào lưu, và sau đó, hơn cả ý nghĩa trào lưu, là cả một nền thơ, một chặng đường mới của thơ ca dân tộc. Như vậy, hệ thống quan niệm thơ thời Thơ Mới là một bộ phận hợp thành của khái niệm Thơ mới. Nói cách khác, hệ thống quan niệm về thơ thời kì Thơ Mới là cách Thơ Mới bàn về chính nó, một sự tự ý thức chiều sâu về bản thân nó, là hình thức bộc lộ bản chất của Thơ Mới, trên cấp độ quan niệm. Luận văn xác định “hệ thống quan niệm thơ thời Thơ Mới” được cấu thành từ các bộ phận sau: a, Các bài tranh luận, bút chiến chủ yếu tập trung ở thời kì đầu hình thành Thơ mới cũng như các bài viết nghiêng về nghiên cứu lí luận, đề xuất các ý kiến về học thuật, quan niệm về bản chất thi ca, vai trò và sứ mệnh của thi ca và thi sĩ…Những bài khảo cứu - phê bình - giới thiệu và cả những “tuyên ngôn” trong sáng tác đã phản ánh những quan niệm của toàn bộ nền thơ, tập trung vào những vấn đề chính: Thứ nhất là các vấn đề về bản chất thơ ca và chân dung tinh thần của người thi sĩ mới. Thứ hai là xác định đặc điểm của Thơ Mới, những phong cách sáng tạo thơ… Thứ ba là những vấn đề về hình thức thơ mà thơ Mới đang tạo dựng: luật thơ, việc sử dụng các hình thức, thể thơ và ngôn ngữ thơ. Hệ thống quan niệm thơ của Thơ Mới không phải là một “hằng số” bất biến. Nó luôn vận động, phát triển và mở rộng song song với sự phát triển của nền thơ. Luận văn sẽ đi sâu khảo sát các vấn đề của hệ thống quan niệm này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. b, Cùng với sự xuất hiện của các thi sĩ mới, sự ra đời của các tập thơ, là các ý kiến phê bình, đánh giá, các quan điểm khác nhau.. được thể hiện qua các bài giới thiệu tác giả tác phẩm mới trên thi đàn, các Lời tựa, Lời nói đầu các tập thơ. Qua đó, ta dễ nhận ra quan điểm về thi ca, thi sĩ, về các vấn đề khác nhau của luật thơ và hình thức thơ…Tập hợp những Lời tựa, Lời nói đầu, các bài giới thiệu, phê bình tác giả tác phẩm trong giai đoạn ấy, bức tranh về hệ thống quan niệm thơ thời Thơ Mới hiện lên rõ hơn, sắc nét hơn. c, Trong nhiều bài thơ của Thơ Mới, thi sĩ cũng gửi gắm trong đó những quan niệm về thơ và sáng tạo thơ. Chẳng hạn như Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, Là thi sĩ cuả Xuân Diệu, Bức thư gởi tất cả ai ưa hay ghét bỏ Thơ Mới của Nguyễn Thị Manh Manh, vv… Những phát ngôn trực tiếp đầy tính cảm xúc này của nhiều thi sĩ đã thể hiện những quan điểm sáng tạo của nhà thơ, đôi khi như những “tuyên ngôn” hàm chứa những tư tưởng về thơ ca. Tóm lại, nghiên cứu Thơ Mới không chỉ là khảo cứu thực tiễn sáng tác thơ ca, mà cần thiết phải chú ý nghiên cứu h ệ thống quan niệm v ề thơ với tư cách tiếng nói của người trong cuộc , của “chính Thơ Mới bàn về Thơ Mới”, được thể hiện ở: các bài lí luận về thơ; các Lời bạt, Lời tựa, Lời nói đầu các tập thơ, một số bài phê bình, tiểu luận, khảo cứu về tác giả, trào lưu; một số tác phẩm Thơ Mới có ý nghĩa tuyên ngôn. Những quan niệm về thơ được thể hiện trong những hình thức đa dạng này tạo nên một hệ thống phong phú, chúng thể hiện những bước phát triển liên tục của Thơ Mới về mặt lí thuyết thể loại cũng như những tư tưởng được nảy ra trong chính thực tiễn sáng tạo thơ. Chúng tạo thành một hệ thống, sinh động và hoàn chỉnh, có ý nghĩa mĩ học quan trọng, góp phần soi sáng bản chất sáng tạo của Thơ Mới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 2. Quá trình hình thành và phát triển những quan niệm về thơ của Thơ Mới. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng, những năm 1930- 1945, đảm nhận sứ mệnh hoàn thiện quá trình hiện đại hóa văn học một cách toàn diện, trọn vẹn. Với sứ mệnh ấy, văn học đã phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy ở mọi góc độ, phương diện: từ đội ngũ tác giả, số lượng tác phẩm, cho đến sự mở rộng, phong phú các thể loại cũng như sự khẳng định vai trò của lí luận phê bình. Hệ thống quan niệm về thơ của Thơ Mới nhanh chóng có được sự phong phú và dung mạo khá đầy đủ. Song để có được diện mạo ấy, cần thấy rằng trước đó, ở chặng đường văn học 1900 - 1930 đã có những “mầm mống”, những dấu hiệu ban đầu. Sự vận động, chuyển mình của đời sống chính trị, xã hội, văn hoá… đòi hỏi đổi mới văn học, đổi mới thi ca. Các nhà văn nhà thơ và các học giả đã bắt đầu nhận ra rằng thơ cũ là gò bó, trói buộc, không phù hợp với thời đại mới. Cũng từ đó, trước những năm 1932, người ta đã thấy những tiếng nói đặt vấn đề đổi mới, cách tân văn học, xây dựng một nền thi ca mới của thời đại. Năm 1917, trên tờ Nam Phong tạp chí số 5, Phạm Quỳnh cho thơ cũ là phiền phức, ràng buộc, khắc nghiệt không khác gì hình luật. Ông viết: “Người nào thuộc luật thì bằng trắc tất không lộn, về tắc áp, luật tất niêm, điệu tất xứng, đối tất chỉnh, sành những khóe “thôi xao”, giỏi những cảm xuất sáo, mà gây nên những bức thanh âm tuyệt diệu. Người nào không thuộc luật thì phạm phải những tội ghê gớm, đọc đến mà rùng mình: nào là tội thất niêm, tội thất luật, tội khổ độc, tội cưỡng áp, tội trùng ý, trùng chữ, điệp điệu…Người ta thường nói thơ là tiếng kêu tự nhiên của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho nghề làm thơ thật là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho hạp hơn, nhưng cũng nhân đó mà làm mất cái giọng thiên nhiên đi vậy”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. Năm 1928, trên tờ Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã mạnh dạn hơn, lớn tiếng đả kích một cách táo bạo luật lệ thơ cũ, cho đó là sự trói buộc, hãm đà phát triển thơ ca. Ông viết: “Từ ngày đem thất ngôn luật vào khoa cử, rồi thì thể ấy trở nên trói buộc quá mà mất cả sinh thú…Ngày nay, người ta cũng tuân theo, không biết cởi mình ra khỏi trói. Thấy có một vài cuốn sách quốc ngữ tự xưng dạy phép làm thơ mà cũng dạy theo lối thơ khoa cử ấy, thì thật tức quá. Thơ quý nho nhã, mà đã tục tài thì dạy ai?”. Cũng trong năm 1928, trên tờ Trung Bắc tân văn, xuất hiện một bài thơ không niêm luật, không hạn chữ, hạn câu, làm cho mọi người thấy hoàn toàn mới lạ, bài thơ Nguyễn Văn Vĩnh dịch thơ Pháp : “ Con ve và con kiến ” của La Fontaine. Đến năm 1929, Trịnh Đình Rư đã có một loạt bài viết được đăng ở báo Phụ nữ tân văn. Ông cũng cảm thấy luật thơ Đường là quá gò bó “buộc người ta phải làm theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú tự do, ý tưởng dồi dào” nên lên tiếng đả kích. Trịnh Đình Rư quan niệm văn thơ là sản phẩm của chế độ xã hội, “Văn chương là hồn nước. Hồn nước tỉnh dần thì văn thơ cũng phải đổi mới”. Nhưng đổi mới như thế nào? Chính ông cũng chưa đề xuất được lối thơ nào mới nên chỉ đề nghị dùng hai lối thơ lục bát và song thất lục bát, có tính chất Việt Nam, lại không gò bó, cứng nhắc. Như vậy, yêu cầu đổi mới thi ca đã được đặt ra từ những năm 20 của thế kỉ XX và nhu cầu tìm đến một mô hình thơ ca mới đã trở thành một yêu cầu bức thiết của thời đại. Đây có thể được coi là bước chuẩn bị, là giai đoạn “phôi thai” cho sự đổi mới tất yếu của thơ ca và việc hình thành hệ thống quan niệm về thơ ca như một yêu cầu không thể thiếu của một nền thi ca mới trong thời kì Thơ Mới 1932 - 1945. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 2.1. Cuộc tranh luận Thơ cũ – Thơ mới. Phôi thai từ những năm 1917, song tạm lắng lại do không tìm được hướng đi, vấn đề Thơ mới - Thơ cũ… lại trở lại, vô cùng sôi nổi, quyết liệt trên thi đàn từ những năm 1932. Cuộc tranh luận đã kéo dài trong nhiều năm, thu hút phần lớn các tờ báo đương thời vào cuộc bút chiến, gây nên không khí sôi nổi trên văn đàn khắp ba kỳ: Phong hóa, Tiếng dân, Công luận, Hà Nội báo, An nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay...Thơ Mới và Thơ cũ là vấn đề mô hình thể loại, nhưng thực chất nó phản ánh sự đấu tranh giữa ý thức hệ phong kiến với ý thức hệ tư sản, giữa cái cũ và cái mới trong nghệ thuật. Cuộc đấu tranh giữa Thơ mới - Thơ cũ được bắt đầu với “phát súng lệnh” của lão tướng Phan Khôi với bài “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”, đăng trên báo Phụ nữ tân văn, số 122 (10.3.1932). Bài viết này là sự hiện thực hóa khát vọng đổi mới thi ca bằng chính tác phẩm cũng như những tuyên ngôn quyết liệt đi liền với nó. Phan Khôi tiếp tục đả phá sự trói buộc của thơ cũ: “Đại phàm là thơ để tả cảnh, tư tình mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quí chỗ chân. Lối thơ cũ của ta ngũ ngôn hay thất ngôn tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng ra lối thơ cũ…cũng vẫn bị câu thúc. Hễ câu thúc thì nó mất cái chân đi, không mất hết cũng mất già nửa phân. … Bởi vậy, tôi sắp toan bày ra một cách thơ mới. Vì nó chưa thành thực nên chưa đặt tên kêu là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là: đem cái ý thật có trong tâm khảm tả ra bằng những câu có vần mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết” [36]. Phan Khôi đã cho rằng, đổi mới thơ ca là yêu cầu khẩn thiết có tính thời đại. Ông hô hào “Duy tân đi! Cải lương đi!”. Không chỉ nêu quan điểm, kêu gọi duy tân, đổi mới, trong bài thơ trình làng, bài “Tình già”- “đứa con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. đầu lòng” của Thơ Mới, ông còn đề xướng một lối thơ vượt thoát khỏi mô hình thơ truyền thống cả về tình điệu lẫn ngôn từ. Bài thơ mới cả về cách gieo vần, điệu thơ, số từ trong câu, luật bằng trắc vốn là cái khung bền chắc của thơ cũ, đã bị phá vỡ hoàn toàn: Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa, Dưới ngọn đè mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở: “Ôi! Đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, Mà lấy nhau hẳn là không đặng Để đến nỗi tình trước phụ sau, Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!” …Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau. Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được! Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, Con mắt còn có đuôi. Vốn là một nhà cựu học sắc sảo và đầy chủ kiến, một nhà thơ già dặn tự nhận thơ mình “bài nào cũng đọc được”, chính Phan Khôi cũng đầy hoài nghi, không dám tin tưởng vào kết quả của lời hiệu triệu ấy. Ông viết: “Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi sẽ thất bại lần nữa, nhưng chúng tôi tin rằng sau này có người làm như tôi mà thành công” [36]. Đây có thể được coi là bài thơ đầu tiên của Thơ Mới cũng như những phát ngôn rõ ràng mang tính quan niệm về thơ mở đầu cho thời kì Thơ Mới. Đúng như băn khoăn của Phan Khôi, tư tưởng duy tân thi ca và bài thơ Tình già của ông lập tức bị chỉ trích nặng nề. Thậm chí bị coi như một quái thai của thời đại, một điều sỉ nhục cho thơ ca! Ông Vân Bằng, trên tạp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. chí An Nam số 39 (30.4.1932) đã phẫn nộ lên tiếng trong một bài báo có tựa đề: “Tôi thất vọng vì Phan Khôi”. Tháng 6.1932, báo Phụ nữ tân văn số 153 có đăng một bức thư của Lưu Trọng Lư gửi Phan Khôi. Đây là lời hưởng ứng đầu tiên, là tiếng nói tha thiết của nhà thi sĩ trẻ đối với việc làm mang tính cách mạng của Phan Khôi. Lưu Trọng Lư Viết: “Nếu cứ phải uốn nắn theo khuôn khổ chật hẹp như hiện tình thi ca nước nhà thì họ thất vọng biết dường nào. Vậy ta ngần ngừ gì nữa mà không mở rộng cái “lãnh thổ” kia ra, để mặc sức cho họ đem những cái gì thiên tài phú bẩm ra mà đua bơi, vẫy vùng…Trong cái lúc quá độ ắt phải như thế, có buông lửng, có phóng túng mới có thể phát triển hết những cái rất hay, rất quí, rất đẹp trong mình, tuy có nhiều lộn xộn, nhưng một ngày kia thành thục rồi, sẽ trở vào trong những cái nguyên tắc lề lối, rộng rãi hơn, tự do hơn. Dám khuyên tiên sinh nên mạnh dạn một lần nữa mà tiến lên đường” [52]. Kèm với bức thư là hai bài thơ viết theo lối mới, bài “Trên đường đời” kí tên Lưu Trọng Lư và bài “Vắng khách thơ” kí Thanh Tâm. Báo Phong hóa, số 14 (22.9.1932) cũng hưởng ứng, lên tiếng kịch liệt đả kích thơ cũ, hô hào bênh vực cho thơ mới. Phong hóa số 31 (12.1.1933) nhắc lại vấn đề này, khẳng định: “…Bỏ luật, niêm, đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ca phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng” [71]. Ngay sau đó, trên thi đàn, đã nổ ra một phong trào - một cuộc tranh luận gay gắt giữa hai phái: phái bênh vực và phái phản đối Thơ Mới. Các nhà lí luận - phê bình, các thi sĩ mới đã đăng đàn diễn thuyết “khẩu chiến”, tiếp tục viết những bài “bút chiến” tranh luận với “phái bênh vực thơ cũ” để tìm chỗ đứng xứng đáng cho thơ theo lối mới, mà theo họ là “phù hợp với bánh xe lịch sử”: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0