intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

48
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài tiến hành nghiên cứu các sáng tác của Sương Nguyệt Minh để thấy được những đổi mới trong nội dung cũng như tư duy nghệ thuật của nhà văn. Qua đó thấy được sự phát triển của đời sống văn học từ đổi mới đến nay. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TRẦN THỊ HỒNG GẤM SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Thái Nguyên - Năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM TRẦN THỊ HỒNG GẤM SỰ VẬN ĐỘNG TRONG TRUYỆN NGẮN SƢƠNG NGUYỆT MINH Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Hồng My Thái Nguyên - Năm 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm, tạp chí và các trang web theo danh mục tài liệu của luận văn. Thái Nguyên, ngày 27 tháng 5 năm 2012 Trần Thị Hồng Gấm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. i MỤC LỤC Trang Mục lục ............................................................................................................... i MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ ĐỀ TÀI ....................................................... 8 1.1. Từ đề tài chiến tranh đến đề tài lịch sử................................................... 8 1.1.1. Từ đề tài chiến tranh…..................................................................... 8 1.1.2. …đến đề tài lịch sử......................................................................... 20 1.2. Từ đề tài nông thôn đến đề tài “nửa quê nửa phố” ............................... 28 1.2.1. Từ đề tài nông thôn… .................................................................... 28 1.2.2. …đến đề tài “nửa quê nửa phố” ..................................................... 34 Chƣơng 2 SỰ VẬN ĐỘNG TRONG HỆ THỐNG NHÂN VẬT .............. 42 2.1. Từ nhân vật người lính đến nhân vật lịch sử ........................................ 42 2.1.1. Từ nhân vật người lính… ............................................................... 42 2.1.2. ...đến nhân vật lịch sử..................................................................... 50 2.2. Từ nhân vật người nông dân đến nhân vật “dở quê dở phố”................ 55 2.2.1. Từ nhân vật người nông dân… ...................................................... 55 2.2.2. … đến nhân vật “dở quê dở phố” ................................................... 58 Chƣơng 3 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ BÚT PHÁP NGHỆ THUẬT ................... 63 3.2. Từ bút pháp hiện thực – lãng mạn… .................................................... 65 3.3.… đến bút pháp hiện thực - lãng mạn – kỳ ảo ....................................... 71 PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Theo PGS. Lý Hoài Thu, thể loại “vừa là sự phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học, vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển” [38]. Qua diện mạo của thể loại mà ta có thể thấy được sức sống của một giai đoạn văn học vì vậy mà nó có vai trò rất quan trọng. Truyện ngắn là một thể loại đặc trưng của nền văn học hiện đại. Với ưu điểm ngắn gọn, súc tích, hàm chứa lượng thông tin lớn, có tính thời sự cao, quan hệ mật thiết với báo chí, khả năng truyền dẫn thông tin nhanh, nó rất phù hợp với cuộc sống hiện đại. Điều này giải thích vì sao hiện nay truyện ngắn lại có xu hướng phát triển mạnh hơn so với một số thể loại khác như truyện vừa, tiểu thuyết, kịch… Không phải ngẫu nhiên mà Raymond Carver - cây bút truyện ngắn được giới văn học Hoa Kỳ vào thập niên 70 coi như một thiên tài của thế kỷ XX - đã nhận định: “tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiều mặt, thậm chí có lẽ tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn, chính là tác phẩm được viết dưới dạng truyện ngắn”. Trong nền văn học Việt Nam, sự xuất hiện của thể loại truyện ngắn gắn liền với bước khởi đầu của quá trình hiện đại hóa. Đến những năm hai mươi của thế kỷ XX, nó đã phát triển khá mạnh với sự đóng góp của các tác giả: Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao, Tô Hoài, Bùi Hiển.v.v…Từ sau Cánh mạng tháng Tám đến nay, thể loại này đã tạo nên bước phát triển mới với tên tuổi của Kim Lân, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Vũ Thị Thường, Nguyễn Minh Châu.v.v… Từ sau năm 1975, truyện ngắn vượt lên các thể loại khác về lượng tác giả, tác phẩm và tỏ rõ ưu thế trong việc đi sâu khám phá, tái hiện đời sống. Từ 1986 trở đi, nó càng giữ vai trò quan trọng trên văn đàn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 2 Sương Nguyệt Minh là cây bút chuyên về truyện ngắn. Tuy có thử sức trên một số thể loại khác (bút ký, tùy bút và hiện tại cả tiểu thuyết), nhưng thể loại sở trường của ông vẫn là truyện ngắn. Trong khoảng mười năm (từ 1998 đến nay), ông đã xuất bản liên tiếp sáu tập truyện ngắn: Đêm làng Trọng Nhân (1998), Người ở bến sông Châu (2001), Đi qua đồng chiều (2005), Mười ba bến nước (2005), Chợ tình (2007) và gần đây nhất là tập truyện ngắn Dị hương (2009) – tập truyện đã làm nên một “hiện tượng” của đời sống văn học trong nước. Với quan niệm: “nhà văn luôn phải khác biệt” [3], ông luôn trăn trở, nỗ lực vươn lên để thoát ra “những cái thông thường mòn nhẵn”, Sương Nguyệt Minh luôn có ý thức viết khác với các nhà văn lớp trước, khác các nhà văn cùng thời và cố gắng đổi mới chính mình. Truyện ngắn của ông không tĩnh tại mà vận động không ngừng, thể hiện ý thức sáng tạo của nhà văn. Nhà lí luận phê bình Bùi Việt Thắng khi đọc truyện Nơi hoang dã đồng vọng (trong tập Người ở bến sông Châu), thấy Sương Nguyệt Minh thể hiện một bút pháp mới, sợ ông phiêu lưu vào cuộc truy lùng hình thức rồi... “tay trắng”, đã khuyên tác giả nên viết theo lối truyền thống “cũ mà chắc ăn”. Nhưng Sương Nguyệt Minh đã không sợ trắng tay mà vẫn kiên trì tìm một hướng đi mới. Nỗ lực đổi mới nghệ thuật ấy đã được khẳng định qua một loạt các giải thưởng về truyện ngắn nhà văn được trao tặng: giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội năm (1996), tạp chí Văn hoá Văn nghệ Công an (1998-2001), báo Văn nghệ (2003 – 2004); Nhà xuất bản Giáo dục (2004), nhà xuất bản Thanh niên (2004), Hội nhà văn Việt Nam (2010).v.v… Truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh cũng đã trở thành một đối tượng được giới nghiên cứu văn học khám phá trong những năm gần đây. Tuy nhiên, những người quan tâm đến truyện ngắn Sương Nguyệt Minh chủ yếu tìm hiểu đối tượng ở dạng tĩnh hoặc đi sâu vào từng tác phẩm cụ thể. Những nỗ lực đổi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 3 mới cách viết của nhà văn trong quá trình sáng tác – điều mà ông ý thức rất cao - chưa được tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá một cách thỏa đáng. Quan tâm đến đời sống văn học của “ngày hôm nay”, dõi theo quá trình vận động của truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề: “Sự vận động trong truyện ngắn Sƣơng Nguyệt Minh” với mục đích làm sáng rõ hơn những gì ông đã đạt được (và có thể cả những gì chưa đạt) trong thực tế so với quan niệm sáng tác; xác định mức độ đóng góp của nhà văn vào sự phát triển của thể loại truyện ngắn trong văn học Việt Nam đương đại 2. Lịch sử vấn đề Nhà văn Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, sinh ngày 15 tháng 9 năm 1958 tại xã Yên Mỹ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Bút danh Sương Nguyệt Minh xuất hiện trên văn đàn khá muộn. Suốt thời tuổi trẻ tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam, rồi lăn lộn trên chiến trường Campuchia, phải đến 10 năm sau, ước mơ trở thành sinh viên Tổng hợp Văn của ông mới thành hiện thực. Năm 1992, ông cho in truyện ngắn đầu tiên trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Giải thưởng của báo Văn nghệ Quân đội năm 1996 giúp Sương Nguyệt Minh vững tin hơn vào ngòi bút của mình. Đầu năm 1998, ông chuyển về Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Khi từ đơn vị về làm việc ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ông vui mừng như “ao tù gặp đại dương mênh mông”. Từ đây, nhà văn miệt mài sáng tác và vẫn không ngừng tìm tòi, sáng tạo. Nhà văn đã quyết định nghỉ chức Trưởng ban Văn xuôi, không làm biên tập mà chuyển sang Ban sáng tác để có thêm điều kiện đọc và viết. Mỗi tập truyện là một sự nỗ lực sáng tạo bền bỉ thấm không ít nhọc nhằn của ông. Sương Nguyệt Minh thuộc thế hệ nhà văn mặc áo lính và là một người lính trước khi trở thành một nhà văn. Mặc dù viết văn muộn nhưng các sáng tác của ông đã sớm thu hút sự quan tâm của đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu, phê Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 4 bình văn học. Ngay từ khi mới xuất hiện trên văn đàn với các tác phẩm Nỗi đau dòng họ, Bản kháng án bằng văn, người đọc đã thấy được “những cái không thông thường” trong cách viết, cách đặt vấn đề của Sương Nguyệt Minh. Nhà văn Hồ Phương khi đọc Nỗi đau dòng họ đã nhận xét: “Truyện đầu tay, nhưng cảm thấy đã rõ hình hài cốt cách một người viết chuyên nghiệp” [41]. Đến các tập truyện ngắn Người ở bến sông Châu, Đi qua đồng chiều, Mười ba bến nước, bút danh Sương Nguyệt Minh ngày càng thu hút độc giả và đồng nghiệp. Khi đọc truyện ngắn Mười ba bến nước, nhà văn Khuất Quang Thụy nhận thấy sự đổi mới trong sáng tác của Sương Nguyệt Minh và đánh giá đây là cây bút “không dễ dàng chấp nhận dừng lại ở sự quen thuộc, sự mòn nhẵn thông thường, mặc dù với anh, đây mới chỉ là những chặng đầu tiên, những “bến nước” đầu tiên trên con đường sáng tạo văn học nghệ thuật” [39]. Sau đó, sự xuất hiện của tập truyện ngắn Dị hương đã tạo nên một cuộc tranh luận khá sôi nổi. Nhiều phương diện đổi mới của tác phẩm đã được dư luận đặc biệt quan tâm. Nhà phê bình Nguyễn Hoàng Đức nói về bút pháp hiện thực kỳ ảo rất đặc thù của Sương Nguyệt Minh trong Dị Hương: “bút pháp này đã biểu tỏ được những gì nhạy cảm nhất”; và khẳng định: “Sương Nguyệt Minh là cây bút có mặt trong tốp đầu hiện nay của văn chương quân đội” [44]. Nhà phê bình Văn Giá rất tâm đắc tặng cho Sương Nguyệt Minh ba chữ: “Hoạt - Phiêu - Thõa. Hoạt là sự linh hoạt trong trần thuật, trong lời văn. Phiêu là sự chuyển đổi trong bút pháp, từ chỗ trước kia tác giả chú trọng tâm linh, đến tập này, tác giả đã đi vào bút pháp siêu thực, huyền ảo; và Thõa là chất liệu sex được viết một cách cao tay. Tôi muốn nhấn mạnh đến chất “trẻ” của Dị hương” [44]. Với Dị hương, nhiều nhà phê bình nhận thấy một Sương Nguyệt Minh đã “thoát ra khỏi anh nhà văn mặc áo lính”, thoát khỏi những cái “thông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 5 thường” để đổi mới. Ở tập truyện này, ông đã mạnh dạn đi vào những đề tài về thành thị và xa hơn nữa là đề tài lịch sử bằng một bút pháp biến hóa linh hoạt đậm màu sắc kỳ ảo. Nhà văn Vũ Ngọc Tiến cho rằng: “lịch sử là một đề tài khó và những người dám viết truyện lịch sử là những người dũng cảm” [44]. Tập truyện ngắn này cho thấy, Sương Nguyệt Minh dũng cảm viết về đề tài lịch sử và đã vượt qua chính mình, đổi mới chính mình. Có lẽ chính vì thế mà tập truyện ngắn Dị hương được coi là “bước ngoặt trong hành trình sáng tác của Sương Nguyệt Minh” [17]. Bên cạnh những bài báo, bài phê bình kể trên còn có công trình nghiên cứu chuyên sâu về Sương Nguyệt Minh. Đó là Luận văn của thạc sĩ Trần Thị Phương Loan, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh” [21], tập trung vào các phương diện: Cảm hứng nghệ thuật, Thế giới nhân vật và Một số phương diện nghệ thuật đặc sắc. Luận văn đã chỉ ra, trong những tác phẩm về đề tài chiến tranh, Sương Nguyệt Minh đã viết bằng cảm hứng lãng mạn, ngợi ca đan xen với cảm hứng bi kịch. Trong những truyện viết về cuộc sống đời thường, tác giả viết bằng cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán và trào lộng; cảm hứng khám phá con người bản năng.v.v…Tìm hiểu thế giới nhân vật trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, luận văn đã đưa ra hai hệ thống nhân vật là nhân vật truyền thống và nhân vật đổi mới. Sương Nguyệt Minh đã có những tìm tòi để tạo nên những nhân vật tính cách, khám phá con người ở nhiều chiều kích, phương diện khác nhau. Luận văn cũng đi vào phân tích các kiểu nhân vật cô đơn, nhân vật dị biệt và nhân vật giả huyền thoại, giả lịch sử trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. Tác giả còn làm rõ một số phương diện nghệ thuật đặc sắc đã làm nên thành công trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh như: cốt truyện, tình huống truyện, không gian và thời gian nghệ thuật, giọng điệu trần thuật.v.v…Khi đi vào nghiên cứu thế Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 6 giới nghệ thuật trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, tác giả luận văn cũng đã gợi ra đôi nét về sự vận động của cây bút này, đó là từ “lối viết truyền thống” trong những tập truyện đầu tay đến “những đổi mới và thành công” được ghi dấu trong Dị hương [21, tr.9]. Luận văn giúp bạn đọc hiểu sâu về truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh, bước đầu hé mở vấn đề về sự vận động trong truyện ngắn của ông. Đây là nguồn tư liệu hữu ích để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu vấn đề. Cho đến nay, qua các bài báo, tài liệu nghiên cứu – phê bình văn học và các cuộc trao đổi, tranh luận được đăng tải trên sách báo, tạp chí, trên mạng internet, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Sương Nguyệt Minh đã được nhìn nhận, đánh giá trên cả hai phương diện nội dung và hình thức. Những ý kiến về sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh mới chỉ hé mở bước đầu. Tiếp nhận gợi mở của người đi trước, chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu nhằm chiếm lĩnh vấn đề một cách hệ thống và toàn diện hơn. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu các sáng tác của Sương Nguyệt Minh để thấy được những đổi mới trong nội dung cũng như tư duy nghệ thuật của nhà văn. Qua đó thấy được sự phát triển của đời sống văn học từ đổi mới đến nay. * Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. * Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các tập truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh: - Đêm làng Trọng Nhân (1998) - Người ở bến sông Châu (2001) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 7 - Đi qua đồng chiều (2005) - Mười ba bến nước (2005) - Chợ tình (2007) - Dị hương (2009) 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Khi đi vào nghiên cứu sự vận động trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp cơ bản sau: 1. Phương pháp thống kê, phân loại Sử dụng phương pháp này để thống kê, phân loại các kiểu đề tài, nhân vật và các bút pháp nghệ thuật trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh. 2. Phương pháp phân tích, tổng hợp Phương pháp này giúp chúng tôi nghiên cứu, phân tích các vấn đề, từ đó khái quát nên sự vận động trong toàn bộ truyện ngắn của nhà văn. 3. Phương pháp so sánh Phương pháp so sánh được sử dụng trên hai bình diện lịch đại và đồng đại để thấy được sự kế thừa cũng như những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của nhà văn. 5. Cấu trúc luận văn Ngoài các phần: Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo; phần nội dung của đề tài “Sự vận động trong truyên ngắn Sƣơng Nguyệt Minh” gồm 3 chương sau: Chương 1: Sự vận động về đề tài Chương 2: Sự vận động trong hệ thống nhân vật Chương 3: Sự vận động về bút pháp nghệ thuật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 8 Chƣơng 1 SỰ VẬN ĐỘNG VỀ ĐỀ TÀI 1.1. Từ đề tài chiến tranh đến đề tài lịch sử 1.1.1. Từ đề tài chiến tranh… Đề tài “là một phương diện nội dung tác phẩm, là đối tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn của nhà văn. Đó là sự khái quát về phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được phản ánh trong tác phẩm” [23, tr.260]. Trong sáng tác, mỗi nhà văn có một sự lựa chọn đề tài phù hợp với nhận thức và năng lực của mình nhằm thể hiện sâu sắc những gì đã quan sát, ghi nhận, rung động, trải nghiệm, suy ngẫm về cuộc đời và con người. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Ninh Bình, có thời gian dài cầm súng bảo vệ Tổ quốc cho nên sở trường của Sương Nguyệt Minh trước hết là những mảng đề tài truyền thống: đề tài chiến tranh, đề tài nông thôn. Đặc biệt là đề tài chiến tranh. Chiến tranh đã qua đi nhưng những ký ức về nó thì vẫn còn in đậm trong tâm khảm của người Việt Nam, đặc biệt là với những người đã tham gia cuộc chiến. Riêng với những nhà văn đã một thời mặc áo lính, phải đối diện với chiến thắng và mất mát, chứng kiến sự dũng cảm phi thường và cả những hy sinh của đồng đội, của nhân dân thì ấn tượng về nó lại càng sâu sắc, ám ảnh hơn. Chính điều đó đã hối thúc họ viết về quá khứ kiêu hùng và máu lửa để kí thác lòng mình. Chiến tranh, nói như Chu Lai: “là một siêu đề tài, hình ảnh người lính là một siêu nhân vật, đề tài chiến tranh như một mỏ quặng, càng đào sâu, càng màu mỡ. Cái màu mỡ đó chính là văn học” [18]. Vì thế mà cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược đã lùi xa nhưng nó vẫn là nguồn cảm hứng chưa vơi cạn của những người cầm bút. Chiến tranh đi qua, độ lùi thời gian giúp các Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 9 nhà văn nhận thức một cách thấu đáo, khách quan và có cái nhìn toàn diện hơn. Trước đây, văn học chủ yếu được viết theo khuynh hướng sử thi với cảm hứng lãng mạn, ngợi ca cuộc chiến tranh anh dũng của dân tộc và những con người mang trong mình phẩm chất anh hùng cách mạng. Cho nên, cái nhìn về chiến tranh, về người lính không tránh khỏi phiến diện, một chiều. Từ sau 1975, văn học chuyển dần từ khuynh hướng sử thi sang khuynh hướng thế sự đời tư, dẫn đến sự chuyển đổi trong cảm hứng sáng tác. Các nhà văn đã mạnh dạn đi vào phản ánh những mặt khuất lấp mờ tối, phân tích cái được và chưa được của cuộc chiến tranh mà văn học thời kỳ trước còn chưa đề cập đến. Điều đó làm cho văn học Việt Nam từ thời kỳ đổi mới đến nay ngày càng có cái nhìn về chiến tranh đa diện, đa chiều hơn. Sương Nguyệt Minh từng tham gia chiến đấu, cống hiến tuổi trẻ và sức lực cho đất nước. Những năm tháng ấy đã cho nhà văn nhiều tư liệu, kinh nghiệm, vốn sống, cảm hứng để viết về chiến tranh và người lính. Nhìn vào Bảng khảo sát 1 (Phụ lục 3), chúng ta sẽ thấy số lượng tác phẩm viết về đề tài chiến tranh của ông chiếm tỉ lệ cao (trong 55 tác phẩm thì có 19 tác phẩm viết về chiến tranh, chiếm tới 34,5%). Sáu tập truyện ngắn của ông đều có truyện viết về đề tài chiến tranh; trong đó năm tập được sáng tác trước có mức độ “đậm đặc” hơn. Đến tập truyện viết gần nhất là Dị Hương – tác phẩm được đánh giá là có sự chuyến hướng rõ rệt về đề tài của Sường Nguyệt Minh - cũng có 2/10 truyện viết về chiến tranh. Điều đó cho thấy tâm huyết của nhà văn đã dành cho mảng đề tài vốn được coi là truyền thống này. Cùng viết về đề tài chiến tranh, mỗi lớp nhà văn lại có cách nhìn riêng. Nguyễn Thi, Phan Tứ, Anh Đức chú trọng ngợi ca vẻ đẹp anh hùng, lí tưởng, lãng mạn của con người Việt Nam trong chiến đấu. Nguyễn Khải, Chu Lai nghiêng về phản ánh những bi kịch, di hoạ trực tiếp của chiến tranh. Là người “đến sau” so với các lớp nhà văn đó, ở mảng đề tài này, Sương Nguyệt Minh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 10 không “hát bè cao” ca ngợi phẩm chất anh hùng trong chiến đấu, ít phản ánh trực tiếp cảnh bom rơi đạn nổ, chết chóc tang thương. Ông nghiêng về những “nốt nhạc trầm” khi viết về phẩm chất của những người lính. Đặc biệt, ngòi bút nhà văn hướng sâu vào tìm tòi, khám phá và phản ánh những hậu quả, tổn thương, mất mát lâu dài, dai dẳng về mặt tinh thần do chiến tranh gây ra. Ở điểm này thì ông giống với Lê Lựu (Thời xa vắng), Nguyễn Minh Châu (Mảnh đất tình yêu), Dương Hướng (Bến không chồng), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh)… Trong truyện ngắn Sương Nguyệt Minh, di họa chiến tranh gây nhiều nỗi ám ảnh đối với người đọc. Điều làm nên sức ám ảnh đó không phải là bởi những cảnh chiến tranh ác liệt mà là ở sức tàn phá của nó lên số phận con người. Chiến tranh đã dập tắt không thương tiếc giấc mơ tình yêu, ước mơ, hoài bão của bao chàng trai, cô gái và niềm hạnh phúc bình dị của bao gia đình Việt Nam. Các tập truyện ngắn Đêm làng Trọng Nhân (1998), Người ở bến sông Châu (2001), Mười ba bến nước (2005), Chợ tình (2007) đã phản ánh rất rõ hiện thực này. Sương Nguyệt Minh đã trăn trở rất nhiều về chiến tranh và muốn dùng ngòi bút của mình truy tìm đến tận cùng những di hại của nó đối với con người. Nhà văn dõi theo từng số phận. Tâm trí ông tìm đến những ngóc ngách của làng quê xa xôi, đến những ngõ hẻm khuất lấp ở thành phố… để nắm bắt, suy nghiệm về hậu quả của nó. Ngòi bút giúp nhà văn trải lòng mình lên trang giấy một cách lặng lẽ mà thấu đáo, lắng sâu và ám ảnh. Một nội dung xuyên suốt nhiều truyện ngắn về đề tài chiến tranh của Sương Nguyệt Minh là bi kịch chiến tranh trong cuộc sống đời thường: những “nỗi buồn chiến tranh” trên mặt đất không còn tiếng súng, những đau đớn nhức nhối trong vết thương bom đạn tưởng đã liền thịt da, những đêm thao thức dù không có tiếng bom gào đạn xé… Đó là sự thực nhiều người lính phải trải qua khi trở về quê hương sau chiến tranh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 11 Nếu ai đó từng cho rằng, người ra trận được sống trở về là một niềm may mắn và hạnh phúc thì người lính trong Đêm làng Trọng Nhân lại chưa hẳn đã là như vậy. Bao nhiêu năm ở chiến trường, Tường sống trong nỗi khát khao, chờ đợi ngày trở về, hình ảnh cha mẹ và người vợ lúc nào cũng đau đáu, khắc khoải trong tim. Tuy may mắn sống sót trở về nhưng khuôn mặt anh đã bị bom đạn làm cho nhàu nát, biến dạng tới mức “nham nhở, gồ ghề, méo mó, mất cảm giác. Một khuôn mặt biến dạng đến nỗi Tường cũng không nhận ra nổi mình nữa” [26, tr.149]. Chính đây là nguyên nhân gây ra bi kịch cho anh khi trở về quê hương: có nhà mà không dám về, có bố mẹ mà không dám nhận, có vợ mà không dám đến gần. Niềm hạnh phúc gia đình nằm ngay trong tầm tay với nhưng Tường lại không thể nắm bắt. Anh nghẹn lòng kìm giữ để không cất lên tiếng gọi: “Cha ơi!”. Chứng kiến nỗi nhớ thương con của cha mẹ già, tâm trạng cô đơn của người vợ trẻ mà lòng anh đau như cắt. Càng thương vợ, Tường càng không dám để lộ ra thân phận thật của mình. Nếu nhìn thấy gương mặt dị dạng của anh, Thương sẽ ra sao? Hoàn cảnh của Tường cũng giống như Tuấn trong “Không phải trò đùa” của Khuất Quang Thụy, hoặc Bức trong “Bóng đêm và mặt trời” của Dương Hướng. Người thì bị sự tàn phá của bom Napan gây lên những vết thương ở ngực, người thì bị cụt cả đôi chân. Chính những vết thương chiến tranh ấy đã khiến người lính dũng cảm nơi trận mạc không tránh khỏi mặc cảm về thân phận của mình. Họ không dám nhận sự quan tâm, chăm sóc của người thân, sống thu mình vào thế giới riêng. Một lần nữa, những người lính lại chấp nhận sự thiệt thòi, hy sinh hạnh phúc của riêng mình. Sự hy sinh thật cao thượng, cảm động mà xót xa, đau đớn. Dưới ngòi bút của Sương Nguyệt Minh, hậu quả chiến tranh thật dai dẳng. Kể cả khi chiến tranh đã kết thúc thì nanh vuốt của nó vẫn không chịu buông tha con người, tiếp tục đẩy họ tới những bi kịch khác, đau đớn hơn. Người lính ra trận hy sinh đã là một thiệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 12 thòi nhưng ai bảo người trở về từ cuộc chiến ấy là hoàn toàn hạnh phúc sau khi đọc truyện ngắn Đêm làng Trọng Nhân? Chiến tranh không chỉ đẩy con người vào bi kịch mà còn là dấu chấm hết cho bao tình yêu, ước mơ, hoài bão cao đẹp. Đối với Kiên trong truyện ngắn Tiếng bìm bịp đêm nước nổi, kỷ niệm về một người con gái mà anh yêu nhưng bị chiến tranh cướp mất đã trở thành một vết thương nhức nhối không thể nguôi ngoai. Tình yêu đầu đời của người con trai mới lớn như Kiên với một nữ du kích không ngờ lại sâu nặng đến thế. Chiến tranh kết thúc, Ngàn đã hi sinh, vậy mà Kiên vẫn hy vọng và chờ đợi. Thực ra, anh cũng đã trải qua hai mối tình khác nhưng “thân vẫn một thân”. Người đầu tiên chê Kiên, bảo anh: “không hiểu tâm lý phụ nữ, không biết chiều con gái”, rằng anh “sống khô khan, thanh niên mà cứ như ông cụ non…” [29, tr.176]. Còn người thứ hai đến khi gần đi lấy chồng mới nói thật với Kiên: “Anh muốn lấy được vợ thì tốt nhứt là hãy cất tấm hình người con gái đội mũ tai bèo bỏ trong ví lúc nào cũng mang theo bên người của anh đi” [29, tr.176]. Những lời tâm sự ấy cho thấy một tình yêu sâu sắc đã khắc ghi trong trái tim anh. Chiến tranh cướp mất người con gái anh yêu, để lại trong Kiên một vết thương khó lành với những ký ức không thể nào quên. Qua ngòi bút của Sương Nguyệt Minh, tình yêu chung thủy trong trái tim người lính vẫn tiếp tục tỏa sáng khiến người ta ngưỡng mộ. Song, nỗi cô đơn trong cuộc sống mà nhiều người phải trải qua sau chiến tranh lại khiến người ta xót xa. “Chàng chuẩn úy tóc xoăn” trong truyện ngắn Quãng đời xưa in dấu cũng bị chiến tranh dập tắt mọi ước mơ, hoài bão. Vì chiến tranh mà anh phải tạm gác ước mơ ở trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội để ra mặt trận. Anh ra đi với ước mơ cháy bỏng: “Hết chiến tranh, anh sẽ về Hà Nội học nốt Đại học mỹ thuật” [30, tr.103]. Đối với người họa sĩ tương lai đó, cái chết không đáng sợ bằng việc mất đi cánh tay phải. Mất đi cánh tay phải, anh không chỉ thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 13 một người tàn tật mà còn mất đi hoài bão, sự nghiệp và tương lai: “Anh chỉ sợ mất bàn tay phải thôi. Mất bàn tay phải là không vẽ được” [30, tr.101]. Chiến tranh thật tàn ác, điều anh lo nhất đã xảy ra. Anh bị pháo địch bắn, bị thương vào sống lưng và cụt tay phải đến khuỷu. Chiến tranh đã biến người lính trẻ thành kẻ tàn tật và cướp luôn ước mơ trở thành họa sĩ của anh. Nhưng quá khứ không thể chìm vào dĩ vãng. Người lính ấy đã đi tìm mua lại bức tranh Biên giới lúc hoàng hôn để lưu giữ kỉ niệm đẹp đẽ của một thời trai trẻ đã qua, để không bao giờ mất đi quá khứ đáng tự hào. Có thể nói, trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào thì phụ nữ cũng là người chịu nhiều đau đớn và mất mát nhất. Chiến tranh không chỉ tước đoạt của họ tình yêu, niềm hạnh phúc được làm mẹ mà ngay cả khi chiến tranh kết thúc thì nó vẫn tiếp tục gây ra bất hạnh khôn lường. Sương Nguyệt Minh đã không nguôi trăn trở, xót xa cho những người phụ nữ phải chịu đựng hậu quả của chiến tranh. Ông gửi gắm tình cảm của mình trên trang viết với sự sẻ chia và cảm thông sâu sắc, tiêu biểu như truyện ngắn Ngày xưa, nơi đây là cửa rừng. Truyện phản ánh nỗi bất hạnh của một người phụ nữ sau chiến tranh. Trước đây, Miên – nhân vật chính của truyện - có một tình yêu rất đẹp với Sinh là người lính trẻ đã cứu cô khỏi bị nước cuốn. Nhưng chiến tranh lại cướp Sinh khỏi cuộc đời Miên. Sinh đã hy sinh nhưng những kỷ niệm tình yêu với anh lúc nào cũng sống mãi trong trái tim Miên. Vì vậy mà sau này, khi đã lấy chống, Miên không thể có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Chồng Miên biết vợ vẫn chưa quên được người yêu cũ, anh tôn trọng tình yêu của vợ, không ghen với người đã mất mà chỉ xin Miên một điều: “đừng để thân xác em ở bên chồng còn tâm hồn em dành cho người yêu cũ” [30, tr.57]. Miên đã không làm được điều đó. Chiến tranh đã để lại một vết thương quá lớn trong lòng Miên, nó không chỉ cướp đi người cô yêu mà giờ đây còn gây ra nỗi bất hạnh cho gia đình cô. Gia đình Miên đang đứng trên bờ vực của sự tan vỡ chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 14 vì Miên “ngoại tình với người đã chết”. Có lúc Miên tự hỏi lòng mình: “nếu tôi không yêu Sinh, tôi không hiến dâng hết mình đời con gái cho Sinh thì tôi có yên ổn khi sống với chồng không?” [30, tr.58]. Câu trả lời có thể là không và cũng có thể là có. Bởi Miên đã có một tình yêu đầu đời rất đẹp với Sinh, không có gì phải hối hận, chỉ có điều mối tình đó sâu đậm quá để lại cho cô bao buồn đau, day dứt. Miên không có lỗi, chồng Miên không có lỗi; Sinh càng không có lỗi. Bởi vì, lỗi tại chiến tranh! Dì Mây (Người ở bến sông Châu) đã để lại một bàn chân, một phần tuổi trẻ và nhan sắc ở chiến trường. Niềm hạnh phúc duy nhất để chị cố sống trở về là tình yêu với San. Nhưng thật trớ trêu, ngày chị về cũng là ngày người yêu đi lấy vợ. Đám cưới của San đã dập tắt mọi niềm vui, khát vọng của Mây và để lại cho Mây sự bẽ bàng, cô đơn. Mây đau đớn “nhắm mắt lại trốn tránh ánh đèn măng sông đám cưới. Đó là thứ ánh sáng hạnh phúc của người tình xưa chiếu vào tận sâu thẳm lòng dì. Nó như muôn vàn mũi kim nhọn châm, chích vào trái tim dì đang rỉ máu…” [27, tr.30]. Mây xót xa nhìn cái chân cụt đến đầu gối và tấm thân còm nhom, xanh lướt của mình. Mặc dù đau đớn là vậy nhưng khi San muốn từ bỏ tất cả để quay lại thì chị lại từ chối. Mây đã có những năm tháng sống hết mình nơi chiến trường, dám hy sinh tính mạng để đồng đội được sống, nay hòa bình trở về, lại một lần nữa hy sinh tình yêu của mình cho người đàn bà khác khỏi đau khổ: “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ (…) Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn” [27, tr.33]. Đó là sự hy sinh cao cả chỉ có ở tấm lòng bao dung và nhân hậu. Bảo Ninh trong “Nỗi buồn chiến tranh” đã chiêm nghiệm: “Chiến tranh là bài ca kinh hoàng, là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại…, là thế giới bạt sầu, thế giới vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của thế giới con người…”. “Chiến tranh có thể làm người ta điên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 15 lên hoặc chết rũ ra vì khiếp sợ”. Sương Nguyệt Minh cũng đã nhìn thấy mặt hiện thực tối tăm của chiến tranh. Chiến tranh đã lùi xa hơn 30 năm mà hậu quả của nó vẫn còn dai dẳng, gieo rắc bao nhiêu bất hạnh cho con người. Chất độc dioxin đến nay vẫn là nỗi kinh hoàng đối với người Việt Nam. Có bao nhiêu đứa trẻ sinh ra không được làm người? Có bao gia đình bất hạnh vì sinh ra những đứa con dị dạng? Và có bao nhiêu khát khao được làm bố, làm mẹ bị dập tắt? Truyện ngắn Mười ba bến nước đã đề cập đến nỗi bất hạnh đó của con người một cách đau đớn, ám ảnh. Sao trong Mười ba bến nước có được tình yêu, hạnh phúc với chồng nhưng lại bất hạnh vì không bao giờ được hưởng niềm hạnh phúc làm mẹ. Chồng chị đi chiến trường may mắn trở về, nhưng chiến tranh đã cướp đi quyền thiêng liêng nhất vợ chồng Sao. Chồng chị đã bị nhiễm chất độc màu da cam. Vì vậy mà mấy lần chị sinh nở đều sinh ra những bọc thịt như trứng con Thuồng Luồng: “Cục thịt đỏ hỏn chỉ có cái miệng tròn tối om, há ra ngậm vào như cá mắc cạn ngáp lúc sắp chết” [29, tr.147]. Đây không phải là nỗi bất hạnh của riêng Sao mà là nỗi bất hạnh chung của những người phụ nữ có chồng ra trận bị nhiễm chất độc màu da cam. Vì vậy, có một thời người ta thấy trên mặt sông dầy đặc những bè chuối chở những liễn sành màu da lươn đựng những hài nhi dị dạng. Qua mấy lần sinh nở không thành, Sao đã phải làm cái việc mà từ xưa ở làng chưa ai làm là “lấy vợ mới cho chồng”. Chị hy vọng người vợ mới sẽ sinh được những đứa con lành lặn cho gia đình nhà chồng. Cũng giống như Mây, Sao đã chấp nhận hy sinh hạnh phúc của riêng mình để mang lại niềm hạnh phúc cho người khác. Nhưng việc chị làm không mang lại kết quả như mong muốn. Người vợ mới cũng sinh ra những cục thịt, vì quá sợ hãi và không chịu đựng nổi đã bỏ đi. Còn Sao lại quay lại “bến nước thứ mười ba” để chăm sóc những người thân quá nhiều nỗi bất hạnh của chị Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 16 Chiến tranh gây nên những mất mát, đau thương trên thân thể và trong tâm hồn con người, nhưng trước hết và hơn hết “nó đã làm ức chế, tước đoạt những nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng con người”. Cho nên, trong mảng đề tài về chiến tranh, Sương Nguyệt Minh còn đề cập đến những khát vọng tưởng rất đỗi bình thường của người phụ nữ. Đó là nhu cầu được gần gũi về mặt thể xác. Nếu văn học trước 1975 có ý né tránh đến vấn đề tế nhị, nhạy cảm này, thì giờ được Sương Nguyệt Minh mạnh dạn đề cập đến với một tinh thần nhân bản, nhân văn sâu sắc. Thương trong Đêm làng Trọng Nhân vì nỗi nhớ chồng cùng với nỗi khát khao bản năng mà có lúc cô rơi vào trạng thái vô thức với những cơn mộng mị ân ái: “Thương tự nhiên mơ màng thấy Tường bay trong không trung. Chị đứng dưới gốc đa. Chị gọi tên anh. Anh hạ xuống, ngắt một cái lá đa đặt trên đầu chị. Anh bảo đó là mũ cô dâu. Thương bước vào phòng cưới lại thấy anh giáo Mười đi bên cạnh mặc áo chú rể. Đêm tân hôn. Chị lại thấy Tường bế mình lên giường. Anh hôn lên tóc Thương. Rồi chị thấy mình ân ái với chồng” [26, tr.145-146]. Có khi nhớ chồng quá, Thương phải đi tắm để làm dịu ngọn lửa lòng: “Thương múc từng gàu nước đổ rào rào. Dường như cơ thể Thương đang nóng bừng lên và nước lạnh dội ào ạt vẫn không dập tắt được ngọn lửa trong lòng Thương” [26, tr.146]. Sao trong Mười ba bến nước khi phải xa chồng thì nhận ra một điều: “Người vợ xa chồng có trăm ngàn cơ cực, chẳng nỗi khổ nào giống nỗi khổ nào. Có những đêm dài ghê gớm, tôi lục sục không ngủ. Nằm một mình ôm gối, nhớ chồng, trằn trọc chờ sáng. Tôi lôi cái áo cũ bạc màu của chồng ra ấp vào mặt, nỗi nhớ càng nôn nao, da diết hơn. Khốn khổ nhất là mấy ngày áp kỳ kiêng kỵ sử dụng xô màn của đàn bà. Hai bầu vú tôi cứng nhưng nhức. Nhũ hoa sân lại. Má đỏ hồng tươi tắn. Mắt long lanh… Lúc nào cũng chỉ mong chồng về” [29, tr.152]. Những lúc như vậy, chị thường dậy đổ lúa vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0