intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:129

63
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm khảo sát và rút ra nhận xét về việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Qua đó góp phần khẳng định sức sống của những câu thành ngữ, tục ngữ, và sự đóng góp to lớn của Nam Cao làm cho những câu tục ngữ ấy sống mãi; nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hƣớng của đề tài nhằm lưu giữ, bảo tồn thành ngữ, tục ngữ trong thời đại ngày nay; đặc biệt là tục ngữ với vai trò là chất liệu của văn học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao

  1. i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG MAI HIẾU THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN NAM CAO CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGÔ THỊ THANH QUÝ Thái Nguyên – 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Tác giả: Lƣơng Mai Hiếu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................................................................................................3 3. Mục đích nghiên cứu..............................................................................................................................................................7 4. Đối tƣợng nghiên cứu ...........................................................................................................................................................8 5. Tƣ liệu nghiên cứu.....................................................................................................................................................................8 6. Phƣơng pháp nghiên cứu ..................................................................................................................................................8 7. Đóng góp của luận văn........................................................................................................................................................9 8. Bố cục của luận văn .............................................................................................................................................................10 NỘI DUNG .....................................................................................................................................................................................................11 CHƢƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VÀ VĂN CHƢƠNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG....................................................................11 1.1. Nhận diện thành ngữ, tục ngữ .........................................................................................................................11 1.1.1. Khái niệm tục ngữ ..............................................................................................................................................11 1.1.2. Phân biệt thành ngữ, tục ngữ ...............................................................................................................12 1.1.3. Nội dung và hình thức của tục ngữ ............................................................................................15 1.2. Những nhân tố cơ bản tác động tới ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của Nam Cao .........................................................................................................................................................................................24 1.2.1. Sơ lƣợc về tiểu sử ................................................................................................................................................24 1.2.2. Con ngƣời .......................................................................................................................................................................25 1.2.3. Môi trƣờng sáng tác .........................................................................................................................................27 1.2.4. Quan điểm nghệ thuật và cá tính sáng tạo:......................................................................29 Tiểu kết: ................................................................................................................................................................................................30 CHƢƠNG 2: CÁCH THỨC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG TÁC PHẨM CỦA NAM CAO ......................................................................32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. 2.1. Triết lý về nhân phẩm qua thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác Nam Cao ......32 2.2. Triết lý về nghề văn, nghề giáo qua thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác Nam Cao ......................................................................................................................................................................................................40 2.3. Phƣơng thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao.....45 2.3.1. Vận dụng nguyên dạng thành ngữ, tục ngữ truyền thống ..................................46 2.3.2. Vận dụng thành ngữ, tục ngữ ở dạng cải biến, sáng tạo .......................................54 2.3.3. Vận dụng trùng điệp thành ngữ, tục ngữ ....................................................................................62 Tiểu kết:...........................................................................................................................................................................................................66 CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ CỦA VIỆC VẬN DỤNG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG SÁNG TÁC CỦA NAM CAO ...............................................................................................................68 3.1. Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong phản ánh nội dung sáng tác ..........................................................................................................................................................................................................68 3.2. Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong ngôn từ, diễn đạt của tác phẩm...........................................................................................................................................................................................73 3.3. Giá trị biểu cảm của tác phẩm nhờ việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ 75 Tiểu kết: ................................................................................................................................................................................................78 KẾT LUẬN .....................................................................................................................................................................................................80 TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................................................................................82 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Trong sáng tác dân gian của mỗi dân tộc, thành ngữ, tục ngữ là loại hình có mối quan hệ hữu cơ hơn cả với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Thành ngữ, tục ngữ ra đời từ bao giờ không ai xác định đƣợc, không ai biết có từ thời kì nào trong lịch sử loài ngƣời, mà chỉ biết nó là “túi trí khôn” chứa đựng những tri thức dân gian về mọi mặt của đời sống. Mỗi ngƣời dân Việt Nam khi ý thức xây dựng, bồi đắp cho mình vốn ngôn ngữ giàu có của tiếng mẹ đẻ thƣờng khi nói, khi viết thích dùng những ý, những mẫu có sẵn. Những mẫu, những ý ấy đƣợc thế hệ trƣớc tạo ra, những thế hệ sau sử dụng nhƣ một thói quen và nó trở thành thành ngữ. Trong kho tàng ngôn ngữ dân tộc, thành ngữ không phải là một cách phát biểu duy nhất đúng, cũng không phải là cách nói bắt buộc, mà là cách nói thƣờng đƣợc chọn lựa. Trong khi sử dụng, chúng ta dùng thành ngữ là muốn lời phát ngôn có chỗ dựa, mong ngƣời nghe hiểu tắt theo lối ƣớc lệ. Tục ngữ lại là những kho kinh nghiệm của nhân dân về các hiện tƣợng tự nhiên, các quan hệ ứng xử xã hội. Đó là nơi bộc lộ khá tập trung lối sống, những đặc điểm của tƣ duy, cách cảm, lối nghĩ và lối nói của dân tộc. Tục ngữ phản ánh các hiện tƣợng tự nhiên, xã hội, những kinh nghiệm sản xuất, các mối quan hệ xã hội bằng hình thức nghệ thuật đặc thù. Hàng ngày, khi nghe đƣợc một câu nói hay, có ý nghĩa nhờ vận dụng thành ngữ, tục ngữ một cách có hiệu quả thì chính ta cảm thấy tâm đắc và nhƣ khám phá ra một điều gì mới lạ. Điều này khiến cho thành ngữ, tục ngữ từ lâu đã trở nên quen thuộc, có sức sống lâu bền và khẳng định đƣợc vị thế của mình trong đời sống tinh thần của nhân dân.
  6. 1.2. Trong thƣởng thức văn chƣơng, mỗi khi đọc đƣợc một câu văn, câu thơ hay, giàu hình ảnh, vận dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt thành ngữ, tục ngữ của dân tộc, ta cảm thấy nó có sức biểu cảm cao, cuốn hút ngƣời đọc và dễ đi vào lòng ngƣời hơn. Thực tế, những nhà văn, nhà thơ lớn từ xƣa đến nay đều là những ngƣời sử dụng vốn thành ngữ, tục ngữ một cách có hiệu quả trong sáng tác của mình. Cùng với đó, vấn đề nghiên cứu về cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong văn chƣơng từ trƣớc đến nay đƣợc rất nhiều ngƣời quan tâm, chú ý. Điều này cho thấy mảnh đất thành ngữ, tục ngữ đã đƣợc khai phá từ rất lâu, nhƣng cho tới nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều điều kỳ diệu. Văn học dân gian hay văn học viết luôn phản ánh đời sống. Nhờ văn học mà bức tranh hiện thực nƣớc ta của từng thời kì lịch sử đã hiện ra một cách chân thực, đầy đủ. Những nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 đã có công rất lớn trong việc tái hiện một xã hội mà trong đó đầy rẫy những bất công tàn bạo, vô nhân tính. Bên cạnh Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan..., Nam Cao là ngƣời góp phần đƣa trào lƣu văn học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỉ XX phát triển đến đỉnh cao với những tác phẩm xuất sắc. Sáng tác của Nam Cao đã vƣợt qua đƣợc những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách càng ngời sáng. Lớp bụi thời gian càng phủ dày theo tháng năm thì những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ những tƣ tƣởng nhân văn cao cả, ý nghĩa hiện thực sâu sắc, và vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật điêu luyện, đặc sắc. Đi sâu tìm hiểu từng câu chữ, từng từ ngữ trong các sáng tác của Nam Cao, điều dễ nhận thấy tác giả đã vận dụng nhiều câu thành ngữ, tục ngữ. Dấu ấn ấy đậm in trên từng trang viết của nhà văn. Trong đó, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới việc vận dụng tục ngữ của Nam Cao, có lẽ, bởi tục ngữ mang hình thức ngắn gọn, súc tích, cô đọng, đầy đủ nội dung ý nghĩa cần diễn đạt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. nên nhà văn đã sử dụng nó nhƣ một chất liệu dân gian trong rất nhiều tác phẩm của mình. 1.3. Xét thấy sự vận dụng phong phú của thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm của Nam Cao là một vấn đề rất thú vị và mang nhiều ý nghĩa nhƣng lại chƣa đƣợc chú ý đúng mức, ngƣời viết mạnh dạn chọn đề tài “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao” để nghiên cứu, đi sâu phân tích, lý giải một cách hệ thống về vấn đề này. Hi vọng việc nghiên cứu sẽ giúp tác giả luận văn thêm một lần nữa đƣợc thấy cái hay, cái đẹp của thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, cái sắc sảo mà bình dị của văn chƣơng Nam Cao và mối quan hệ mật thiết giữa thành ngữ, tục ngữ - văn chƣơng trong tiến trình phát triển của Văn học hiện đại Việt Nam. 2. Lịch sử vấn đề Thành ngữ, tục ngữ là những câu nói đúc rút kinh nghiệm của nhân dân trong mọi lĩnh vực của cuộc sống vật chất và tinh thần. Nó chứa đựng quan niệm của ngƣời bình dân về thế giới tự nhiên và xã hội. Thông qua ngôn từ đƣợc chọn lọc gọt rũa, thành ngữ, tục ngữ phản ánh tri thức nhiều mặt của đời sống xã hội. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, thành ngữ, tục ngữ vẫn khẳng định đƣợc giá trị của mình và có sự vận động rất linh hoạt. Nó là một trong những thể loại phản ánh tri thức dân gian thông qua tƣ duy của ngƣời Việt hữu hiệu nhất. Thành ngữ, tục ngữ là lời hay ý đẹp của nhân dân trƣờng tồn với thời gian. Nó đƣợc hiện diện trong chuỗi lời nói và trong văn bản. Tuy nhiên, trong thời đại ngày nay, hình thức tồn tại trong chuỗi lời nói của tục ngữ bị thu hẹp dần, và việc sử dụng cũng dựa theo hoàn cảnh, môi trƣờng nhất định. Cụ thể, tri thức thành ngữ, tục ngữ về văn hóa nông nghiệp chỉ còn đƣợc vận dụng ở môi trƣờng nông thôn, giữa những ngƣời nông dân với nhau. Tuy nhiên, hình thức tồn tại bằng văn bản của thành ngữ, tục ngữ lại đƣợc phát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. triển rộng rãi, nhƣ: thành ngữ, tục ngữ với báo chí; thành ngữ, tục ngữ với văn chƣơng; và thành ngữ, tục ngữ xuất hiện khá phổ biến trên trò chơi truyền hình trong những chƣơng trình gần đây. Lâu nay, nghiên cứu về thành ngữ, tục ngữ luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, và đã thu đƣợc nhiều kết quả đáng ghi nhận. Song, tìm hiểu sự vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn chƣơng vẫn là những khía cạnh mới rất đáng đƣợc khám phá. Việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm văn chƣơng góp phần tạo nên những sắc màu mới trong bức tranh đa sắc, đa diện của nền văn học Việt Nam hiện đại. Đó cũng là cách để các nhà văn giữ gìn, bảo tồn tinh hoa tục ngữ một cách hữu hiệu nhất. Mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ với văn chƣơng, báo chí đã đƣợc nhiều tác giả đề cập đến, và chủ yếu là các chuyên khảo, bài viết trên báo: Trên “Tạp chí Văn học” thời điểm cuối những năm 60 của thế kỷ XX có một diễn đàn bàn về Văn học dân gian hiện đại của các nhà nghiên cứu Văn học dân gian: Đinh Gia Khánh, Vũ Ngọc Phan, Trần Gia Linh… Trong diễn đàn đã có ý kiến lập luận về tục ngữ: “Tục ngữ chỉ là một trong những thể loại chứng minh sức sống của Văn học dân gian trong thời đại mới”[32; tr. 34]. Lời nhận định này đã cho thấy sức sống trƣờng tồn của văn học dân gian hiện đại nói chung và của thể loại tục ngữ nói riêng. Một trong những khía cạnh nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ đó chính là nghiên cứu nghệ thuật sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của các nhà văn, nhà thơ - các tác giả lớn. Từ văn học Trung đại, Nguyễn Du đã ý thức vận dụng nguồn tài nguyên dân gian phong phú này trong kiệt tác Truyện Kiều, để làm nên một hồn thơ đậm chất dân gian, gần gũi với đời thƣờng. Về nghệ thuật sử dụng thành ngữ, tục ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1960, tác giả Lê Anh Trà đã có bài Cách viết của Hồ Chủ Tịch [50]. Trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. bài viết, tác giả đã có nhận định về việc vận dụng sáng tạo ngôn ngữ của Ngƣời trong hành văn. Nhờ cách vận dụng sáng tạo này mà nhiều câu nói của Hồ Chủ Tịch đã in vào trí nhớ của nhân dân nhƣ những câu tục ngữ, và thực sự, nó đã trở thành tục ngữ trong thời hiện đại của dân tộc, nhƣ: - Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công - Nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần... Trong các bài viết Ngôn ngữ của Hồ Chủ Tịch qua những lời kêu gọi [5], Bác Hồ với nguồn tục ngữ của dân tộc [6], Tìm hiểu cách dùng tục ngữ trong những bài viết và bài nói của Hồ Chủ Tịch [18], các tác giả đều nghiên cứu và đƣa ra nhận xét: Hồ Chủ Tịch vận dụng tục ngữ trong hành văn của mình rất linh hoạt và hiệu quả. Ngay cả trong văn chính luận – thể loại có thể xem là khô khan, mực thƣớc, mà Ngƣời vẫn khéo léo vận dụng thành ngữ, tục ngữ để chuyển tải tƣ tƣởng, nội dung chính trị, làm cho sự việc thành dễ hiểu, dễ tiếp thu, và trở nên sâu sắc hơn. Chẳng hạn, nói về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bác viết: - Xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng như làm ruộng. Trước phải khó nhọc cày bừa, chân bùn tay lấm, làm cho lúa tốt thì mới có gạo ăn. Tác giả Cù Đình Tú, trong bài viết Hồ Chủ Tịch dùng thành ngữ, tục ngữ [52] đã nhận định: trong cách viết, cách nói, Hồ Chủ Tịch vừa dùng nguyên vẹn các thành ngữ, tục ngữ vốn có của dân gian nhƣ: yêu nước thương nòi, gan vàng dạ sắt, một lòng một dạ..., Ngƣời thƣờng sáng tạo đƣa vào một số yếu tố để nhấn mạnh vào một phƣơng diện nào đó của sự vật, của tình thế, của quan hệ. Hồ Chủ Tịch đã có những cách “sửa” thành ngữ, tục ngữ, “lẩy” thành ngữ, tục ngữ rất tài tình: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. Sản xuất mà không tiết kiệm khác nào nhƣ gió vào nhà trống. Việc nghiên cứu cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nguyễn Trãi (Bùi Văn Nguyên - 1980) [38], Phan Châu Trinh (Trần Hải Yến - 1998) [56], Hồ Xuân Hƣơng (Trƣơng Xuân Tiếu - 1999) [47]... cũng đƣợc các nhà nghiên cứu quan tâm. Qua đó, các tác giả bài viết khẳng định, việc vận dụng nhuần nhuyễn thành ngữ, tục ngữ của các nhà văn, nhà thơ đều nhằm mục đích để lời văn, câu thơ thêm biểu cảm, giàu hình tƣợng, cảm xúc; kế thừa, phát triển và lƣu giữ bản sắc dân tộc. Thành ngữ, tục ngữ là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều ngƣời quan tâm. Thành quả của nó đã và đang đƣợc công nhận một cách xác đáng. Trong thực tiễn, thành ngữ, tục ngữ đƣợc vận dụng trên báo chí, truyền hình, và đã đƣợc tác giả Trần Thị Trâm nhắc đến trong chuyên luận của mình [51; tr.353 – 364]. Để tạo hiệu quả thẩm mỹ, chuyển tải thông tin: nhanh nhất, sâu sắc nhất, giàu giá trị biểu cảm, ngắn gọn, dễ nhớ để khảm vào trí nhớ bạn đọc, bất kì nhà báo nào cũng luôn có ý thức sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong quá trình sáng tạo tác phẩm. Nhờ những ƣu thế đó của thành ngữ, tục ngữ đã đáp ứng đƣợc yêu cầu của báo chí hiện đại, vì thế, thành ngữ, tục ngữ cũng chứng tỏ đƣợc sức sống vƣợt thời gian. Chuyên khảo Thành ngữ, tục ngữ trong truyện đồng thoại của Tô Hoài (Lê Nhật Ký – 2011) [25], đã quan tâm tới vai trò của thành ngữ, tục ngữ qua việc hình thành tứ truyện; miêu tả, nhận xét về nhân vật. Việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ khiến cho truyện đồng thoại trở nên gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nó tạo nên sự đồng cảm của của độc giả đối với nhà văn Tô Hoài khi tìm thấy bóng dáng kinh nghiệm, tri thức của mình đƣợc vận dụng trong tác phẩm. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. Dƣơng Thị Thúy Hằng, Nguyễn Văn Nở đã có công trình chuyên khảo Tìm hiểu cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong tác phẩm của Sơn Nam (2012) khá ấn tƣợng. Trong công trình này, các tác giả đã khảo sát đƣợc một lƣợng thành ngữ, tục ngữ đồ sộ, có sự phân loại chi tiết, cụ thể. Và có thể coi đây là một chuyên khảo có giá trị nhất định khi tìm hiều cách vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong văn xuôi hiện đại. Với chuyên khảo Thành ngữ, tục ngữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang Sáng (2012), tác giả Lâm Thị Thiên Lan quan tâm tới việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ phù hợp với ngữ cảnh, đối tƣợng; phát huy tối đa tính biểu cảm, tính hình tƣợng của thành ngữ; gắn bó với kho tàng đạo lý và kinh nghiệm ứng xử dân gian Việt Nam. Tác giả cũng đã quan tâm tới các phƣơng thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ đã đƣợc dùng nhƣ công cụ đắc dụng, để tìm hiểu sắc thái độc đáo cho ngôn ngữ văn chƣơng trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng. Nhƣ vậy, việc sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác văn chƣơng, báo chí hiện đại đã đƣợc quan tâm, song chƣa đƣợc đề cập đến một cách đầy đủ, cụ thể và toàn diện ở mọi khía cạnh nội dung của nó. Việc nghiên cứu cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao cũng là một đề tài hấp dẫn, hứa hẹn những điều mới mẻ. Vì vậy, với những thông tin có tính chất gợi mở ở thành quả của những công trình nêu trên, hi vọng đề tài này mang đến một cái nhìn cụ thể về “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao”. 3. Mục đích nghiên cứu Qua nghiên cứu đề tài “Thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao ”, chúng tôi hƣớng tới mục đích: - Khảo sát và rút ra nhận xét về việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Qua đó góp phần khẳng định sức sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. của những câu thành ngữ, tục ngữ, và sự đóng góp to lớn của Nam Cao làm cho những câu tục ngữ ấy sống mãi. - Nghiên cứu thành ngữ, tục ngữ theo hƣớng của đề tài nhằm lƣu giữ, bảo tồn thành ngữ, tục ngữ trong thời đại ngày nay; đặc biệt là tục ngữ với vai trò là chất liệu của văn học. 4. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những câu thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm văn xuôi của Nam Cao. 5. Tƣ liệu nghiên cứu Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận văn sử dụng nguồn tƣ liệu là bộ sách: “Nam Cao toàn tập”. Đây là bộ sách đã thống kê đƣợc khá đầy đủ các tác phẩm của Nam Cao. Tập I và II gồm những truyện ngắn Nam Cao viết trƣớc Cách mạng tháng Tám và truyện dài “Người hàng xóm”. Tập III gồm những truyện viết sau cách mạng cùng tiểu thuyết “Sống mòn”. Tuy nhiên, thực hiện luận văn này, chúng tôi căn cứ trên tƣ liệu khảo sát chính là cuốn Kho tàng tục ngữ Việt Nam do tác giả Nguyễn Xuân Kính chủ biên, in năm 2002, Nxb Văn hóa thông tin. Công trình này gồm 16.098 câu tục ngữ đƣợc tập hợp từ 52 đầu sách khác nhau. Cuốn sách đã chú giải một số lƣợng lớn những câu tục ngữ và đƣợc giới thiệu theo chủ đề giúp ngƣời đọc có thể tra cứu một cách thuận lợi. Chúng tôi coi đây là cuốn sách công cụ để phân biệt và nhận diện thành ngữ, tục ngữ trong các tác phẩm văn xuôi của Nam Cao. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Dựa trên những nghiên cứu lý thuyết về thành ngữ, tục ngữ và đặc điểm khu biệt giữa chúng để làm cơ sở lý luận cho đề tài và làm cơ sở để luận giải những vấn đề đề tài đề cập tới. - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Để việc phân tích so sánh đánh giá có căn cứ xác thực khi cần thiết, chúng tôi tiến hành khảo sát, thống kê để định lƣợng các câu thành ngữ, tục ngữ trong phạm vi sử dụng. - Phương pháp so sánh đối chiếu: Các phƣơng pháp phân tích so sánh sẽ đƣợc sử dụng để đối chiếu các kiểu vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong luận văn. Ngoài ra, so sánh còn đƣợc sử dụng khi chúng tôi đƣa ra cái nhìn soi chiếu giữa việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ của Nam Cao và các tác giả khác. - Phương pháp phân loại: Chúng tôi tiến hành theo phƣơng pháp phân loại để phân biệt các kiểu vận dụng một cách hệ thống, ngoài ra còn dùng phƣơng pháp này để phân loại bảng kết quả khảo sát thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của nhà văn Nam Cao. 7. Đóng góp của luận văn Đề tài của chúng tôi mong muốn định lƣợng đƣợc cụ thể số lƣợng thành ngữ, tục ngữ đƣợc Nam Cao vận dụng trong sáng tác của mình, để nhằm bổ sung hƣớng khai thác, nghiên cứu về hiệu quả của cách sử dụng này. Qua đó, chúng tôi muốn khẳng định mối quan hệ khăng khít giữa thành ngữ, tục ngữ và văn chƣơng, bởi thành ngữ, tục ngữ đã và đang là chất liệu dân gian dồi dào cho văn học hiện đại. Nghiên cứu, vận dụng thành ngữ, tục ngữ theo hƣớng này cũng là cách bảo tồn tài nguyên thành ngữ, tục ngữ một cách hiệu quả nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 8. Bố cục của luận văn Phần một: Mở đầu Phần hai: Nội dung Chương 1: Mối quan hệ giữa thành ngữ, tục ngữ và văn chƣơng – Một số vấn đề lý luận chung Chương 2: Cách thức vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao Chương 3: Giá trị của việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ trong sáng tác của Nam Cao Phần ba: Kết luận Tài liệu tham khảo Phụ lục Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. NỘI DUNG CHƢƠNG 1 MỐI QUAN HỆ GIỮA THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ VÀ VĂN CHƢƠNG - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Nhận diện thành ngữ, tục ngữ 1.1.1. Khái niệm tục ngữ Cho đến nay, có nhiều khái niệm về tục ngữ dựa trên những tiêu chí khác nhau. Điều này chứng tỏ, tục ngữ là một vấn đề sớm đƣợc các nhà nghiên cứu văn học dân gian quan tâm, nghiên cứu. Theo Từ điển Thuật ngữ Văn học: “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền” [16, tr.377]. GS Lê Chí Quế đã nhận xét tục ngữ trên phƣơng diện phản ánh và tính đặc thù của văn học: “Tục ngữ là những câu ngắn gọn có ý nghĩa hàm súc, do nhân dân lao động sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Nó phản ánh đúc kết mọi mặt tri thức đời sống của nhân dân thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo” [41, tr.239]. Đây quả thực là nhận xét rất hợp lý về tục ngữ. Trong cuốn Tục ngữ ca dao, PGS. PTS Mã Giang Lân cũng có một góc nhìn tƣơng tự. Ông nhận định tục ngữ là: “Lời ăn tiếng nói của nhân dân đã được đúc kết lại dưới những hình thức tinh giản mang nội dung súc tích. Tục ngữ thiên về biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã hội và con người” [28, tr.3]. Tác giả khẳng định: “Tục ngữ cũng biểu hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của cuộc sống. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. Tục ngữ thể hiện một phần quan trọng của tư liệu khoa học dân gian và triết lý dân gian” [28, tr.3]. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, tác giả Hoàng Tiến Tựu định nghĩa về tục ngữ nhƣ sau: “Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian có chức năng chủ yếu là đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích, giàu vần điệu, hình ảnh, dễ nhớ, dễ truyền” [53, tr.129]. Những định nghĩa về tục ngữ càng về sau càng đầy đủ, nêu lên đƣợc tính chất vốn có của thể loại. Điều đó cho thấy, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đã khám phá ra nhiều đặc trƣng mang tính khu biệt, từ đó cho thấy cái nhìn đúng đắn về tục ngữ. Ta có thể hiểu: tục ngữ như là một cuốn sách mà thế hệ đi trước để lại cho ngày hôm nay và mai sau. Trong đó kết đọng những tinh hoa về cách ứng xử, kinh nghiệm đời sống lao động sản xuất của nhân dân. 1.1.2. Phân biệt thành ngữ, tục ngữ Thành ngữ và tục ngữ có quan hệ với nhau rất chặt chẽ, vì vậy trong hoạt động nghiên cứu, sƣu tập trƣớc đây có xu hƣớng gộp chung, không có sự phân biệt giữa chúng. Tuy nhiên, cách đây gần bảy thập kỷ, vấn đề phân biệt thành ngữ và tục ngữ đã đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, nhất là các nhà nghiên cứu văn học dân gian quan tâm trên nhiều tiêu chí, nhiều bình diện khác nhau. Đầu tiên, trong cuốn “Việt Nam văn học sử yếu” (1943), GS Dƣơng Quảng Hàm nhận định: “Một câu tục ngữ tự nó phải có ý nghĩa đầy đủ, hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì. Còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà diễn tả một ý gì hoặc tả một trạng thái gì cho màu mè” [15, tr.15]. Nhƣ vậy, theo ông, thành ngữ chỉ là một phƣơng tiện để diễn đạt ý tƣởng của ngƣời nói chứ không mang đầy đủ ý nghĩa nội dung nhƣ tục ngữ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. Đồng tình với nhận định trên, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng quan niệm: “Tục ngữ là một câu tự nó diễn trọn vẹn một ý, một nhận xét, kinh nghiệm, một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Còn thành ngữ là một phần câu sẵn có, nó là một bộ phận của câu mà nhiều người đã quen dùng, nhưng tự riêng nó không diễn đạt được một ý trọn vẹn” [39, tr.31]. Theo tác giả, trong tục ngữ còn có cả thành ngữ. Hay có thể hiểu nôm na, thành ngữ là hoa, tục ngữ là quả. Trên Tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1972, bài viết: “Về ranh giới giữa thành ngữ và tục ngữ” của tác giả Nguyễn Văn Mệnh đã dựa trên hai tiêu chí nội dung và hình thức để đƣa ra kết luận: “Có thể nói nội dung của thành ngữ mang tính chất hiện tượng, còn nội dung tục ngữ nói chung là mang tính chất quy luật. Về hình thức ngữ pháp, nói chung mỗi thành ngữ chỉ là một cụm từ, chưa phải là một câu hoàn chỉnh. Tục ngữ thì khác hẳn. Mỗi tục ngữ tối thiểu là một câu” [36, tr.13]. Đây đƣợc coi là một trong những nhận định dễ tiếp nhận và có giá trị khu biệt. Xét về chức năng ngữ pháp và nội dung, ý nghĩa, thì dù ngắn, mỗi câu tục ngữ đều diễn tả một ý (một phán đoán) còn thành ngữ, dù dài cũng chỉ diễn đạt một khái niệm tƣơng đƣơng với một từ hoặc một cụm từ. Ví dụ: khái niệm “hiền” có các thành ngữ: hiền như bụt, hiền như đất, hiền như đất nặn... Có thể nói, các ý kiến phân biệt thành ngữ không có sự thống nhất hoàn toàn. Tác giả Dƣơng Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan đề cập đến cách phân biệt thành ngữ và tục ngữ bằng hình thức mà không chú ý nội dung. Ngƣợc lại, tác giả Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Lƣơng Văn Đang, Phƣơng Tri, Hồ Lê lại lấy nội dung làm cơ sở vạch ra ranh giới. Tác giả Đái Xuân Ninh, Cù Đình Tú đi sâu vào sử dụng chức năng làm tiêu chí khu biệt thành ngữ và tục ngữ mà chƣa đề cập đến nét trung gian giữa chúng. Mỗi tác giả đều có phân tích và lý giải riêng mang tính chất gợi mở rất nhiều cho chúng tôi – những ngƣời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. đi sau nghiên cứu tục ngữ. Nhờ đó, chúng tôi có đƣợc cái nhìn tổng hợp để phân biệt thành ngữ và tục ngữ: Thứ nhất, về mặt nghĩa: Tục ngữ là những lời quy châm, những câu khuyên răn về đối nhân xử thế, là những bài học kinh nghiệm về lao động sản xuất, về nhận thức giới tự nhiên và xã hội, về đạo đức thực tiễn của nhân dân bằng những câu súc tích ngắn gọn. Tục ngữ là những phán đoán. Thành ngữ là sự miêu tả những hiện tƣợng tự nhiên và xã hội, là những khái niệm, những đơn vị nghĩa có sẵn, đƣợc cô đúc chặt chẽ. Nghĩa của thành ngữ thƣờng không thể giải thích đƣợc một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó. Nó thể hiện một lối nói mang tính biểu trƣng, thƣờng là từ những từ ngữ cụ thể kết hợp với nhau để mang một nghĩa ẩn dụ mới. Thành ngữ có nghĩa bóng bẩy. Thứ hai, về mặt kết cấu và chức năng ngữ pháp: Thành ngữ là cụm từ, tổ hợp từ cố định đã quen dùng, là mệnh đề nằm trong câu. Kết cấu của thành ngữ nằm ở bậc trên từ và dƣới câu. Vì vậy, mỗi thành ngữ ít nhất phải có ba âm tiết trở lên. Trong tục ngữ có cả thành ngữ. Có khi thành ngữ đƣợc dùng tƣơng đƣơng nhƣ một từ. Thành ngữ có chức năng định danh. Tục ngữ là một câu có ý trọn vẹn và hoàn chỉnh, có chức năng thông báo, và là những phát ngôn nhằm đƣa ra một nhận định, một tổng kết mang tính kinh nghiệm có từ hiện thực. Thành ngữ và tục ngữ có phần giống nhau về hình thức cấu tạo. Chúng đều là những tổ hợp từ cố định, kết hợp với nhau theo một cấu trúc chặt chẽ, có vần điệu hoặc đối ứng (về số lƣợng âm tiết). Nhƣng thành ngữ và tục ngữ hoàn toàn khác nhau về nội dung ngữ nghĩa và chức năng sử dụng nhƣ đã trình bày ở trên. Về cơ bản, thành ngữ là hiện tƣợng ngôn ngữ, là công cụ giao tế chung của cộng đồng dân tộc; thuộc phạm trù ngôn ngữ học. Còn tục ngữ là một Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. hiện tƣợng ý thức xã hội, phản ánh lối sống của thời đại, lối nghĩ của nhân dân, lối nói của dân tộc. Tục ngữ là một thể loại của văn học dân gian. Do đó, điều dễ nhận thấy là ngƣời ta quen gọi thành ngữ tiếng Việt, gọi tục ngữ Việt Nam, chứ không có cách gọi ngƣợc lại. 1.1.3. Nội dung và hình thức của tục ngữ 1.1.3.1. Nội dung của tục ngữ Nhắc đến tục ngữ là nói tới kinh nghiệm. Những kinh nghiệm ấy đƣợc coi nhƣ tri thức của dân gian. Nó là tri thức phi học đƣờng. Những tri thức ấy bao gồm: tri thức ứng xử với tự nhiên và tri thức ứng xử với xã hội. Đây cũng chính là nội dung mà tục ngữ chứa đựng. Quá trình hoạt động lâu dài nhằm thích ứng với môi trƣờng tự nhiên và xã hội đã hình thành nên những tri thức trong tục ngữ. Những tri thức của tục ngữ đƣợc hình thành theo phƣơng thức: quan sát cộng trải nghiệm bằng tri thức. Tri thức dân gian ấy đƣợc lƣu truyền nơi cửa miệng ngƣời đời từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cứ nhƣ vậy, con ngƣời quan sát, chiêm nghiệm và rút ra những đúc kết mang tính kinh nghiệm và trở thành bài học cho bao ngƣời, bao đời. Nội dung đầu tiên của tục ngữ là tri thức ứng xử với tự nhiên. Tức là nói về thiên nhiên, thời tiết và kinh nghiệm lao động (kinh nghiệm trồng trọt và chăn nuôi). Tri thức này phản ánh mối quan hệ của con ngƣời với thế giới tự nhiên. Con ngƣời đã biết quan sát, khám phá tự nhiên để ứng dụng vào lao động sản xuất tạo hiệu quả cao. Biểu hiện đó đƣợc thể hiện trong nội dung của rất nhiều câu tục ngữ nói về thời tiết, kinh nghiệm trong canh tác nông nghiệp. Trong trồng trọt, ngƣời dân lao động đƣa ra "hệ thống kinh nghiệm" từ khâu làm đất đến gieo mạ, chăm sóc và thu hoạch. Trong chăn nuôi, cách nuôi nấng chăm sóc, cách thu hoạch, tất cả đều chi tiết rõ ràng. Tục ngữ là nguồn tài liệu quý giá, là "kĩ sư" tƣ vấn cho nhà nông trong quá trình sản xuất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. nông nghiệp. Bên cạnh kinh nghiệm trồng trọt, chăn nuôi, còn có những câu tục ngữ nói về tập quán canh tác của ngƣời Việt. Tập quán trồng khoai, trồng đậu, trồng cà, trồng lúa của nền văn minh nông nghiệp lâu đời đã đƣợc tục ngữ phản ánh và trở thành những kinh nghiệm quý báu cho khoa học nông nghiệp sau này. Tục ngữ phản ánh tri thức ứng xử xã hội đƣợc hình thành trong quá trình sinh sống, giao tiếp và ứng xử giữa con ngƣời với nhau; nhân dân đã đúc kết rất nhiều câu tục ngữ nói về kinh nghiệm ứng xử trong gia đình và ngoài xã hội. Trong gia đình có thể kể đến các mối quan hệ ứng xử giữa: cha mẹ - con cái; vợ - chồng; anh chị em ruột... Tục ngữ không chỉ đƣa ra những hiện tƣợng mà còn đƣa ra những kinh nghiệm ứng xử khéo léo, tinh tế để tạo mối hòa hảo tốt đẹp giữa các đối tƣợng trong mối quan hệ này. Cũng nhƣ vậy, hàng loạt các câu tục ngữ xuất hiện đề cập tới mối quan hệ ứng xử giữa hàng xóm láng giềng với nhau; bạn bè đồng nghiệp; tập thể - cá nhân...; giữa ngƣời làm ơn - kẻ chịu ơn; ngƣời nói - ngƣời nghe; và đề cập tới các kinh nghiệm trong giao tiếp, thái độ khen - chê... Tục ngữ còn ghi nhận các hiện tƣợng lịch sử xã hội, phản ánh truyền thống tƣ tƣởng và đạo đức của nhân dân lao động. Tục ngữ ghi nhận các hiện tƣợng lịch sử xã hội ghi lại một vài kí ức về thời kỳ lịch sử xa xƣa của dân tộc: “Ăn lông ở lỗ”, “Chồng chung vợ chạ”, “Con dại cái mang”...; ghi lại một số hiện tƣợng và nhân vật lịch sử cá biệt, một số biến đổi về kinh tế, chính trị ảnh hƣởng đến đời sống của nhân dân: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”, “Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong”... Đại bộ phận các câu tục ngữ ghi nhận các hiện tƣợng lịch sử xã hội ở thời kỳ phong kiến. Đó là những tập tục sinh hoạt hàng ngày về mọi mặt nhƣ ăn, ở, mặc, cƣới xin, ma chay, hội hè đình đám: “Tương cà Gia Bản”, “Dưa La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét”, “Đói cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0