Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI
lượt xem 2
download
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI một cách có hệ thống. Kết quả của luận văn sẽ góp phần khẳng định thành tựu và giá trị của thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Đồng thời nó cũng là nguồn tư liệu hữu ích phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu văn học địa phương và văn học miền núi.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI
- i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ĐỖ THU HÀ THƠ THÁI NGUYÊN THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HỒNG MY Thái Nguyên - Năm 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- ii LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Ban Chủ nhiệm, quý Thầy, Cô giáo khoa Ngữ văn- trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và quý Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập. Tác giả xin chân thành cảm ơn: Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên và cá nhân các ông, bà, Ma Trường Nguyên, Hồ Thủy Giang, Ths.Nguyễn Thúy Quỳnh, Ts.Võ Sa Hà, Ts.Nguyễn Đức Hạnh... đã tạo mọi điều kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn T.s Lê Hồng My, cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K17 chuyên ngành Ngữ văn trường ĐHSP Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện luận văn. Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này. Tác giả Đỗ Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- iii LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố trong một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 09 năm 2011 Tác giả Đ Đỗ Thu Hà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- iv MỤC LỤC Trang bìa phụ ..................................................................................................... i Lời cảm ơn ........................................................................................................ ii Lời cam đoan .................................................................................................... iii Mục lục ............................................................................................................. iv A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1 B. NỘI DUNG ................................................................................................ 10 Chƣơng 1. THÁI NGUYÊN - MẢNH ĐẤT GIÀU TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HOÁ VÀ THƠ CA ............................................................ 10 1.1. Thái Nguyên – mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và thơ ca .. 10 1.1.1. Thái Nguyên - “Căn cứ địa cách mạng”, “Thủ đô kháng chiến”, “Thủ đô gió ngàn” .................................................................................. 10 1.1.2. Thái Nguyên - mảnh đất giàu truyền thống văn hóa .................. 12 1.1.3 Thái Nguyên - mảnh đất giàu truyền thống thơ ca ...................... 14 1.2. Thái Nguyên chuyển mình cùng đất nước khi thế kỷ sang trang ........... 23 Chương 2. THƠ THÁI NGUYÊN TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỶ XXI .. 25 2.1. Đội ngũ sáng tác giàu tiềm năng............................................................. 25 2.1.1. Đội ngũ sáng tác tăng nhanh về số lượng, đa dạng về hoàn cảnh sáng tác .................................................................................................... 25 2.1.2. Sự tự giác trong ý thức nghệ thuật của người cầm bút. ............. 27 2.2. Cảm hứng thơ mở rộng, phong phú....................................................... 31 2.2.1. Cảm hứng tự hào về cội nguồn và truyền thống ......................... 33 2.2.2. Cảm hứng về Thái Nguyên .......................................................... 40 2.2.3. Cảm hứng về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi ............................... 47 2.2.4. Cảm hứng thế sự ........................................................................... 52 2.2.5. Cảm hứng về sáng tạo nghệ thuật ................................................ 56 2.3. Những nỗ lực làm mới hình thức thơ ..................................................... 59 2.3.1. Về thể thơ ....................................................................................... 60 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- v 2.3.2. Hình ảnh thơ ................................................................................. 64 2.3.3. Ngôn ngữ thơ ................................................................................. 66 2.4. Hình thành rõ hơn diện mạo thơ............................................................ 68 Chƣơng 3. MỘT SỐ CÂY BÚT TIÊU BIỂU ............................................. 72 3.1. Nhà thơ Ma Trường Nguyên ................................................................ 72 3.1.1. Khái quát về nhà thơ Ma Trường Nguyên ................................... 72 3.1.2. Thơ Ma Trường Nguyên hồn nhiên, chân thật, “vụng về nói một lời yêu” ..................................................................................................... 73 3.1.3. Thơ Ma Trường Nguyên giàu tính dân tộc trong hình thức thể hiện... 80 3.2. Nhà thơ Võ Sa Hà .................................................................................. 85 3.2.1. Khái quát về nhà thơ Võ Sa Hà .................................................... 85 3.2.2. Thơ Võ Sa Hà - Hồn thơ hóa “cánh chim về núi” ...................... 86 3.2.3. Thơ Võ Sa Hà linh hoạt trong hình thức thể hiện ...................... 96 3.3. Nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh.............................................................. 102 3.3.1. Giới thiệu khái quát về nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh .............. 102 3.3.2. Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh giàu xúc cảm, suy tư về trái tim mình và những trắc trở cuộc đời....................................................... 103 3.3.3. Những tìm tòi, thể nghiệm về hình thức nghệ thuật.............. 111 KẾT LUẬN .................................................................................................. 119 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 121 PHỤ LỤC Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học địa phương là một bộ phận “máu thịt” của nền văn học dân tộc. Thành tựu văn học mỗi địa phương đều góp phần làm nên thành tựu chung của cả nền văn học. Hiện nay, ở nước ta, hơn sáu mươi tỉnh thành với hơn sáu mươi chi hội văn nghệ trong cả nước đang tích cực hoạt động để khẳng định diện mạo của mình và đóng góp vào sự phát triển của văn học nước nhà. Vì vậy, việc nghiên cứu văn học địa phương có một ý nghĩa thiết thực trong nghiên cứu văn học. Kết quả nghiên cứu vừa có tác dụng đúc kết quy luật, quá trình phát triển, khám phá và nhận định về tình hình văn học của mỗi địa phương; vừa góp phần minh chứng cho sức sống dồi dào, phong phú và sinh động của đời sống văn học dân tộc trên khắp mọi miền đất nước. Trong số những địa phương có đóng góp tích cực cho nền văn học cả nước phải kể đến Thái Nguyên: “một địa danh đã khắc vào lịch sử và đời sống văn học một dấu son”; “Mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, ATK - Thủ đô của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, từng là cội nguồn cảm hứng sáng tạo của nhiều thế hệ văn nghệ sĩ nước nhà. Trên mảnh đất này, hiện thực lịch sử và cảm hứng thi ca đã hòa quyện với nhau làm nên những giá trị tinh thần - văn hóa đặc biệt, minh chứng cho mối quan hệ giữa văn học và hiện thực trong nền văn học cách mạng Việt Nam” [72, tr.1]. Thơ là thế mạnh của văn học Thái Nguyên. Từ trang sách, thơ đã đi vào đời sống, làm “nhịp cầu nối những bờ vui”. Nhiều bài thơ hay của các nhà thơ Thái Nguyên đã sống trong lòng người yêu thơ và trở thành những lời ca, câu hát được nhiều người say mê, yêu thích. Bước sang thập niên đầu thế kỷ XXI, cùng với sự đổi mới của đất nước, đời sống kinh tế, xã hội của Thái Nguyên cũng không ngừng phát triển. Thơ Thái Nguyên cũng nhanh chóng bắt nhịp với cuộc sống mới năng động; tạo được một chỗ đứng vững chắc trong đời sống tinh thần của người Thái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Nguyên và bè bạn gần xa. Thơ giúp cho cuộc sống của “Thành phố gang thép” trở nên tươi mát hơn; thơ tiếp tục nuôi dưỡng và bồi đắp tâm hồn, tình cảm của những con người đã gắn bó với mảnh đất này. Thập niên đầu thế kỷ XXI cũng là giai đoạn thơ Thái Nguyên “đã có sự đổi về chất”, vượt qua “ý nghĩa phong trào” để đạt tới “tính chuyên nghiệp”, tạo nên diện mạo mới cho văn học Thái Nguyên. Hòa nhịp với dòng chảy văn học cả nước, thơ Thái Nguyên xuất hiện thường xuyên hơn trên những trang báo và tạp chí có tên tuổi như Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Quân đội Nhân dân, Văn nghệ Quân đội.v.v...Nhiều tác phẩm đã được tuyển chọn vào những tuyển tập thơ hay của cả nước. Chi hội văn nghệ Thái Nguyên có 225 hội viên thì tới 43 nhà thơ. Đội ngũ các nhà thơ đương độ sung sức, “mỗi người một vẻ, một đóng góp đã thổi bùng lên ngọn lửa thi ca Thái Nguyên hôm nay” [74, tr.20]. Thành tựu thơ Thái Nguyên được khẳng định rõ hơn qua các giải thưởng văn học: Nguyễn Thúy Quỳnh - Giải Nhì về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (2004); Võ Sa Hà - Giải Ba về thơ của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam (2004); Phạm Văn Vũ - Giải Khuyến khích cuộc thi thơ của tạp chí Tài hoa trẻ (2005 ); Ma Trường Nguyên - Giải C Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam (2007); Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu và Võ Sa Hà đã được nhận giải thưởng về thơ của báo Văn nghệ và tạp chí Văn nghệ quân đội.v.v...Trên đà đổi mới và phát triển, sự trưởng thành về số lượng và chất lượng đã đưa vị thế thơ Thái Nguyên vươn lên một tầm cao mới trong nền thơ cả nước. Trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, thơ Thái Nguyên nói chung và thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI cũng đã bước đầu được quan tâm. Tuy nhiên, những tài liệu đã có mới chỉ nhìn đối tượng ở mức độ khái quát hoặc đi vào từng tác giả cụ thể; chưa có một cái nhìn mang tính chất tổng thể và thấu đáo. Đội ngũ những người sáng tác thơ Thái Nguyên không chỉ mong chờ những tâm hồn đồng cảm, đồng điệu với thơ mà còn cần cả những người nghiên cứu tập trung tìm hiểu, khái quát những chặng đường, những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- đặc điểm.v.v...để nhận diện rõ thơ hơn Thái Nguyên trên hành trình phát triển, từ đó có thể tạo nên sức bật mới cho thơ. Người giảng dạy và học tập, thưởng thức thơ Thái Nguyên và thơ Việt Nam đương đại cũng cần có thêm những tư liệu chuyên sâu trong lĩnh vực này. Chúng tôi hy vọng những vấn đề được đặt ra và giải quyết trong luận văn sẽ trở thành tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc giảng dạy, nghiên cứu và thưởng thức văn học địa phương. Xuất phát từ những lý do cơ bản trên đây, chúng tôi đã mạnh dạn triển khai công trình nghiên cứu “Thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI”. Hy vọng công trình nghiên cứu sẽ mang lại những ý nghĩa khoa học và giá trị thiết thực. 2. Lịch sử vấn đề Trong những năm qua, thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI đã thu hút được sự quan tâm của những người yêu thơ và của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Chúng tôi đã tìm hiểu tình hình nghiên cứu đối tượng từ các nguồn tư liệu chính sau: * Các cuộc hội thảo: Tháng 6 năm 2009, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên đã tổ chức cuộc hội thảo chuyên đề “Nhà văn Ma Trƣờng Nguyên - Tác giả, tác phẩm”. Tham dự Hội thảo gồm những người làm công tác nghiên cứu - phê bình văn học (Lâm Tiến, Trần Văn Tác, Bùi Như Lan) và các nhà thơ, nhà văn Thái Nguyên (Nguyễn Thúy Quỳnh, Mai Liễu, Nguyễn Đức Hạnh, Vũ Đình Toàn, Hồ Thủy Giang.v.v...). Hội thảo đã khẳng định đóng góp của ngòi bút Ma Trường Nguyên đối với thành tựu văn học tỉnh Thái Nguyên và tập trung tìm hiểu sáng tác của Ma Trường Nguyên trên cả hai mảng: văn xuôi và thơ. Về thơ Ma Trường Nguyên, nhà nghiên cứu Lâm Tiến nhận xét: “Thường là thơ tình yêu của Ma Trường Nguyên thành công hơn là thơ viết về những đề tài khác” [88, tr.5]. Nguyễn Thúy Quỳnh đưa ra những phác thảo ban đầu về thơ Ma Trường Nguyên trên các phương diện: Từ thể loại và kết cấu văn bản; Từ cảm hứng chủ đạo và từ..sự khuyết thiếu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Hội thảo “Thơ Thái Nguyên đƣơng đại” (được tổ chức vào tháng 8 năm 2009) đã thu hút nhiều ý kiến đánh giá của các nghiên cứu - phê bình và các nhà thơ. TS.Nguyễn Đức Hạnh - Trưởng ban Thơ Chi hội Văn nghệ Thái Nguyên; GV bộ môn Lý luận văn học - trong bài viết “Một vài cảm nghĩ thơ Thái Nguyên hôm nay” đã đưa ra “vài nét chấm phá” diện mạo thơ Thái Nguyên đương đại về đội ngũ, tác phẩm, thành tựu và cả hạn chế. Tác giả khẳng định: trong 5 năm đầu của thế kỷ XXI, thơ Thái Nguyên vận động theo hướng tích cực, tầm văn hóa thơ Thái Nguyên đã được nâng cao, những bài diễn ca, vần vè, mòn sáo ít dần; và đi đến nhận xét khái quát: “Có thể ví đội ngũ tác giả thơ Thái Nguyên hôm nay như rừng cây nhiệt đới tầng tầng, lớp lớp, có sự đan xen nối tiếp nhiều thế hệ làm thơ, có sự giao thoa cộng hưởng của nhiều tiếng thơ khác nhau, mang giọng điệu khác nhau, tạo ra sự đa thanh, đa sắc thật phong phú [33, tr.1]. Nói về thơ Thái nguyên, trong Hội thảo, Hồ Thủy Giang - cây bút quen thuộc của Thái Nguyên - có bài “Có nên dị ứng với công cuộc đổi mới thơ”. Ông viết bài này với tư cách là người yêu thơ, đã từng được sưởi ấm tâm hồn từ những vần thơ truyền thống bình dị, nồng nàn; đồng thời cũng có sự đam mê thơ hiện đại của các nhà thơ Thái Nguyên. Tác giả nhấn mạnh: nếu quá dị ứng với cái mới sẽ đồng nghĩa đưa thơ vào ngõ cụt; đổi mới thơ là cần thiết bên cạnh việc lưu giữ yếu tố truyền thống. Nguyễn Hữu Bài - một nhà thơ Thái Nguyên - có tham luận: “Một số suy nghĩ về dòng thơ viết về quê hương, đất nước, về truyền thống cách mạng của các tác giả Thái Nguyên”. Ông cho rằng: “… thơ Thái Nguyên hôm nay đã hội tụ khá đủ các dòng thơ truyền thống, thơ cách mạng, thơ câu lạc bộ, thơ trữ tình, thơ thế sự, thơ trẻ với những cách tân, thơ thiếu nhi, thơ châm… Sự phong phú đa dạng chính là sự phát triển và cũng là những đòi hỏi bức bách của muôn mặt cuộc sống muốn được thể hiện qua thơ. Dòng thơ cách mạng, truyền thống đã thực sự tồn tại khách quan, đang phát triển được cũng do nhu cầu của quần chúng, của xã hội” [2, tr.1]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Đánh giá về thơ thiếu nhi của Thái Nguyên, Hữu Tiệp có bài “Thơ thiếu nhi, đôi điều suy ngẫm”. Tác giả đã nhận thấy thơ Thái Nguyên “đang hình thành một lực luợng sáng tác thơ cho thiếu nhi” [91, tr.4]. Tuy nhiên. thơ thiếu nhi của tỉnh “vẫn thiếu vắng một bàn tay bà đỡ, chưa có sự tập hợp, kết nối, còn nặng tính tự phát” [91, tr. 4]. V.v... Hội thảo đã giúp đội ngũ sáng tác và những người làm công tác nghiên cứu phê bình cập nhật với sự đổi mới của thơ Thái Nguyên về nhiều phương diện. Trong Hội thảo “Thái Nguyên và thơ kháng chiến - cội nguồn và sáng tạo” (tổ chức tháng 12 năm 2010), các tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Đức Hạnh, Ma Trường Nguyên, Nguyễn Kiến Thọ, Hồ Thủy Giang, Phạm Văn Vũ, Thế Chính...đã trình bày ý kiến sâu sắc về những bài thơ kháng chiến gắn liền với truyền thống lịch sử của Thái Nguyên và của dân tộc; những bài thơ “đi cùng năm tháng” đã tiếp sức cho hành trình thơ Thái Nguyên hôm nay. Nguyễn Kiến Thọ nhìn thấy một mạch nguồn sáng tạo của những nhà thơ Thái Nguyên mặc áo lính: “Những nhà thơ Thái Nguyên mặc áo lính hôm nay vẫn đang âm thầm làm thơ, âm thầm sáng tạo, theo đuổi những khát khao, kiếm tìm những niềm vui trên từng con chữ. Với họ, chiến tranh không chỉ là một phần đời họ đã sống, đã trải qua, chiến tranh còn là một phần tâm hồn họ. Và như vậy, trong thẳm sâu tâm hồn của những nhà thơ mặc áo lính hôm nay, có một phần không nhỏ cho những hồi ức về chiến tranh. Với họ, viết thơ như là việc trả lại nghĩa tình đồng đội, làm thơ chính là sự tưởng nhớ và tri ân những người đã khuất. Chúng ta trân trọng những tiếng lòng thơ ấy” [85, tr.26]. Nguyễn Thanh Mai tập trung ý kiến vào đề tài, cảm hứng thơ và khẳng định “Lịch sử đã trao cho mảnh đất này một sứ mệnh thiêng liêng, cùng với sự nghiệp cách mạng sống mãi với non sông, hình ảnh Việt Bắc - Thái Nguyên qua thơ cách mạng và kháng chiến chống thực dân Pháp sẽ còn mãi mãi với dân tộc.” [51, tr.48]. Hội thảo đã làm sáng tỏ nhiều Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- vấn đề có tính hệ thống và tính thời sự về cảm hứng Cội nguồn - Cách mạng trong thơ Thái Nguyên. Các cuộc hội thảo là dịp để thơ Thái Nguyên nhận rõ mình hơn và có thêm niềm khởi hứng trên một chặng đường phát triển mới. * Các chuyên luận: Đời sống tươi mới của thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI cũng đã thu hút các cây bút nghiên cứu phê bình văn học. Tác giả Vũ Đình Toàn trong cuốn phê bình văn học “Đọc & suy ngẫm” (Nxb Hội Nhà văn, 2011) có bài “Thơ Thái Nguyên không phải không hay”. Ông rất chú ý đến diện mạo mới của thơ Thái Nguyên: “Cho đến trước cách mạng tháng Tám, đất Thái Nguyên chưa có chỗ đứng trong văn học và thơ ca, nhưng hiện nay, Thái Nguyên là một mảnh đất phì nhiêu cho thơ ca sinh sôi nảy nở… Nhìn tổng thể, thơ của các hội viên hội Văn nghệ tỉnh (cả một số cây bút ngoài hội) khá là đa dạng và phần lớn là thơ hay” [91, tr.45]. Nhận xét này còn giúp người ta thấy rõ tiềm lực phát triển của thơ Thái Nguyên hôm nay. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến trong cuốn “Tiếp cận văn học dân tộc thiểu số” (Nxb Văn hóa thông tin, 2011) có bài “Mới, cũ trong thơ Thái Nguyên”. Tác giả chỉ ra “cái cũ” trong thơ Thái Nguyên là: “ý tưởng mới nhưng việc thể hiện lại không kịp, và việc đó thể hiện rõ nhất ở chất liệu ngôn từ” [89, tr.142]; tuy nhiên, cái mới đã giúp thơ Thái Nguyên khởi sắc: “Nếu như trước đây, thơ Thái Nguyên còn bình lặng, dàn đều, không có nổi trội bứt phá thì hiện nay qua thơ một số tác giả không còn tình trạng thế nữa. Thơ Thái Nguyên đã thực sự khởi sắc. Đó là cái mới trong thơ Thái Nguyên. Cái mới đó trước hết được thể hiện ở cái nhìn mới về thế giới, về con người, về cuộc sống” [89, tr.139]. Vốn là người theo sát và hiểu rõ hành trình thơ Thái Nguyên, những nhận xét của nhà nghiên cứu có giá trị định hướng quan trọng đối với những người muốn đi sâu tìm hiểu vấn đề. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Với mục đích phục vụ cho việc giảng dạy và học tập văn học địa phương trong các trường THCS trên địa bàn tỉnh, năm 2008, Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên tổ chức biên soạn và ấn hành cuốn “Văn học Thái Nguyên”. Cuốn sách đã dành một phần để giới thiệu khái quát về văn học Thái Nguyên từ cội nguồn đến nay. Trong phần này, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến ý kiến nhận xét, đánh giá về thơ Thái Nguyên: “Vào đầu thế kỷ XXI, thơ Thái Nguyên mới thực sự nổi bật khi một số tác giả có ý thức tìm tòi đổi mới về thơ. Có thể nhận định, thơ Thái Nguyên thế kỷ XXI đã có sự thay đổi về chất. Võ Sa Hà từ lối viết truyền thống cùng sự tiếp cận thi pháp hiện đại đã tạo ra những hình tượng, những ngôn từ thơ đầy ám ảnh” [73, tr.19]. * Ngoài hệ thống tư liệu có tính tập trung đã trình bày ở phần trên, chúng tôi còn có được những bài viết về thơ Thái Nguyên đăng tải trên các báo, tạp chí trung ương và địa phương như: - “Người thổi hồn vào những địa danh”, bài viết của Hồ Thủy Giang về nhà thơ Nguyễn Long đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam (2007), số 147. - “Thơ Thái Nguyên - Sông cầu đã ra biển cả” của tác giả Nguyễn Đức Hạnh đăng trên báo Văn nghệ Thái Nguyên (2007 - số báo Tết); bài viết khẳng định sự phát triển của thơ Thái Nguyên trong những năm đầu thế kỷ XXI: “Những cái tên quen thuộc của “làng thơ” Thái Nguyên đã xuất hiện khá nhiều trên các trang báo và tạp chí Trung ương, trên các diễn đàn uy tín và sang trọng của Thơ Việt Nam. (...). Con Sông Cầu – Thơ mộng, nhỏ bé không còn chỉ uốn lượn quanh thành phố “thép” mà đã hăm hở về xuôi, hòa vào đại dương thơ Việt Nam...” . - “Người làm thơ không chỉ vì đam mê” viết về thơ Nguyễn Thúy Quỳnh của tác giả Nguyễn Hòa đăng trên báo Văn nghệ số 29 (18 -7- 2011). V.v... Qua hệ thống tư liệu nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy, các Hội thảo, chuyên luận và các bài báo đã thống nhất đánh giá về thơ Thái Nguyên trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- thập niên đầu thế kỷ XXI đều khẳng định sự phát triển của thơ Thái Nguyên trong giai đoạn này với nhiều tác phẩm có chất lượng; hội tụ các khuynh hướng (trữ tình, thế sự.v.v...), các dòng thơ (truyền thống, đổi mới .v.v...). Tuy nhiên những bài đã viết về thơ Thái Nguyên chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá một số phương diện chung hoặc đi vào tìm hiểu từng tập thơ, từng tác giả chứ chưa đề cập đến những vấn đề mang tính khái quát, toàn diện về thơ Thái Nguyên trong giai đoạn này. Qua nguồn tài liệu trên, chúng tôi đã tìm được những gợi ý quý giá để triển khai đề tài nghiên cứu của mình. Từ những ý kiến có tính chất mở đường của người đi trước, chúng tôi triển khai nghiên cứu đối tượng ở mức độ sâu sắc, toàn diện và cụ thể hơn. 3. Nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu 3.1. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI trên phương diện: đội ngũ sáng tác; tư tưởng, cảm hứng; bút pháp nghệ thuật. - Xác định những đóng góp của thơ Thái Nguyên trong giai đoạn này đối với sự phát triển của văn học địa phương và với nền thơ cả nước nói chung . 3.2. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu thơ Thái Nguyên thập niên đầu thê kỷ XXI, chúng tôi tập trung vào sáng tác của tác giả sống và làm việc tại Thái Nguyên trong thời gian trên; đối tượng khảo sát là các tập thơ của họ in trong khoảng thời gian này. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp thống kê phân loại Sử dụng để xác định tần số xuất hiện của các tín hiệu, dấu hiệu nghệ thuật trong các tác phẩm văn học, làm căn cứ để phân tích, đánh giá đồng thời cơ sở xây dựng những luận điểm, luận cứ của đề tài. 4.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu Tìm hiểu thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI, trong sự so sánh, đối chiếu với giai đoạn trước đó để thấy rõ những đặc điểm cơ bản của đối tượng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- 4.3. Phương pháp phân tích Đây là phương pháp quan trọng để làm sáng tỏ các luận điểm, luận cứ, các dẫn chứng, số liệu đã thống kê. 4.4. Phương pháp hệ thống Bất kỳ một luận điểm, luận cứ nào cũng phải đặt trong một hệ thống nhất định. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp luận văn có tính thống nhất và đảm bảo tính khoa học. Ngoài những phương pháp nghiên cứu trên, trong quá trình thực hiện, đề tài có thể sử dụng thêm một số phương pháp khác hỗ trợ. 5. Đóng góp luận văn Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI một cách có hệ thống. Kết quả của luận văn sẽ góp phần khẳng định thành tựu và giá trị của thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI. Đồng thời nó cũng là nguồn tư liệu hữu ích phục vụ công tác giảng dạy, nghiên cứu văn học địa phương và văn học miền núi. Hơn nữa, việc tìm hiểu thơ Thái Nguyên sẽ trở thành nguồn tư liệu bổ sung cho việc dạy và học phần văn học địa phương trong nhà trường hiện nay. Những vấn đề trên cho thấy, tìm hiểu thơ Thái Nguyên thập niên đầu thế kỷ XXI là một việc thiết thực, giàu ý nghĩa khoa học và thực tiễn. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được chia làm ba chương Chương 1: Thái Nguyên- mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và thơ ca Chương 2: Thơ Thái Nguyên trong thập niên đầu thế kỷ XXI Chương 3: Một số cây bút tiêu biểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- B. NỘI DUNG Chƣơng 1 THÁI NGUYÊN - MẢNH ĐẤT GIÀU TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ, VĂN HOÁ VÀ THƠ CA 1.1. Thái Nguyên – mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và thơ ca 1.1.1. Thái Nguyên - “Căn cứ địa cách mạng”, “Thủ đô kháng chiến”, “Thủ đô gió ngàn” Thái Nguyên - một vùng đất quen thuộc trên dáng hình đất nước - một địa danh đã khắc sâu vào tâm trí của mỗi người dân đất Việt bởi nó gắn liền với truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc. Cách Thủ đô Hà Nội 80 km về phía Bắc, Thái Nguyên là mảnh đất nối giữa núi rừng Việt Bắc với đồng bằng châu thổ sông Hồng, là cửa ngõ bảo vệ kinh đô Thăng Long, Đông Đô xưa và Thủ đô Hà Nội ngày nay. Từ Thế kỷ XV, Nguyễn Trãi đã viết trong sách Dư địa chí: “Đấy (TN) là nơi phên dậu thứ hai về phương Bắc này” [95, tr.238]. Trong quá trình lịch sử, có biết bao sự kiện đã ghi dấu ấn trên vùng đất này. Từ trước Công nguyên, người Thái Nguyên đã tham gia đánh giặc Ân. Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa đánh đổ bộ máy cai trị của nhà Hán ở Giao Chỉ, nhân dân Thái Nguyên đã tích cực tham gia khởi nghĩa. Trong cuộc kháng chiến chống quân Tống (1076-1077), phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu của “phòng tuyến sông Cầu”. Năm 1145, dưới sự chỉ huy của Phò mã Dương Tự Minh, quan quân Thái Nguyên đã đánh thắng giặc Tống sang xâm chiếm châu Tư Lang, Quảng Nguyên (Cao Bằng); miền biên ải phía bắc quốc gia Đại Việt nhờ đó mà yên ổn lâu bền. Đến thế kỷ XV, Lưu Nhân Chú - người Đại Từ - là vị tướng tài ba, thao lược của nghĩa quân Lam Sơn, từng chỉ huy trận phục kích tại ải Chi Lăng và trận chiến tiêu diệt toàn bộ viện binh nhà Minh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Thái Nguyên trở thành một trong những địa bàn hoạt động chính của nghĩa quân Nguyễn Danh Phương (thế kỷ XVII). Thời nhà Nguyễn, Thái Nguyên là nơi nổ ra nhiều phong trào khởi nghĩa nông dân chống quan lại phong kiến áp bức như cuộc khởi nghĩa của Dương Đình Cúc (năm 1816), Nông Văn Vân (năm 1833).v.v… Trong những năm đầu của thế kỷ XX, đất Thái Nguyên là địa bàn hoạt động thường xuyên, hậu cứ của cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Đề Thám lãnh đạo. Một sự kiện vang dội cả nước, làm chấn động nước Pháp, lan tỏa ảnh hưởng tới tận xứ thuộc địa đã nổ ra tại thị xã Thái Nguyên vào năm 1917, khởi nghĩa Thái Nguyên do Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến lãnh đạo. Lần đầu tiên trong lịch sử cận đại Việt Nam, một cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đã chiếm được tỉnh lị, đặt Quốc hiệu Đại Hùng, thành lập quân đội cách mạng Quang Phục quân, định ra tôn chỉ “đánh đuổi giặc Pháp, giành độc lập dân tộc”. Mặc dù thất bại nhưng cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và tên tuổi người anh hùng Đội Cấn, Lương Ngọc Quyến mãi là những dấu son trong trang sử của Thái Nguyên và cả nước. Lịch sử Thái Nguyên càng trở nên đẹp đẽ, rạng rỡ, hào hùng trong những năm tháng chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954), cùng với Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn làm căn cứ địa cách mạng, xây dựng an toàn khu (ATK). Trung tâm an toàn khu được đặt tại huyện Định Hóa, một địa bàn quan trọng - “Thủ đô gió ngàn” của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Cũng tại nơi đây, Bác Hồ và Bộ Chính trị đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng nhiều cuộc tiến công của địch; quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Mảnh đất giàu truyền thống yêu nước này xứng đáng với niềm tin yêu của cả dân tộc. Việt Bắc đã trở thành điểm tựa của niềm tin: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- “Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền” (Việt Bắc-Tố Hữu ) Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Thái Nguyên - “Thành phố gang thép” đã cùng nhân dân cả nước chiến đấu anh dũng, lập nhiều chiến công xuất sắc, quyết bảo vệ vùng trời, bảo vệ khu gang thép Thái Nguyên - khu công nghiệp non trẻ của cả nước. Qua hai cuộc kháng chiến, Thái Nguyên đã có hàng vạn người con lên đường đánh giặc, trong đó có nhiều người con ưu tú đã hy sinh anh dũng, hiến trọn tuổi thanh xuân cho cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc; gần một vạn người đã để lại một phần xương máu trên các chiến trường; 134 bà mẹ Việt Nam anh hùng; 21 cá nhân được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và Anh hùng lao động. Điểm lại trang sử vẻ vang của Thái Nguyên có thể thấy đây là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Những di tích Tỉn Keo, Đồi Cọ, Bảo Hiên, Nà Mòn...gắn liền với những tên làng, tên núi, tên sông đã trở thành huyền thoại, mãi là niềm tự hào của đồng bào các dân tộc Thái Nguyên và của nhân dân cả nước. 1.1.2. Thái Nguyên - mảnh đất giàu truyền thống văn hóa Thái Nguyên phía bắc tiếp giáp với Bắc Kạn; phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang; phía đông giáp với các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía nam tiếp giáp với thủ đô Hà Nội. Với vị trí địa lý này, Thái Nguyên trở thành cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông và các tuyến đường sắt quốc gia đi qua tỉnh là một lợi thế giúp Thái Nguyên đẩy mạnh giao lưu, phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Địa hình Thái Nguyên có nhiều dãy núi cao, nhiều hang động, thung lũng nhỏ; núi rừng hùng vĩ phía bắc, miền trung du đồi gò “bát úp” ở phía nam, những dải đồng bằng nhỏ hẹp vùng trung lưu sông Cầu, sông Công... Thiên nhiên ưu ái ban tặng cho Thái Nguyên nhiều cảnh quan kỳ thú, có nhiều sông, hồ, hang động đẹp: hồ Núi Cốc, suối Mỏ Gà, hang Phượng Hoàng... Sông Cầu có hình dáng lông chim thổi gió mát vào thành phố, sông Công tượng hình “nước mắt chảy thành sông” góp phần tạo nên vẻ đẹp nên thơ, mềm mại của Thái Nguyên. Phong cảnh Thái Nguyên “non xanh nước biếc” thơ mộng, trữ tình, khơi gợi niềm thi hứng. Thái Nguyên có các huyền tích và lễ hội cổ xưa như: Lễ hội Đền Đuổm (Phú Lương), huyền tích và lễ hội Cơm hòm (Phổ Yên). Cùng với các huyền tích và lễ hội trên, người Nùng ở Thái Nguyên còn có kho tàng văn hóa dân gian lâu đời là làn điệu dân ca: hát sli, hát then; người Tày với các làn điệu phổ biến hát Then, hát lượn, hát ru con, hát đám cưới.V.v… Các loại nhạc cụ của các dân tộc Thái Nguyên như thanh la, não bạt, trống, chiêng, kèn, tù và sáo.V.v… cũng đã được gìn giữ. Thái Nguyên cũng lưu giữ được di chỉ khảo cổ có giá trị văn hóa cao như khu di tích khảo cổ học Thần Sa (Võ Nhai). Văn hóa Thái Nguyên lưu giữ các lễ hội đặc sắc của đồng bào các dân tộc: Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày - Nùng - Dao, Lễ hội cầu mùa của người Sán Chay, Lễ hội Chùa Hang, lễ hội Hích… đặc biệt là Lễ hội văn hóa trà - một lễ hội tạo đặc sắc riêng cho mảnh đất này thời kỳ hiện đại. Các hình thức sinh hoạt văn hóa của các dân tộc cũng rất đa dạng như: hát then, hát sli, hát lượn của người Tày; hát trống quân, hát quan họ của người Kinh; hát ví dao duyên của người Sán Chay.V.v…Văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của Thái Nguyên đều đa dạng, phong phú. Với vị trí trung tâm của Việt Bắc, Thái Nguyên là nơi hội tụ nền văn hóa của các dân tộc miền núi phía Bắc, là đầu mối các hoạt động văn hóa, giáo dục của cả vùng núi phía Bắc rộng lớn. Là một tỉnh giàu tài nguyên, từ thời xa xưa, Thái Nguyên đã thu hút dân cư các vùng lân cận đến khai khẩn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- làm ăn sinh sống. Vùng đất này hội nhập cả dân cư từ vùng núi phía Bắc xuống, dân cư từ vùng đồng bằng phía Nam lên, sinh cơ lập nghiệp cùng người Tày, người Nùng địa phương và tất cả đều trở thành cộng đồng chủ thể của vùng đất này. Vì thế, Thái Nguyên là ngôi nhà chung của 8 dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Hoa, Mông, Sán Dìu, Sán Chay, Dao. Mỗi dân tộc trong tỉnh đều có bản sắc văn hóa của riêng mình đồng thời cũng tiếp nhận các giá trị văn hóa của nhau, góp phần tạo nên tính cộng đồng cao. Trên mảnh đất Thái Nguyên, sự giao lưu văn hóa diễn ra không lẻ tẻ, rời rạc mà là một quá trình tiếp thu, bồi đắp lâu dài. Thái Nguyên lại nằm ở vị trí tiếp giáp giữa nhiều vùng văn hoá khác nhau. Trong quá trình cộng cư, nhân dân lao động đã sáng tạo ra nền văn hóa đặc sắc, đa dạng và phong phú. Điều này đã tạo nên hiện tượng “giao thoa” văn hóa: “ Hội tụ và tiếp xúc văn hóa là đặc điểm của Thái Nguyên” (Trần Quốc Vượng). 1.1.3 Thái Nguyên - mảnh đất giàu truyền thống thơ ca Văn học dân gian Thái Nguyên là kho trí tuệ, tâm hồn, tình cảm thẩm mỹ cao đẹp và phong phú của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên. Trước hết nó thể hiện sự tích tụ văn minh Thái Nguyên ngàn năm trên các vùng đất cổ, trong khu vực lan tỏa của nền văn hóa Thần Sa. Màu sắc tiếp xúc và hội tụ của văn học dân gian Thái Nguyên rất đậm nổi. Văn học dân gian Thái Nguyên vừa chứa đựng cái nguồn sống chảy trong mạch văn hóa cộng đồng, vừa không ngừng tích tụ những nét bản sắc Thái Nguyên trong lịch sử. Do Thái Nguyên là mái nhà hội tụ nhiều dân tộc anh em nên văn học dân gian Thái Nguyên là tổng giá trị văn học dân gian của các thành phần dân tộc anh em. Nói đến văn học dân gian Thái Nguyên, ta không thể không nhắc tới thể loại trữ tình dân gian: ca dao, dân ca. Ca dao của các dân tộc Thái Nguyên gồm: gầu plềnh (hát giao duyên), gầu xống (hát cưới xin), gầu tú dua (hát mồ côi), gầu tuờ (hát cúng ma)… của người Hmông ở Đồng Hỷ; phong slư (thư tình dân gian), sli, lượn (hát trữ tình) của người Tày -Nùng ở Võ Nhai. Hàng loạt bài sli, lượn Thái Nguyên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- cho thấy sự giao thoa mạnh mẽ giữa hai nền văn hóa Kinh - Tày nhất là vùng phía Nam của tỉnh (từ địa danh, ngôn ngữ đến cung cách phô diễn tình cảm). Đặc điểm này nổi đậm trong thể tài ca dao sinh hoạt. “Gái xuống tắm tinh thông canh cửi Tiếng lượn ngọt hơn mật với đường Hình dong sáng hơn gương thần diệu. Ăn mặc những yểu điệu thướt tha Xinh gái bằng Ngọc Hoa công chúa” (“Lượn mừng” trong mục Lượn mừng mỏ nước - theo Vi Hồng) Nhưng những vùng phía bắc tỉnh vẫn đậm đã hơn chất dân gian dân tộc Tày - Nùng những làn điệu dân ca Lượn cọi, Lượn nàng ới, Lượn slương, Lượn nàng hai. Ở đó còn chứa đựng nguyên vẹn không gian văn hóa truyền thống. Chẳng hạn như dân ca Sán Chay: “Trông gió về rừng quế ngát hương Anh nhớ người yêu thương cách núi Trông suối buồn tung tăng cá lội Anh nhớ người hát gọi cùng anh Tháng năm đi ở lại một mình Chiều bóng lẻ soi hình lặng lẽ Gió ơi gió gửi về rừng quế Nhớ người xa trẻ đẹp anh thương” Ở các vùng Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên cho thấy sự phong phú của ca dao sinh hoạt bằng tiếng phổ thông. Đó là những bài ca cầm tay, những bài hát mừng quê hương mới, cuộc sống mới trên vùng “đất lành chim đậu”: “Quê Ngâu thì ở Hà Đông Ngâu đi lấy chồng ở đất Hà Tây Gặp mình ta lại cầm tay” (Ca dao cầm tay - Phú Bình) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 300 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn