intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Truyện Ngắn Bảo Ninh

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:124

39
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

hông qua việc khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn Bảo Ninh, luận văn nhằm: Nhận diện một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh. Trên cơ sở đó chỉ ra những nét đặc sắc, riêng biệt của Bảo Ninh trong cách thể hiện đề tài chiến tranh, cuộc sống người lính thời hậu chiến. Khẳng định vị trí và ghi nhận đóng góp của Bảo Ninh trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại không chỉ ở tiểu thuyết mà còn ở thể loại truyện ngắn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Truyện Ngắn Bảo Ninh

  1. i ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------***--------- NGUYỄN THỊ CHIẾN TRUYỆN NGẮN BẢO NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÍCH THU THÁI NGUYÊN - 2011 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ii Lời cảm ơn Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Bích Thu, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới BGH, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Văn Chấn, Sở GD & ĐT tỉnh Yên Bái cùng những người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2011 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Chiến Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. iii PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………....... 1 2. Lịch sử vấn đề…………………………………………………............ 2 3. Mục đích, ý nghĩa của luận văn….……………………………… …. .5 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu….……………………………....... 5 5. Nhiệm vụ nghiên cứu………………………………………………..... 6 6. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………. .6 7. Cấu trúc của luận văn…… ………………………………………...... 6 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1: TRUYỆN NGẮN BẢO NINH TRONG DÒNG CHẢY CỦA TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH THỜI HẬU CHIẾN............. 7 1.1 . Giới thuyết về truyện ngắn……………...……………………………….7 1.2. Truyện ngắn viết về chiến tranh thời hậu chiến………………….......... 9 1.2.1. Tiền đề lịch sử, chính trị - xã hội, văn hoá – tƣ tƣởng làm nảy sinh nền văn học mới................................................................................................. 9 1.2.1.1 Tiền đề lịch sử, chính trị - xã hội………….……………………. 9 1.2.1.2. Tiền đề văn hoá – tư tưởng……………………………...……. 10 1.2.2. Những cách tân của truyện ngắn viết về chiến tranh thời hậu chiến……..13 1.3. Bảo Ninh – Cây bút truyện ngắn xuất sắc viết về chiến tranh thời hậu chiến.. 22 1.3.1. Tiểu sử………………………………………………………………………. 22 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác …………………………………………………..…… 22 1.3.3. Ký ức chiến tranh trong truyện ngắn Bảo Ninh…………… …......... 28 CHƢƠNG 2: NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN BẢO NINH…….. 35 2.1. Giới thuyết về nhân vật……………………………………….………. 35 2.1.1. Khái niệm nhân vật ………………………………………………………. 35 2.1.2. Vai trò của nhân vật trong tác phẩm văn học………………………... 36 2.2. Các kiểu nhân vật trong truyện ngắn Bảo Ninh………………......... .36 2.2.1. Kiểu nhân vật chịu nhiều mất mát thiệt thòi...………………….….. 36 2.2.1.1. Những hy sinh, mất mát trong chiến tranh…..……….…….... 36 2.2.1.2. Những thiệt thòi, bất hạnh sau chiến tranh ………. ……….. 42 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. iv 2.2.2. Kiểu nhân vật tự thú và sám hối…………………………………... 46 2.2.2.1. Nhân vật với những góc khuất của con người cá nhân…….... 46 2.2.2.2. Nhân vật sống trong day dứt, sám hối…………………......... 51 2.2.3. Kiểu nhân vật lạc thời………………………………………………..….. 55 2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật…………………………………….… 64 2.3.1. Xây dựng nhân vật qua ngoại hình…..……………………………..… 64 2.3.1. Xây dựng nhân vật qua hồi ức…..…..……………………………...…. 69 CHƢƠNG 3: KẾT CẤU, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TRUYỆN NGẮN BẢO NINH…..…………………………………………………….. 74 3.1. Kết cấu…………………………………………………………………. 74 3.1.1. Khái niệm kết cấu………………………………………….............. 74 3.1.2. Kết cấu trong truyện ngắn Bảo Ninh……………………………… 75 1.2.1 Cách mở đầu……………………………………………………………75 1.2.2 Cách kết thúc…………………………………………………… 77 3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật………………………………………………….. 84 3.2.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật…………………………………… 84 3.2.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh………………. 84 3.2.2.1. Ngôn ngữ đậm chất triết lý, chất trữ tình………………………..84 3.2.2.2. Một số phương tiện đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh………………………………………………………. .92 3.3. Giọng điệu trần thuật………………………………………………… 103 3.3.1. Khái niệm giọng điệu………………………………………. ……. 103 3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh……………... 105 3.3.2.1. Giọng điệu ngậm ngùi, nuối tiếc, xót xa……………………. 105 3.3.2.2. Giọng điệu khách quan, lạnh lùng…………………………...108 PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………... 112 TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………... 115 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Chiến tranh đã đi qua gần 40 năm nhưng những dấu vết về quá khứ đau thương vẫn hằn lên trong tâm thức mỗi con người Việt Nam. Vết thương da thịt năm tháng có thể lành còn vết thương tâm hồn mãi mãi hằn sâu. Đề tài chiến tranh và người lính vẫn luôn là đề tài lớn của văn học nước nhà. Nhưng nó đã được thể hiện với “những cảm hứng mới, những cách thức tiếp cận mới, những cách viết mới, chứ không phải là sự nối dài của quá khứ” (Phong Lê). Văn học Việt Nam đã có rất nhiều tác phẩm hay, có giá trị về đề tài này nhưng những người cầm bút vẫn chưa thể hài lòng với thành tựu của chính mình. Họ vẫn luôn có ý thức tìm tòi, đổi mới trong bút pháp sáng tạo, trong tư duy thể loại, để thai nghén và cho ra đời những tác phẩm tương xứng với tầm vóc của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Trên đường hướng đó, văn xuôi Việt Nam đặc biệt là truyện ngắn sau 1975 viết về chiến tranh và người lính đã có những bước chuyển mới mẻ và đạt được những thành tựu nhất định. Năm 1987, với truyện ngắn Trại “Bảy chú lùn”, nhà văn Bảo Ninh chính thức xuất hiện trong đời sống văn học Việt Nam. Từ đó đến nay, trên hành trình sáng tạo hơn hai thập kỷ, Bảo Ninh đã có nhiều đóng góp với nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt với dòng văn học viết về chiến tranh thời hậu chiến. 1.2. Bên cạnh tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (Thân phận của tình yêu) đạt giải nhất Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, đã làm nên tên tuổi Bảo Ninh trên văn đàn Việt Nam và thế giới, là những tác phẩm tự sự cỡ nhỏ của một Bảo Ninh truyện ngắn “bặt thiệp và tinh tế”. Những điều ông viết có thể được xem như một sự tri ân cho những cuộc đời mà tuổi trẻ của người lính đã dâng hiến cho dân tộc với những trải nghiệm sâu sắc: “Chiến tranh và đồng đội, ấy là tình yêu của chúng tôi, lớp trẻ trưởng thành lên trong hầm trú ẩn và làm nên ý nghĩa cuộc đời mình trong trận mạc” (Rửa tay gác kiếm) [60,213]. Truyện ngắn Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc một cái nhìn mới về chiến tranh, về cuộc sống của con người trong và sau chiến tranh. Dưới cái nhìn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 2 hồi cố, nhân vật trong những trang văn của Bảo Ninh đã suy tư, chiêm nghiệm các vấn đề của hôm qua và hôm nay đầy đặn hơn, trọn vẹn hơn. Hàng loạt truyện ngắn Bảo Ninh là sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng những trải nghiệm cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sử một cách sâu sắc, cảm động, để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. 1.3. Với sức hấp dẫn riêng của thể loại tự sự cỡ nhỏ, sau tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh, truyện ngắn Bảo Ninh đã thu hút được sự chú ý của bạn đọc và giới nghiên cứu, phê bình văn học đương đại. Các nhà nghiên cứu đã tập trung vào các phương diện: đề tài, cốt truyện, điểm nhìn và nhịp điệu trần thuật… Nhưng bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy truyện ngắn Bảo Ninh vẫn còn tiềm ẩn những vấn đề thôi thúc người đọc tìm hiểu và khám phá như: nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu... Đó là lý do gợi dẫn chúng tôi chọn đề tài “Truyện ngắn Bảo Ninh”, với mong muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định tài năng cùng những đóng góp đáng kể của nhà văn Bảo Ninh đối với nền văn xuôi Việt Nam đương đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. 2. Lịch sử vấn đề Thời gian gần đây, truyện ngắn Bảo Ninh đã nhận được sự quan tâm của giới sáng tác cũng như phê bình văn học đương đại. Bùi Việt Thắng trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX khẳng định Bảo Ninh là “một trong những nhà văn có duyên với truyện ngắn” [19,337]. Với Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975, PGS.TS Bích Thu cũng xem Bảo Ninh là “một cây bút ấn tượng với người đọc” [75,32]. Trong bài “Nỗi buồn chiến tranh” viết về chiến tranh thời hậu chiến – Từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp, Phạm Xuân Thạch chủ yếu khai thác những cách tân của Bảo Ninh trong tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh từ lối viết, những mạch ngầm văn bản, thế giới nhân vật đến cái nhìn mới về hiện thực chiến tranh thời hậu chiến. Tác giả nhận xét truyện ngắn Bảo Ninh “giống như những mảnh vỡ của tiểu thuyết hoặc phản chiếu, hoặc soi sáng thế giới của tiểu thuyết”; Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 3 “như một sự đào sâu hiện thực chiến tranh bằng sự trải nghiệm cá nhân để làm phong phú thêm cái nhìn của cộng đồng về hiện thực lịch sử” [43,251]. WayneKarlin trong lời giới thiệu cho tuyển tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh nhận thấy truyện ngắn Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh “in dấu niềm khao khát tình yêu” [83,12], “đối diện trực tiếp với hậu quả chiến tranh, những bậc cha mẹ bị mất con” [83,14]. Với bài giới thiệu tập truyện ngắn Lan man trong lúc kẹt xe - Nxb Hội nhà văn, 2005, Nguyễn Chí Hoan đã chú ý đến một số yếu tố nghệ thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh. Tác giả cho rằng: “Cuốn sách này với các câu chuyện của nó là một suy tư chiêm nghiệm vô tận về thân phận” qua cái nhìn hồi cố. Các nhân vật trong truyện kể về sự kiện và con người “như là những ấn tượng mạnh mẽ khác thường mà ký ức còn lưu giữ”. Do vậy, các mạch truyện “nối vào nhau như những đoạn phim tư liệu được một tay đạo diễn dựng lại một cách ngẫu nhiên”. Cái nhìn hình tượng ấy cho ta thấy quá khứ được kể là “cao nhất, lớn hơn, hư ảo hơn đồng thời là thực hơn”. Đó là “cái nhìn vào ý nghĩa” mà “không phải nhìn vào sự kiện, biến cố, con người một cách thông thường” [60]. Đi vào tìm hiểu thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh, tác giả cuốn sách Bình luận truyện ngắn chỉ ra truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền là kiểu tình huống tượng trưng [71,49]. Tập truyện ngắn Chuyện xưa kết đi, được chưa? – Nxb Văn học, 2009 nhận được nhiều sự quan tâm của độc giả. Trong bài viết Bảo Ninh - nhìn từ thân phận truyện ngắn, Đoàn Ánh Dương đã có nhận xét khá sắc sảo về tập truyện ngắn này: “là một đối ứng với Nỗi buồn chiến tranh, trong sự thống nhất gần như trọn vẹn của những vấn đề được đề cập: nỗi buồn hậu phương”. Tác giả cũng khẳng định: “với Bảo Ninh, chiến tranh là một chấn thương”. Trở về sau chiến tranh, ám ảnh bởi những gì mà cuộc chiến mang lại, “Bảo Ninh đã viết về nó, nhìn đời qua lăng kính đó, để vượt lên chấn thương và vượt thoát cái chết mà chấn thương đó quy định”. Và “chủ âm trong sáng tác của Bảo Ninh là những hồi tưởng về quá vãng”. Do vậy, “ký ức là chất liệu chủ đạo trong sáng tác của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 4 Bảo Ninh, còn Bảo Ninh là kẻ “ăn mày ký ức” ấy”. Tác giả bài viết còn đưa ra kết luận “đã đến lúc phải đọc Bảo Ninh theo một cách khác: văn Bảo Ninh là câu chuyện đời của chính ông. Ở đó, ký ức cá nhân trở thành chất liệu của hư cấu còn hư cấu xét đến cùng như một lẽ viết, và vì thế, một lẽ sống” [16]. Nhị Linh trong bài viết Chuyện xưa kết đi…, trên trang web của báo Quân đội nhân dân cũng có những nhận xét khái quát về tập truyện ngắn này. Theo Nhị Linh, Bảo Ninh đã “không lấy chiến tranh làm trọng tâm cho tác phẩm của mình”, “chiến tranh giống như là một tiếng vọng” và “cảm giác buồn bã buông phủ lên cả tập truyện” [41]. Với Luận văn Thạc sĩ Đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh, Đại học Vinh, 2006, tác giả Lưu Thị Thanh Trà đi sâu nghiên cứu đề tài chiến tranh trong truyện ngắn Bảo Ninh trong sự đối sánh với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Tác giả khẳng định: “Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc một hiện thực chiến tranh với nỗi buồn dằng dặc, bàng bạc, đau xót trong các truyện ngắn. Nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn hậu chiến đã tác động vào số phận, nhân cách của mỗi người lính” [78,95]. Từ đó giúp người đọc thấy được những cách nhìn mới của Bảo Ninh trong cách thể hiện đề tài này. Nguyễn Công Danh trên blog của mình cũng có nhận xét về tập truyện ngắn Chuyện xưa kết đi, được chưa?: “Tập truyện là tập hợp của những câu chuyện không có gì quá phi phàm. Nó giống những điều nhàn tản mà ta thường hay kể, hay bàn ra tán vào lúc rỗi rãi”. Thế nhưng, Chuyện xưa kết đi, được chưa? đã đem đến cho văn chương thời hậu chiến cái nhìn thật khác về chiến tranh và con người sau chiến tranh: “Như biết bao những cây bút đã từng có thời cầm súng, văn chương Bảo Ninh vẫn ngắt nhịp, chấp câu bằng những tràng tiểu liên, bằng những hố bom sâu hoắm không thể nào khuất lấp trong những con người thời lửa đạn” [13]. Nguyễn Thị Hoá trong Luận văn Thạc sĩ Đặc điểm nghệ thuật truyện ngắn của Bảo Ninh, Đại học Vinh, 2010 đã đi sâu vào nghiên cứu một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh. Về nội dung, tác giả luận văn tìm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 5 hiểu đề tài chiến tranh và đề tài thế sự. Về nghệ thuật, tác giả nhận xét: “Các kiểu cốt truyện trong truyện ngắn Bảo Ninh là kết quả của sự lồng ghép các mảng hiện thực, các hình thức của tư duy về hiện thực, các hình thức khái quát hiện thực và sự dẫn dắt của nghệ thuật văn xuôi, của tư duy văn xuôi hiện đại” [28,27]. Ở Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Bảo Ninh, Đại học Vinh, 2010, tác giả Trần Vân Anh nhận xét: Truyện ngắn Bảo Ninh bộc lộ “sự đa dạng, linh hoạt, uyển chuyển trong lựa chọn điểm nhìn và các thủ pháp trần thuật” [3,34]. Điểm qua các công trình nghiên cứu và một số bài viết về truyện ngắn Bảo Ninh, chúng tôi nhận thấy các tác giả đều thống nhất: - Bảo Ninh đã đem đến cho người đọc cái nhìn khác về chiến tranh. Văn Bảo Ninh là câu chuyện đời của chính mình. Với ông, viết về chiến tranh như một lẽ sống, như một nhu cầu tự thân. - Nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn Bảo Ninh chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Những ý kiến của các nhà nghiên cứu về truyện ngắn Bảo Ninh là kết quả của nhiều cách tiếp cận khác nhau. Luận văn của chúng tôi được kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước với những nhận định, khái quát có tính chất khơi mở. Đó là tiền đề khoa học quý báu giúp chúng tôi tiếp cận đề tài này. 3. Mục đích, ý nghĩa của luận văn Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn Bảo Ninh, luận văn nhằm: 3.1. Nhận diện một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn Bảo Ninh. Trên cơ sở đó chỉ ra những nét đặc sắc, riêng biệt của Bảo Ninh trong cách thể hiện đề tài chiến tranh, cuộc sống người lính thời hậu chiến. 3.2. Khẳng định vị trí và ghi nhận đóng góp của Bảo Ninh trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại không chỉ ở tiểu thuyết mà còn ở thể loại truyện ngắn. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Bảo Ninh sáng tác nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký và phê bình văn học... Ở đây, luận văn của chúng tôi chỉ tập trung vào thể loại truyện ngắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 6 Trong truyện ngắn Bảo Ninh, chúng tôi tập trung khai thác các khía cạnh: nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Chúng tôi sẽ tập trung vào các tập truyện: - Trại “Bảy chú lùn” – Nxb Hà Nội, 1987 - Truyện ngắn Bảo Ninh – Nxb Công an nhân dân, 2002 - Lan man trong lúc kẹt xe – Nxb Hội nhà văn, 2005 - Chuyện xưa kết đi, được chưa? – Nxb Văn học, 2009 Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự đối sánh giữa truyện ngắn với tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và một số truyện ngắn của các nhà văn khác. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tập trung tìm hiểu một số vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như: truyện ngắn, nhân vật, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu. Nhận diện một cách hệ thống truyện ngắn Bảo Ninh và đặt truyện ngắn của nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn viết về chiến tranh từ sau 1975. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu 6.1. Phƣơng pháp hệ thống 6.2. Phƣơng pháp thống kê, phân loại 6.3. Phƣơng pháp phân tích tổng hợp 6.4. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung của luận văn gồm ba chương: Chƣơng 1: Truyện ngắn Bảo Ninh trong dòng chảy của truyện ngắn viết về chiến tranh thời hậu chiến. Chƣơng 2: Nhân vật trong truyện ngắn Bảo Ninh. Chƣơng 3. Kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện ngắn Bảo Ninh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 7 PHẦN NỘI DUNG CHƢƠNG 1 TRUYỆN NGẮN BẢO NINH TRONG DÒNG CHẢY CỦA TRUYỆN NGẮN VIẾT VỀ CHIẾN TRANH THỜI HẬU CHIẾN 1.1. Giới thuyết về truyện ngắn Ngay từ tên gọi của thể loại, ta đã thấy truyện ngắn tự nó đã hàm chứa cái thú vị của những điều sâu sắc trong “một hình thức nhỏ xinh, gọn ghẽ và truyền dẫn cực nhanh những thông tin mới mẻ”. Đây là một thể loại có nội khí “một lời mà thiên cổ, gợi mà trăm suy”. Các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra định nghĩa: “Truyện ngắn là tác phẩm cỡ nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” [23,314]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cũng đưa ra khái niệm tương tự. Truyện ngắn là “thể tài tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung lượng; tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận đọc nó liền một mạch không nghỉ” [4,359]. Truyện ngắn, nói một cách đơn giản như Nguyễn Công Hoan, trước hết phải “ngắn”. Nhưng chính cái sự “ngắn” kia lại là một thách thức mà bất kỳ cây bút nào muốn thử sức để đạt tới thành công đều không dễ vượt qua. Dù nhà văn có thể sáng tác truyện ngắn ở những dạng thức mới ít nhiều mang tính “phi cổ điển” và dù các nhà nghiên cứu có thể đưa ra thêm nhiều định nghĩa về truyện ngắn thì dường như đa số tác giả vẫn khó lòng vượt qua khỏi ý nghĩa truyện ngắn như là một “lát cắt” của hành động. “Lát cắt” ấy không chỉ là một phiến đoạn thông thường, mà có khả năng giúp người đọc hồi suy về quá khứ, đồng thời gợi mở các liên tưởng về tương lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 8 Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu của truyện ngắn để phân biệt nó với các tác phẩm tự sự khác. Trong văn học hiện đại có rất nhiều tác phẩm rất ngắn nhưng thực chất là những truyện dài được viết ngắn lại. Truyện ngắn thời trung đại cũng ngắn nhưng rất gần với truyện vừa. Các hình thức truyện kể dân gian rất ngắn gọn như cổ tích, truyện cười, giai thoại… lại không phải là truyện ngắn. Với tư cách là một thể tài tự sự, truyện ngắn hiện đại ít nhiều mang những đặc tính của tư duy tiểu thuyết. Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Cho nên, truyện ngắn đích thực xuất hiện tương đối muộn trong lịch sử văn học. Với dung lượng nhỏ gọn, truyện ngắn có thể có mặt kịp thời trước sự biến chuyển của đời sống. Mấy chục năm qua, dân tộc ta đã trải qua nhiều biến chuyển to lớn, phong phú. Truyện ngắn rất thích hợp để nhà văn nhanh chóng tìm hiểu, phản ánh và bày tỏ ý kiến trước những vấn đề mới, nóng bỏng đang đặt ra trong xã hội. Có thể nói, truyện ngắn là một thể loại “xung kích” giàu tính năng động, được ví như “một người lính trinh sát trên các bước chuyển của đời sống và văn học” [42,221]. Nếu tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó thì truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Truyện ngắn thường không nhằm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh mà thường nhằm khắc họa một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan hệ con người hay đời sống tâm hồn con người. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 9 Tóm lại, chúng tôi nhận thấy các nhà nghiên cứu đã có những ý kiến tương đồng khi đưa ra định nghĩa về thể loại truyện ngắn. Tất cả coi truyện ngắn là một “tác phẩm tự sự cỡ nhỏ”, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội. Điểm chung cơ bản là sự giới hạn về dung lượng của truyện ngắn và thích hợp với người tiếp nhận đọc “liền một mạch không nghỉ”. Theo chúng tôi, để nhận diện truyện ngắn cần dựa vào hai tiêu chí chính là dung lượng và thi pháp. Các yếu tố như nhân vật, cốt truyện, tình huống, kết cấu, lối trần thuật, giọng điệu... được coi là cơ bản khi tìm hiểu thể loại này. Tuy nhiên, như một cơ thể sống bất kỳ, truyện ngắn trong quá trình hình thành và phát triển lại thâu nạp thêm những đặc điểm mới bởi sự thâm nhập, tác động lẫn nhau giữa các thể loại văn học cũng như do cách đọc của thời đại quy định. Truyện ngắn sau 1975 tập trung nghiên cứu hiện trạng tinh thần xã hội sau chiến tranh. Đó là hiện trạng phức tạp và đa dạng đan xen các mặt tích cực và tiêu cực. Trước thực trạng đó, các nhà văn đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, viết về sự thật. Chính vì vậy, văn học sau 1975 nói chung, truyện ngắn nói riêng đã mở rộng biên độ phản ánh, có cái nhìn đa diện về hiện thực và con người nên đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. 1.2. Truyện ngắn viết về chiến tranh thời hậu chiến 1.2.1 Tiền đề lịch sử, chính trị - xã hội, văn hoá – tƣ tƣởng làm nảy sinh nền văn học mới 1.2.1.1 Tiền đề lịch sử, chính trị - xã hội Bất cứ một nền văn học chân chính nào, sự ra đời và phát triển của nó đều gắn bó sâu sắc với thời đại sinh ra nó, thực hiện xuất sắc nhiệm vụ của thời đại đó. Cũng như các loại hình nghệ thuật khác, văn học chịu sự chi phối, tác động của hoàn cảnh lịch sử, chính trị - xã hội. Điều này đã trở thành quy luật. Văn học Việt Nam sau 1975 cũng không phải là ngoại lệ. Sau thắng lợi mùa xuân 1975, đất nước bước sang một trang mới. Cùng với niềm hạnh phúc của cuộc sống thời bình, chúng ta phải đứng trước vô vàn khó khăn thử thách. Đất nước lại phải đối mặt với một cuộc chiến khác không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 10 tiếng súng nhưng đầy cam go, quyết liệt. Đó là cuộc đọ sức giữa cái tốt và cái xấu, cái thật và cái giả, cái thiện và cái ác... ngày càng phức tạp, tinh vi. Đúng như nhà văn Nguyên Ngọc nhận định: “Trong cuộc vận động quyết liệt đó, cái thiện vươn lên, thắng lợi một keo. Cái ác phải lùi lại, có lúc tưởng đã bị tiêu diệt. Nhưng rồi té ra nó chỉ chuyển đổi vị trí. Một bộ phận của cái thiện lại chuyển sang phía cái ác. Cái ác càng mạnh hơn. Và cuộc đấu tranh lại bắt đầu mãi mãi...” [50]. Từ thực tiễn lịch sử, chính trị - xã hội ấy, đổi mới về mọi mặt trong đó có văn học nghệ thuật là một yêu cầu bức thiết. Đại hội VI của Đảng đã đem tới một “làn gió mới” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và đời sống văn học nghệ thuật nói riêng. Đây là thời điểm ghi nhận sự đổi mới tư duy trên tất cả các lĩnh vực để bắt kịp với quy luật của sự phát triển. Vì lẽ đó, văn học không thể đứng ngoài guồng quay ấy và đã cùng các lĩnh vực khác góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới của dân tộc. Như vậy, công cuộc đổi mới mà Đảng đã và đang tiến hành đem đến cho đất nước một sinh khí mới trên các lĩnh vực: chính trị - xã hội, kinh tế và văn hoá tư tưởng. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực ấy, xã hội vẫn tồn tại những hạn chế, tiêu cực làm cho chuẩn mực đạo đức, nhân cách con người đang có chiều hướng xuống cấp. Do vậy, nói như Nguyễn Minh Châu, đấu tranh đẩy lùi tiêu cực, tệ nạn xã hội là “chiến đấu cho quyền sống của từng con người ngày càng tốt đẹp”. Chính cuộc chiến đấu đó mới lâu dài. 1.2.1.2 Tiền đề văn hoá – tư tưởng Hiện thực cuộc sống thay đổi. Hiện thực ấy không chỉ là hiện thực cách mạng với các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà còn là hiện thực của đời sống hàng ngày với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan, phức tạp, chằng chịt đan xen những mạch nổi và mạch ngầm của đời sống. Hiện thực còn là đời sống cá nhân của mỗi con người với những vấn đề riêng tư cá thể. Chính vì hiện thực cuộc sống thay đổi nên nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu thưởng thức văn nghệ của công chúng cũng thay đổi. Công chúng độc giả yêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 11 cầu và mong muốn có được một nền văn nghệ đổi mới. Nếu như văn học giai đoạn trước chủ yếu được nhìn nhận như là vũ khí tư tưởng của cách mạng và đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp cách mạng thì văn học hôm nay cũng không từ bỏ vai trò vũ khí tinh thần, tư tưởng của nó, nhưng được nhấn mạnh ở sức khám phá thực tại, thức tỉnh ý thức về sự thật với vai trò dự báo và tiên cảm. Văn học không chỉ là tiếng nói chung của cộng đồng dân tộc, của thời đại như trước đây mà nó còn là phát ngôn của mỗi cá nhân. Quan niệm về kiểu nhà văn cũng được thay đổi. Người đọc hôm nay đòi hỏi ở mỗi nhà văn một nhà tư tưởng, một nhà hành động xã hội để không chỉ soi sáng mà còn gợi suy nghĩ của họ để cùng bàn bạc, đối thoại với mọi vấn đề trong cuộc sống. Từ đó, mối quan hệ giữa bạn đọc và nhà văn cũng được thay đổi theo hướng dân chủ hoá. Người đọc thực sự được tôn trọng, là chủ thể tiếp nhận. Nhà văn cũng không còn là người độc quyền ban bố, phán truyền các chân lý nữa mà song hành cùng người đọc khám phá chân lý. Nhà văn trở thành người đối thoại bình đẳng với người đọc cùng thời về tất cả những vấn đề mà cả hai bên cùng quan tâm, lo lắng và đang tìm lời giải cho chính mình. Nếu trước đây, nhiệm vụ của nhà văn chủ yếu là ngợi ca và khẳng định cuộc chiến đấu vĩ đại của cả dân tộc thì giờ đây, cuộc sống đòi hỏi nhà văn trở thành người phát hiện, phân tích và đánh giá những vấn đề đang biến động để tìm ra những sự thật lịch sử, dù đó là niềm vui hay nỗi buồn, là thành công hay thất bại, là ánh sáng hay bóng tối, là cái đã xác định được hướng đi hay là những nghi vấn đối với xã hội và con người. Những điều này đòi hỏi văn học phải chuyển kịp với thời đại, phù hợp với hiện thực mới. Có thể nói, sự thay đổi của văn học diễn ra trên mọi thể loại. Trong đó, văn xuôi, đặc biệt là truyện ngắn là thể loại có sự thay đổi nhanh nhất, dễ nhận ra nhất. Đề tài chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng lớn cho nhiều nhà văn. Trong các tác phẩm, phạm vi hiện thực được mở rộng, có sự bổ sung những miền hiện thực mới mà trước đây chưa có hoặc rất ít được nói đến. Nếu hiện thực trong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 12 chiến tranh đề cập đến những cam go, khốc liệt nhưng rất hào hùng của dân tộc thì hiện thực sau chiến tranh còn nêu lên những mặt trái của cuộc chiến với những thất bại, những sai lầm, thiếu sót, thậm chí cả sự tha hoá, phản bội, hèn nhát trong hàng ngũ cách mạng. Và không phải ngẫu nhiên Nguyễn Minh Châu kêu gọi văn nghệ sĩ “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ”. Đó là lời khẩn thiết về tinh thần trách nhiệm của từng cá nhân nghệ sĩ trong mối quan hệ với đời sống xã hội. Theo đó, người nghệ sĩ không chỉ phản chiếu cái nhìn hiện thực của cộng đồng mà còn có trách nhiệm, bằng lao động nghệ thuật, làm phong phú hơn cái nhìn đó bằng những sáng tạo cá nhân. Trong văn học Việt Nam từ sau năm 1986, người đọc liên tục chứng kiến những “đột biến”, những hiện tượng “lạ”, cả những phẩm chất chưa từng có trước đó. Công chúng từ chỗ thờ ơ với văn học nghệ thuật đã trở lại theo dõi văn học nghệ thuật một cách thích thú, hồi hộp, ngạc nhiên, sửng sốt. Thậm chí như bị “shok” (sốc). Đó là sự xuất hiện tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu (1986). Tác phẩm này đã trở thành sự kiện của văn học, góp phần quan trọng cho sự khởi sắc của thể loại tiểu thuyết. Tiếp nữa là sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp với Tướng về hưu in trên báo Văn nghệ ngày 20/6/1987 làm xôn xao dư luận. Truyện ngắn này được xem như sản phẩm của một tài năng độc đáo. Đó còn là sự xuất hiện của Phạm Thị Hoài với tiểu thuyết Thiên sứ, Phùng Gia Lộc với bút ký Cái đêm hôm ấy đêm gì… Đặc biệt, năm 1991, ba cuốn tiểu thuyết đạt giải nhất Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam: Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh) gây được một sự bất ngờ lớn đối với bạn đọc. Trong đó, Nỗi buồn chiến tranh đã tạo phản ứng nhiều chiều cho bạn đọc cả khi xuất bản lẫn khi nhận giải thưởng… Gần đây, một số tiểu thuyết viết về chiến tranh đã gây được tiếng vang trong công chúng như Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh (2000), Khúc bi tráng cuối cùng của Chu Lai (2004), Những bức tường lửa của Khuất Quang Thuỵ (2005), Cõi đời hư thực của Bùi Thanh Minh (2007), Sóng chìm của Đình Kính (2008)… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 13 Truyện ngắn ở mảng đề tài chiến tranh và người lính có thể kể đến: Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi), hàng loạt truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Cơn giông…; truyện ngắn của Bảo Ninh: Trại “Bảy chú lùn”, Khắc dấu mạn thuyền, Rửa tay gác kiếm…; Đêm nguyệt thực của Trung Trung Đỉnh; Có một đêm như thế của Phạm Thị Minh Thư; Chiều vô danh của Hoàng Dân; Tiếng vạc sành của Phạm Trung Khâu; Làng xa và Nhịp điệu khải hoàn của Đỗ Văn Nhâm… Văn học sau 1975, đặc biệt là sau 1986 đang vận động, chuyển biến do những yêu cầu và tác động xã hội mạnh mẽ, sâu sắc. Nó đang tự biến đổi do chính những nhu cầu và đòi hỏi bên trong, vì sự tồn tại và phát triển hợp với quy luật. Trong quá trình đó, nó vừa kế thừa những truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn học dân tộc đã hình thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử riêng biệt, vừa phải dần khước từ những gì đã lỗi thời để làm giàu có thêm những đặc điểm mới. 1.2.2. Những cách tân của truyện ngắn viết về chiến tranh thời hậu chiến “Văn học hậu chiến là một khái niệm ước lệ chỉ một giai đoạn văn học ngay sau chiến tranh mà cảm hứng chính của nó vẫn là suy ngẫm về chiến tranh trong hoàn cảnh mới, của những con người vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, còn bị chi phối bởi quán tính cuộc chiến” [30]. Việc xác định khung thời gian tồn tại của văn học hậu chiến chưa được thống nhất. Có người cho đó là văn học hai mươi năm sau chiến tranh (1975 - 1995), có người lại nhấn mạnh vào mười lăm năm trước thềm thế kỷ mới (1986 - 2000). Khi dư âm của cuộc chiến còn sâu đậm và tạo thành lực hút mạnh mẽ với người cầm bút thì nhu cầu nhìn lại cuộc chiến vừa qua trở thành một tâm lý thường trực. Đó là lúc cuộc sống thời hậu chiến đặt con người, nhất là người lính vào những ngổn ngang, bộn bề, phức tạp, những lạc lõng, chơi vơi khiến họ bật lên những câu hỏi về hôm qua và hôm nay như một sự tái nhận thức chiến tranh và cuộc sống. Như vậy, việc xác định thời gian chỉ mang tính tương đối, không thể vạch ra một ranh giới cụ thể và khái niệm văn học hậu chiến cũng chỉ mang tính ước lệ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 14 Chiến tranh dù đó là loại gì và diễn biến trong một thời gian dài hay ngắn thì đều để lại những dấu ấn đặc biệt, không thể phai mờ trong lịch sử và số phận của một dân tộc. Ý nghĩa và quy mô của cuộc chiến tranh càng lớn, thời gian của cuộc chiến càng dài thì sức tác động của nó càng trở nên sâu sắc và mãnh liệt. Về phương diện này, hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ trong 30 năm (1945 - 1975), (nếu tính cả chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc cuối những năm 70 thì ngót 40 năm) là những sự kiện cực kì quan trọng trong lịch sử nhân loại thời kì hiện đại. Hiếm có một dân tộc nào phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh có quy mô lớn và tính chất khốc liệt trong một thời gian dài như vậy. Với ý nghĩa đó, mặc dù đất nước đã hòa bình nhưng hậu quả và dư âm chiến tranh chưa hề chấm dứt. Thậm chí, nó vẫn tồn tại dai dẳng trong tâm trí nhiều thế hệ. Dấu ấn chiến tranh đã và đang khắc sâu trong toàn bộ đời sống tinh thần - tâm lý của xã hội và ở từng con người. Sinh ra và phát triển trong lòng của cuộc đấu tranh vĩ đại ấy, văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 đã phản ánh trung thành, chân thật, sinh động hiện thực chiến tranh cách mạng của nhân dân ta. Trước một hiện thực đang diễn ra cực kì sôi động, phức tạp, ngay từ đầu văn học phải giải quyết nhiệm vụ không đơn giản: vừa phải bao quát cuộc chiến tranh trong tiến trình rất khẩn trương, đầy biến đổi với những chiều rộng luôn luôn mở ra trên mọi bình diện của đời sống, vừa phải chiếm lĩnh, đi vào bản chất, chiều sâu của hiện thực với những vấn đề cốt lõi, nóng bỏng của nó. Văn học giai đoạn này đã vươn lên không ngừng làm người bạn đường thân thiết và tin cậy của nhân dân đang chiến đấu, góp phần không nhỏ cho công cuộc đánh đuổi quân xâm lược. Nhiệm vụ lịch sử ấy của văn học trong những năm chiến tranh đã hoàn thành. Đó là một nền văn học “xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”. Văn học đã lên án mạnh mẽ tính chất vô nhân đạo của chiến tranh xâm lược, đồng thời khẳng định lý tưởng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 15 giải phóng dân tộc và giải phóng con người, chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chiến tranh kết thúc, đề tài chiến tranh, cho đến nay vẫn cứ là một đề tài lớn, “một kho chất liệu không thể nào vơi cạn trong nghĩ suy và cảm xúc của con người” (Phong Lê). Tuy không chiếm vị trí số một như văn học giai đoạn trước nhưng đề tài chiến tranh và người lính vẫn phản ánh rõ nét quá trình chuyển biến của ý thức văn học, nhất là từ khi đất nước bước vào thời kì đổi mới. Trong quan niệm của nhiều nhà văn, chiến tranh vẫn là “siêu đề tài”, người lính vẫn là “siêu nhân vật”, càng khám phá càng thấy những “độ rung không mòn nhẵn”. Điều đó khẳng định văn học thời bình vẫn luôn quan tâm dành cho đề tài chiến tranh và người lính những trang viết đầy tâm huyết và chân thành. Văn học suy cho cùng là sự phản ánh đời sống, là “một cách sống với hiện thực” bởi “hồn cốt của văn chương là đời sống con người”. Văn học những năm sau chiến tranh đã bước sang một quỹ đạo mới, với sự hình thành một đội ngũ viết mới bên cạnh thế hệ cầm bút đã đi qua chiến tranh. Họ đã viết về hiện thực của ngày hôm qua và hôm nay từ những cảm quan của hiện tại. Các nhà văn đã ý thức được việc phải thay đổi lối viết. Nói cách khác, đổi mới là yêu cầu tự thân của người cầm bút. Sự thay đổi trạng thái đời sống, ý thức cách tân của chủ thể sáng tạo đã dẫn đến những đột phá trong cách tiếp cận và xử lý chất liệu hiện thực. Trong văn học sau 1975, tâm điểm sáng tạo của các cây bút không còn là con người xã hội, con người công dân mà là con người bản thể trong tính đa diện, phức tạp. Cùng với cái nhìn mới về con người, các cây bút truyện ngắn đã đem đến cho văn học những sắc thái mới. Sự xuất hiện của truyện ngắn Hai người trở lại trung đoàn (Thái Bá Lợi) năm 1977 đã làm cho người đọc ngỡ ngàng bởi lối tiếp cận đời sống từ những góc khuất mà trước đó văn học chưa chạm tới: con người của đời thường trong chiến tranh. Trước đây, đối tượng thẩm mỹ của nhà văn là con người biết hy sinh vì Tổ quốc, hết mình vì công việc chung và luôn tâm niệm trong mình ý nghĩ “còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc cả”. Con người đó thường được miêu tả trong xu hướng chiến thắng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 16 và chủ yếu nghiêng về con người xã hội. Với Hai người trở lại trung đoàn, Thái Bá Lợi đã cho thấy hai mặt sáng tối trong một con người. Ở đây, con người được phát hiện và thể hiện chủ yếu trên bình diện đạo đức, được tìm hiểu trong tiến trình hình thành nhân cách mà chiến tranh lại chính là môi trường bộc lộ tính chất phức tạp của tính cách con người. Nhân vật Trí vốn là một tổ trưởng trinh sát giỏi trong chiến đấu nhưng trong tình yêu anh ta sẵn sàng dùng thủ đoạn để hạ tình địch của mình. Cho dù đó là người bạn đã từng vào sinh ra tử với anh ta nhưng trong lòng chỉ gợn lên một chút ân hận. Nó “chỉ thoáng qua như tiếng xẹt của một viên đạn cỡ nhỏ trong một trận đánh lớn”. Sau này, trong những bậc thang danh vọng của cuộc đời mình, anh ta còn tiếp tục dẫm đạp lên nhiều giá trị tinh thần khác. Ở truyện ngắn này, tác giả đã từ bỏ lối nhìn giản đơn, một chiều về con người nhưng vấn đề đạo đức con người mới được đặt ra một cách khá dè dặt. Cách xử lí của tác giả cũng rất nhẹ tay. Vì thế, chúng ta thấy nhân vật vẫn chưa phải nhận bất kì sự trả giá nào cho những vi phạm đạo đức mà anh ta gây ra. Sau Hai người trở lại trung đoàn, nhiều tác phẩm khác đã hướng tới việc khám phá con người trong tính đa diện hơn, toàn vẹn hơn: từ con người nhận thức trong Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), con người với những khao khát hạnh phúc trong Hai người đàn bà xóm trại (Nguyễn Quang Thiều), trong sáng tác của các nhà văn nữ (Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Trần Thuỳ Mai…) đến con người với những mảng khuất của thế giới tâm linh trong Bến trần gian (Lưu Minh Sơn), con người tha hoá nhân cách trong Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp)… Chưa bao giờ như bây giờ, con người trong văn chương và những vấn đề của đời sống hiện đại được người viết khai thác ở nhiều chiều kích, được lý giải ở nhiều khía cạnh, nhiều phương diện khác nhau đến vậy. Do nhu cầu mới của xã hội đang ở giai đoạn bước ngoặt, văn học cần phải nhận thức lại một cách nghiêm khắc quá khứ của chính mình để rút ra kinh nghiệm và bài học cho hiện tại. Do nhu cầu, trình độ của người đọc và sự phát triển về chiều sâu tư duy sáng tạo của đội ngũ đông đảo nhà văn chuyên viết về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2