Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Truyện ngắn Đoàn Lê
lượt xem 2
download
Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn Đoàn Lê, luận văn nhằm mục đích: Nhận diện và miêu tả những đặc điểm truyện ngắn Đoàn Lê về nội dung và nghệ thuật. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc, riêng biệt của Đoàn Lê trong cách thể hiện cuộc sống và con người; khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong đời sống văn học đương đại và ghi nhận đóng góp của cây bút nữ này với thể loại truyện ngắn.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Truyện ngắn Đoàn Lê
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI VŨ NGỌC TRÂM TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn1
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM BÙI VŨ NGỌC TRÂM TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÍCH THU THÁI NGUYÊN - 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn2
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012 Tác giả luận văn Bùi Vũ Ngọc Trâm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn3
- LỜI CẢM ƠN Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Bích Thu, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học, cán bộ phòng quản lý khoa học trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu tại trường. Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới BGH, bạn bè, đồng nghiệp trường THPT Thác Bà, Sở GD & ĐT tỉnh Yên Bái cùng gia đình và những người thân yêu đã động viên, quan tâm chia sẻ và tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành tốt khoá học này. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012 Tác giả luận văn Bùi Vũ Ngọc Trâm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn4
- i MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cảm ơn Lời cam đoan Mục lục ........................................................................................................... i MỞ ĐẦU........................................................................................................1 NỘI DUNG ..................................................................................................10 Chương 1. TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM SAU 1975 ............................................10 1.1. Khái lược truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ...................................... 10 1.1.1. Một số vấn đề lý thuyết thể loại. ...................................................10 1.1.2. Bối cảnh lịch sử - thẩm mĩ của văn học Việt Nam sau 1975 .........13 1.1.3. Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ..................................................16 1.2. Khái lược về thế hệ nhà văn nữ Việt Nam sau 1975 ........................ 18 1.2.1. Sự nối tiếp của nhiều thế hệ cầm bút ............................................18 1.2.2. Một số biểu hiện của “đặc điểm giới” trong tác phẩm của các nhà văn nữ 1975 .....................................................................................20 1.3 Đoàn Lê - một cây bút nữ độc đáo của văn học Việt Nam sau 1975 22 1.3.1. Người phụ nữ đa tài, đa đoan........................................................22 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác phong phú ......................................................27 1.3.3. Vị trí truyện ngắn trong sáng tác của Đoàn Lê ..............................30 Chương 2. BỨC TRANH HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ.......................................................................34 2.1. Ý thức của nhà văn với hiện thực đời sống..................................... 34 2.1.1. Đi sâu khai thác mảng đề tài thế sự..............................................34 2.1.2. Ý thức đối thoại ngầm với những quan niệm sáng tạo đương đại......41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn5
- ii 2.2. Hình tượng xóm Chùa và các vấn đề đạo đức – xã hội đương đại . 46 2.2.1. Tác động của nền kinh tế thị trường và sự băng hoại các giá trị đạo đức...................................................................................................46 2.2.2. Chân dung nhân cách méo mó, bi hài ..........................................52 2.2.3. Thân phận người phụ nữ trong xã hội hiện đại.............................58 2.3. Thế giới tưởng tượng trong truyện ngắn Đoàn Lê........................... 63 2.3.1. Thế giới cõi âm, giấc mơ, sự biến hình .........................................63 2.3.2. Tưởng tượng – một cách nhận thức về thực tại .............................73 2.4. Yếu tố tự truyện trong truyện ngắn Đoàn Lê ................................... 74 2.4.1. Nét riêng của yếu tố tự truyện trong sáng tác Đoàn Lê .................74 2.4.2. Những trải nghiệm và tâm tư của Đoàn Lê ...................................76 Chương 3. MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ .......................................................78 3.1. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện .......................................... 78 3.1.1. Tình huống hiện thực....................................................................78 3.1.2. Tình huống giả tưởng – hài hước ..................................................79 3.1.3. Tình huống giả tưởng – kinh dị.....................................................81 3.1.4. Sự đan xen các tình huống ............................................................82 3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ................................................. 83 3.2.1. Nắm bắt nhanh các trạng thái tâm lý nhân vật...............................83 3.2.2. Sắc sảo và hài hước trong cách sử dụng các chi tiết mô tả ............86 3.3. Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê ......... 87 3.3.1. Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê...........................87 3.3.2. Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê .........................89 KẾT LUẬN..................................................................................................94 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn6
- CHÂN DUNG NHÀ VĂN ĐOÀN LÊ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn7
- 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt sau 1986, trong không khí dân chủ hóa của đời sống văn học, truyện ngắn Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Hòa vào dòng chảy ấy không thể không kể đến những đóng góp của các nhà văn nữ thời kỳ đổi mới. Trên văn đàn, sự hiện diện truyện ngắn của những cây bút nữ đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc như Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Ngọc Tư,…Trong số đó, sáng tác của Đoàn Lê dù không ồn ào gây “sốc” như một số tác giả nữ trẻ khác nhưng đọc tác phẩm của chị, độc giả dễ ấn tượng với con người, cuộc sống, với cảm hứng và cách viết của nữ sĩ. Sáng tác của Đoàn Lê thực sự đã làm sinh động, phong phú thêm cho đời sống văn xuôi nói riêng và văn học nước nhà nói chung. Đoàn Lê tên thật là Đoàn Thị Lê, sinh ngày 15.04.1943 ở thành phố Bengich (nay là phố Lê Lợi – Hải Phòng). Không riêng gì ở Hải Phòng mà đối với giới văn nghệ sĩ cả nước tên tuổi nữ sĩ Đoàn Lê đã trở nên quen thuộc. Gọi chị là nhà văn, họa sĩ, nhà biên kịch, diễn viên hay đạo diễn đều đúng cả. Những “cầm kỳ thi họa” đem lại cho Đoàn Lê một danh tiếng tài hoa. Học vẽ từ bậc thầy như Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên. Học điện ảnh từ các bậc thầy của Nga và Việt Nam. Khởi nghiệp biên kịch điện ảnh với những tác phẩm được đồng nghiệp đánh giá tốt. Nhưng cuối cùng, văn xuôi mới là sở trường của người đàn bà thành phố cảng, vẻ thùy mị duyên dáng song hành với tính cách một người đàn bà quyết đoán, sắc sảo. Những điều dường như xung khắc ấy cùng lúc tồn tại trong một con người, dệt nên những trang văn xuôi tài hoa, vừa dịu dàng, vừa quyết liệt, lôi cuốn sự chú ý của người đọc cũng như giới nghiên cứu, giảng dạy văn học Việt Nam đương đại. Nói như Đoàn Lê: “tôi đặc biệt thích viết truyện ngắn, chỉ những gì không thể viết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn8
- 2 ngắn được thì tôi đành chịu”. Hơn thế nữa, ở nữ nhà văn này, người đọc nhận ra sự hội tụ các yếu tố của nhiều loại hình nghệ thuật: điện ảnh, hội họa, thi ca qua các trang văn của chị. Những tiểu thuyết đầy trăn trở tâm huyết của chị như Cuốn gia phả để lại, Lão già tâm thần, Người đẹp và đức vua, Tiền định gây được nhiều thiện cảm với bạn đọc. Cuốn gia phả để lại ngay khi mới ra mắt công chúng đã được nhận giải thưởng văn học của Hội nhà văn Việt Nam (1990). Song phải kể đến thành quả chị nhận được ở truyện ngắn. Truyện của chị được dịch tại Mỹ, Thụy Điển, Đức và ở đâu cũng được hoan nghênh. Có thể kể tên những tập truyện ngắn của Đoàn Lê như Thành hoàng làng xổ số, Trinh tiết xóm Chùa, Người khách đêm giao thừa, Nghĩa địa xóm Chùa, …Và Sex. Đọc văn chị, ta bị cuốn hút bởi cách viết dung dị, những nhận xét hóm hỉnh và sâu sắc về nhân tình thế thái, về những buồn vui ấm lạnh của cuộc đời. Truyện ngắn của Đoàn Lê là một tiếng nói quen thuộc mà mới lạ, mang đậm dấu ấn sáng tạo của nhà văn. Đến nay, tuy đã có một số bài giới thiệu, bình luận, đánh giá về tác phẩm Đoàn Lê của một số nhà văn, nhà nghiên cứu nhưng vẫn chưa phải là những công trình mang tính hệ thống, khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong dòng văn học nữ đương đại và rộng ra trong nền văn xuôi Việt Nam đương đại. Trên đây là những lý do để chúng tôi chọn đề tài cho luận văn của mình là TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ. Tìm hiểu đề tài này, chúng tôi muốn tiếp cận và nhận diện những thành tựu về nội dung cũng như về nghệ thuật của truyện ngắn Đoàn Lê, đồng thời đặt sáng tác của chị trong sự vận động và đổi mới của văn xuôi Việt Nam đương đại. 2. Lịch sử vấn đề Đam mê và miệt mài, viết văn, làm thơ, biên kịch, đạo diễn phim và vẽ tranh, một Đoàn Lê vẫn tiếp diễn trên con đường văn học nghệ thuật với nhiều chữ “sĩ”. Cuộc đời chị là vậy, đa mang, truân chuyên nhưng những đứa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn9
- 3 con tinh thần của người đàn bà mảnh mai và cương nghị này lại có sức hấp dẫn, cuốn hút độc giả và giành được những giải thưởng danh giá. Trong quá trình tìm hiểu về Đoàn Lê và tác phẩm của chị, chúng tôi thu thập được một số bài viết để tạo cơ sở cho một cái nhìn bao quát về truyện ngắn Đoàn Lê. 2.1. Những ý kiến, những bài viết có tính chất khái quát về truyện ngắn Đoàn Lê. Trong các bài viết về sáng tác của Đoàn Lê, chúng tôi để ý nhiều đến những bài viết của nhà văn Hồ Anh Thái – một nhà văn đã có cả một quá trình theo dõi những sáng tác của chị. Với số lượng bài viết về Đoàn Lê nhiều hơn cả, ông đã nắm được cái “thần” rất riêng, độc đáo trong giọng văn của chị: “ Một giọng văn được nhớ, nền nã, dung dị bao giờ cũng kèm theo chất hài hước ngấm ngầm” [60]. Hồ Anh Thái đã rất chú ý đến nghệ thuật sử dụng những yếu tố kì ảo của nữ văn sĩ này. Ông cho rằng yếu tố kì ảo của Đoàn Lê trong những truyện tiêu biểu nhất ấy là “cái thực lẫn với cái ảo chỉ làm lạ hóa, chỉ thay đổi một góc nhìn hiện thực chứ không phải yếu tố xoay chuyển và quyết định hiện thực nghệ thuật ” [59]. Chú ý đến bút pháp và giọng điệu, tạp chí Kirkus Peviews nhận xét: “Thảng hoặc Đoàn Lê có xu hướng ngụ ngôn kiểu Kafka như Lên ruồi…ở chỗ khác, những truyện ngắn đạt tới giọng điệu riêng tư thấm thía như trong Giường đôi xóm Chùa…” [60]. Nghệ sĩ ưu tú Ngọc Hiền – một người bạn của nhà văn, cũng có tới hai bài viết về chị. Ở Đoàn Lê – những cung bậc cuộc đời (http://vietbao.com.vn) đã đưa những nhận định không thể phủ nhận: “…Có lẽ nếm trải cuộc đời với đầy đủ những cung bậc buồn vui, những hạnh phúc và bất hạnh đã qua của người đàn bà đa đoan này đã làm nên những trang viết mang màu sắc Đoàn Lê”. Và thực sự là như thế, “không phải ngẫu nhiên mà những tác phẩm gan ruột của chị, chị đã có chỗ đứng thật đẹp trong trái tim người đọc” [27]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn10
- 4 Về nghệ thuật xây dựng nhân vật, Việt Hà với bài viết Người khách đêm giao thừa – phút trải lòng của Đoàn Lê nêu đặc điểm: “nhân vật trong truyện ngắn Đoàn Lê thường có những thiệt thòi về ngoại hình…Chính từ nhân vật kia nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp bất tử của tình yêu nguyên vẹn…” [35]. Trong bài Thấp thoáng Đoàn Lê (Báo Văn nghệ số 31 ra ngày 4/8//2012), tác giả Vũ Quốc Văn đã nhận xét về truyện ngắn Đoàn Lê: “Nó (Truyện ngắn Đoàn Lê – Bùi Vũ Ngọc Trâm) như gió, như nước, hư thực hữu hình, vô ảnh cuốn người ta, mê hoặc người ta khôn cưỡng lại để cười, buồn thương, xót xa rồi mở mắt mà thức ngộ, mà nhận chân cuộc sống” [71]. 2.2. Những ý kiến, những bài viết về một tập truyện, một tác phẩm cụ thể. Ý kiến của tác giả Bonnier Crown (NewYork) trên tờ WorldLiterature Today về tập truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa (The cemetery of Chua village) – tập truyện được nhà xuất bản Curbtone Press ấn hành và có mặt trong hệ thống hiệu sách toàn nước Mỹ, được giới thiệu và bán trên mạng amazon.com. Trong bài viết, tác giả nói lên cảm nhận chung của mình khi đọc tập truyện này: “ Đoàn Lê đã viết những truyện ngắn như những viên đá quý, những truyện ngắn có thể đọc như truyện phúng dụ, châm biếm, huyễn tưởng. Dù thuộc loại gì đi nữa, “Nghĩa địa xóm Chùa” cũng khiến người đọc bật khóc bật cười… tập truyện ngắn phản ánh sự suy sụp các giá trị truyền thống trước sự tham lam, hám lợi, quan liêu, đua đòi, sự áp bức giai cấp và tình dục, sự tham nhũng và vi phạm nhân quyền…tác phẩm này của Đoàn Lê rất đáng được giới thiệu vì văn phong tinh tế, linh hoạt, nó không chỉ là một sự lựa chọn tốt cho văn học châu Á, mà còn cho các lớp học viết văn” [73]. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi biên tập để in truyện ngắn Nghĩa địa xóm Chùa trên tạp chí Tác phẩm mới đã nói về cảm xúc của mình khi đọc: “hay Đoàn Lê nghi có mầm bệnh trong người? Chỉ có người ốm mới dám viết về những truyện khủng khiếp như vậy” [40]. Cùng chia sẻ với cảm nhận ấy, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn11
- 5 tác giả Mai Ngọc bàn thêm: “Truyện ngắn này có phong cách rất mới. Nhân vật trong truyện là những người đã chết. Chết nhưng vẫn sống trong thế giới riêng, song song với thế giới của những người sống. Ở đây, những người chết nhìn, nghe ngóng và phê phán chuyện của người sống, y hệt như khi họ còn sinh thời”. Qua tình huống nhầm lẫn “ khiến người đọc ám ảnh cho xã hội mà họ đang sống, nơi chỉ cần chút tiền “lót tay tiêu cực phí” là có thể thay đổi được cục diện” [35]. Để có được lời đánh giá cao như vậy của đồng nghiệp là điều mà không phải ai cũng có được. Tạp chí Nghiệp đoàn phát hành (Consotium Distributorn) khi giới thiệu tập truyện ngắn Trinh tiết xóm Chùa có viết: “Đoàn Lê được ghi nhận ở phong cách đa dạng và sức sáng tạo tươi mới. Với học giả, những truyện ngắn này cho một cái nhìn vào bên trong văn hóa Việt Nam sau đổi mới. Với người đọc nói chung, đây là những tác phẩm bao quát và đầy nhân văn về những đề tài như lòng tham, hôn nhân, ly dị, tuổi già; đó là những tác phẩm về quyền con người, khảo sát tất cả những gì bí ẩn tinh tế của trái tim con người” [41]. Cũng bàn về tập Trinh tiết xóm Chùa, giáo sư Nguyễn Lân Dũng, một người “ngoại đạo” với văn chương cũng phải thốt lên: “Đọc xong 16 truyện trong tập sách này lòng tôi đau xót quá. Đành rằng không phải chỗ nào cũng như xóm Chùa này, nhưng rõ ràng ở nhiều nơi nông thôn hiện đã không còn bình yên nữa…Những xóm Chùa vẫn hiện diện nơi này nơi nọ với những biến tướng khác nhau, nhưng đều giống nhau ở sự tha hóa” [18]. Trong bài viết Cảm hứng trào lộng trong văn xuôi sau 1975, tác giả Nguyễn Thị Bình đã đề cập đến cảm hứng trào lộng biểu hiện thông qua việc xây dựng các tình huống trào phúng trong văn xuôi sau 1975, tác giả nêu ví dụ: “Các tác phẩm Thành hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa của Đoàn Lê… đầy rẫy những tình huống trào phúng” [14] và trong chuyên luận Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995. Những đổi mới cơ bản, tác giả nhận xét: “…Thành hoàng làng xổ số, Đất xóm Chùa… là sự phóng đại hiện thực theo con mắt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn12
- 6 trào lộng”, còn Người đẹp xóm Chùa “là số phận của nghệ thuật chân chính trong môi trường phàm tục” [13]. Theo http://Vietbao.com, Hồ Anh Thái nhận thấy rằng ở Giường đôi xóm Chùa có sự “xót xa thấm thía, sự hợp tan của một tổ ấm thường ở bên ngoài ý chí của con người, có khi nó là bất khả tri”. Ở Người đẹp xóm Chùa, ông phát hiện ra rằng “hiện tại chỉ trong thoáng chốc được đẩy về thành quá khứ, khoảnh khắc hiện tồn bất chợt nhuốm màu trải nghiệm của cái đẹp đi qua thời gian trong mối tương tác với thời gian”, còn ở Mẹ và con và thánh thần, ta thấy “chị tự mổ xẻ theo kiểu không gây mê” [60]. Trên trang web của Tập đoàn tân tạo (Ita expess) có đăng bài viết bình luận về tập truyện ngắn Người khách đêm giao thừa, trong đó có đoạn “Tập truyện ngắn “Người khách đêm giao thừa” vẻn vẹn 12 truyện ngắn – 12 lần tâm linh tác giả run lên dưới cái rét cuộc đời. Những khoảnh khắc tận cùng của một giây cuối, một lần cuối và một con người đứng bơ vơ rồi đổ bóng xuống lòng nhân thế. Từng trang văn xuôi xông lên mùi cát bụi, mùi nước mắt, mùi mồ hôi nghe thật gần gũi thân quen” [35]. Ý kiến của Vũ Thị Huyền về tập truyện …và Sex cho rằng đây là “mảnh ghép cuộc sống luôn được bà phụng dựng – theo phong cách nào – vẫn cảm nhận được xã hội hiện đại với những mặt trái của thị trường. Những gió độc làm tàn úa một vùng văn hóa (A Tourism xóm Chùa). Nền tảng xã hội, tế bào xã hội – gia đình (Trinh tiết xóm Chùa) lung lay tận gốc. Và đặc biệt trong chuyện “Mẹ và con và thánh thần” (với lời đề “Tặng con trai tội nghiệp”), người đọc là tôi phải chùng lòng trước nỗi đau rứt ruột về tình mẫu tử của người mẹ mất con vì tệ nạn xã hội thay cho một khát vọng vào một kiếp sau mẹ lại là mẹ, con lại là con” [70]. Trên đây mới chỉ dừng lại ở phạm vi một bài báo hoặc những đánh giá khái quát nằm trong các tiểu luận mang tính khái quát về văn học. Về cơ bản, các bài viết, các ý kiến nêu trên đều đánh giá cao Đoàn Lê. Cho đến thời điểm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn13
- 7 này vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và hoàn chỉnh về truyện ngắn Đoàn Lê. Các bài viết còn lẻ tẻ nhưng là những gợi dẫn quý báu cho việc tiếp cận và triển khai luận văn của chúng tôi. 3. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc khảo sát, tìm hiểu truyện ngắn Đoàn Lê, luận văn nhằm mục đích: 3.1. Nhận diện và miêu tả những đặc điểm truyện ngắn Đoàn Lê về nội dung và nghệ thuật. Đồng thời chỉ ra những nét đặc sắc, riêng biệt của Đoàn Lê trong cách thể hiện cuộc sống và con người. 3.2. Khẳng định vị trí của Đoàn Lê trong đời sống văn học đương đại và ghi nhận đóng góp của cây bút nữ này với thể loại truyện ngắn. 4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đoàn Lê sáng tác nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,... Tuy nhiên, luận văn của chúng tôi chỉ tập trung vào thể loại truyện ngắn. Trong thể loại truyện ngắn, chúng tôi tập trung khai thác các khía cạnh về bức tranh hiện thực đời sống và một số phương thức thể hiện nghệ thuật như: xây dựng tình huống truyện, ngôn ngữ, giọng điệu… 4.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận văn chúng tôi tập trung vào việc khảo sát 5 tập truyện ngắn sau của Đoàn Lê: Thành hoàng làng xổ số (Nhà xuất bản Phụ nữ, 1990) Nghĩa địa xóm Chùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1999) Trinh tiết xóm Chùa (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2005) Người khách đêm giao thừa (Nhà xuất bản Phụ nữ, 2007) …và Sex (Nhà xuất bản Thanh niên, 2010) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn14
- 8 Ngoài ra, chúng tôi cũng sẽ chú ý tới một số truyện ngắn mới nhất, chưa được tập hợp in thành tập truyện của tác giả như: Cụ ngoại và tôi (04 – 2010) Con mốc (09 – 2010) Vua gái (10 – 2010) Mỹ nhân mèo (02 – 2011) Tình muộn (05 – 2011) Người xiếc chữ (07 – 2011) Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi có sự đối sánh truyện ngắn Đoàn Lê với một số tác phẩm của nhà văn nữ khác cùng thời. 5. Phương pháp nghiên cứu Để phục vụ cho mục đích nêu trên, luận văn này có kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: 5.1. Phương pháp hệ thống 5.2. Phương pháp thống kê, phân loại 5.3. Phương pháp phân tích tổng hợp 5.4. Phương pháp so sánh 6. Nhiệm vụ và đóng góp của luận văn 6.1. Nhiệm vụ Luận văn triển khai nhằm khẳng định thành tựu của truyện ngắn Đoàn Lê trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật như: Bức tranh hiện thực đời sống, phương thức xây dựng tình huống truyện, mô tả tâm lý nhân vật, giọng điệu và ngôn ngữ trần thuật. 6.2. Đóng góp của luận văn - Nhận diện những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn Đoàn Lê. Từ đó đưa ra một cái nhìn hệ thống về truyện ngắn Đoàn Lê. - Ghi nhận vị thế của Đoàn Lê ở thể loại truyện ngắn. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn15
- 9 - Bước đầu minh chứng được sự phong phú, đa dạng của bức tranh truyện ngắn nữ đương đại từ cái nhìn của một “mắt xích” truyện ngắn. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tham khảo, Nội dung của luận văn gồm ba chương: Chương 1: Truyện ngắn Đoàn Lê trong dòng chảy truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1975. Chương 2: Bức tranh hiện thực đời sống trong truyện ngắn Đoàn Lê Chương 3: Một số phương thức thể hiện nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn16
- 10 NỘI DUNG Chương 1 TRUYỆN NGẮN ĐOÀN LÊ TRONG DÒNG CHẢY TRUYỆN NGẮN NỮ VIỆT NAM SAU 1975 1.1. Khái lược truyện ngắn Việt Nam sau 1975 1.1.1. Một số vấn đề lý thuyết thể loại. Văn học Việt Nam kể từ sau 1975 đã bước sang một thời kì mới, với sự bừng nở của văn xuôi. Đặc biệt là từ giữa thập kỉ 80, khi ý thức văn hoá mới hình thành, hệ hình giá trị biến đổi thì văn học đã thực sự chuyển sang một hình thái khác trước, đánh dấu một bước phát triển mới trong lịch sử văn học dân tộc. Văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong bước ngoặt của dòng chảy hiện đại ấy. Trong đó, truyện ngắn, một thể loại văn học được coi là “xung kích” của đời sống văn học, một thể loại có tính chất “thuốc thử” đối với hầu hết nhà văn trên con đường sáng tạo nghệ thuật của mình. Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ. Nội dung thể loại của Truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn gọn. Bởi truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch. Tuy nhiên, mức độ dài ngắn chưa phải là đặc điểm chủ yếu phân biệt truyện ngắn với các tác phẩm tự sự khác (các loại truyện kể dân gian cũng có độ dài tương đương với truyện ngắn). Hình hài của truyện ngắn hiện đại như ta thấy hiện nay là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại. Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn17
- 11 Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Về cách nắm bắt cuộc sống của thể loại, truyện ngắn không có tham vọng ôm vào mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa với hàm súc, tinh lọc và hay” [63]. Nguyên tắc chưng cất của truyện ngắn không cho phép “dồn ép” hoặc “nhồi nhét” rút gọn nội dung của một truyện dài, hoặc một hình thức tương đương như thế, thành truyện ngắn. Truyện ngắn hiện nay được hình thành từ mối quan hệ con người với hoàn cảnh, mối quan hệ giữa thực chất sâu xa của hiện tượng với biểu hiện bên ngoài, những mặt này đôi khi lẫn lộn với nhau khiến người ta khó nhận ra một cách rành mạch. Từ những sự kiện riêng lẻ trong cuộc sống, những trường hợp cá biệt, người viết truyện ngắn phải tìm ra một cái gì chung, có ý nghĩa. Việc này giống như cách làm của người thợ ngọc. Đá thì rất nhiều, nhưng không phải đá nào cũng có ngọc. Người nghệ sĩ phải biết lựa chọn, rồi lại gia công thế nào, để cuối cùng làm bật ra vẻ đẹp bấy lâu vẫn ẩn tàng trong đá chết. Các tác giả truyện ngắn thường hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người. Ám ảnh và đầy ấn tượng cũng là một trong những cách thức chiếm lĩnh hiện thực và hấp dẫn người đọc của truyện ngắn. Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cô đúc, truyện ngắn có sức nén và sức công phá cao. Chỉ cần một ít trang văn xuôi, người viết có thể làm “nổ tung trong tình cảm và ý nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi không chán” [38, tr. 148]. Trong truyện ngắn hiện đại, nhiều khi cốt truyện gồm nhiều đường dây cùng tồn tại, liên quan tới các hiện tượng mà bề ngoài dường như không có gì liên quan tới nhau. Trong thời đại hiện nay, khi kỹ thuật đã phát triển tới một trình độ rất cao, nhân loại vẫn luôn luôn phải đối mặt với những vấn đề không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn18
- 12 thể giải quyết, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của cuộc sống. Nhưng chính trong một thế giới như vậy, văn học lại có điều kiện tìm ra mối quan hệ phức tạp của các hiện tượng khác nhau. Với đặc trưng hết sức năng động, phản ứng rất nhanh, dễ điều chỉnh và mau thu được kết quả, thể loại truyện ngắn có thể dễ dàng theo dõi các qui luật sáng tạo của nhà văn, cùng là theo dõi việc giải quyết những vấn đề được đề cập tới trong văn học. Bên cạnh đó truyện ngắn cũng cho phép và khuyến dụ người viết thử nghiệm các phương pháp, hình thức mới. So với việc phiêu lưu trong một thời gian gian dài với một cuốn tiểu thuyết, việc “chơi” với một câu chuyện ngắn có lẽ có sức quyến rũ hơn. Chính trong sự phát triển thể loại truyện ngắn người ta dễ cảm nhận được sự uyển chuyển và khả năng thích nghi nhanh chóng của nó với thời đại, với các trào lưu. Truyện ngắn hiện đại ngày nay đã cho thấy khá nhiều cách tân và thể nghiệm táo bạo, vượt ra ngoài những giới hạn, phá vỡ cấu trúc năm màn truyền thống, thậm chí truyện mà không có chuyện. Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trò rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng cảnh trí, không khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tư, nhân vật. Nhận xét về điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã” [58]. Sức hấp dẫn của truyện ngắn là ở chỗ nó không tự gói mình trong cái áo chật hẹp của hình thức và của thể loại, mà luôn chứa đựng sức khai phóng tiềm tàng. Ngay cả những truyện ngắn được cho là “không có gì để kể”, nó vẫn có một độ căng hiện thực nhất định và khả năng bùng nổ. Có thể gọi truyện ngắn là thể loại của thời hiện tại. Bởi cái chính, tác động của truyện ngắn là tức thời và liền mạch. Nó tạo một lát cắt, bất ngờ đặt người đọc vào đâu đó giữa lòng cuộc sống rồi cứ thế đẩy anh ta đi tiếp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn19
- 13 Truyện ngắn không đòi hỏi người đọc phải bao quát được nhiều tầng của hiện thực, nó chỉ là một khoảnh khắc được ngưng đọng, một tia sáng được soi chiếu, thành ra người đọc dễ dàng đến với truyện ngắn trong bất cứ thời gian nào, bối cảnh nào. Ký ức nó để lại bao giờ cũng tươi rói và đầy ấn tượng, trong khoảnh khắc ấy, phút giây ấy. Cho nên, không đầy sự hoài vọng như thơ hay tùy bút, không vươn mình kể những gì dài rộng như tiểu thuyết, truyện ngắn thản nhiên bày biện một cách gọn ghẽ một hiện tại hiện tồn. Dường như, truyện ngắn là thể loại thích hợp hơn cả để thể hiện những đoạn cắt cuộc đời. Bởi quá khứ đã trôi qua, tương lai thì chưa tới, những mảnh vụn tâm tình chỉ có thể dành cho hiện tại. Hơn thế, trong nhịp sống hối hả ngày nay, con người có chút ít thời gian để lật vội những trang báo, tạp chí hay kích chuột trên màn hình vi tính để tìm đọc những sáng tác văn chương, truyện ngắn trở thành thể loại “hợp thời” và cần thiết cho công cuộc duy trì văn hóa đọc của quần chúng. 1.1.2. Bối cảnh lịch sử - thẩm mĩ của văn học Việt Nam sau 1975 Mùa xuân năm 1975, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chấm dứt sự chia cắt đất nước. Sự kiện này mở ra một thời kỳ mới của xã hội và lịch sử dân tộc Việt Nam cùng những cơ hội và thách thức mới ở phía trước. Khi khúc khải hoàn vừa tấu xong, khi xúc cảm mãnh liệt về chiến công tạm lắng xuống, thực trạng của đất nước sau chiến tranh với tất cả những đổ nát, ngổn ngang, nhức nhối của nó đòi hỏi một sự nhận thức mới, sự đối mặt với những vấn đề phức tạp đang diễn ra. Từ thời chiến bước sang thời bình, hiện thực cuộc sống mở ra bao điều phức tạp, con người cũng có những thay đổi trong tâm tư, tình cảm: trong kháng chiến, tất cả hướng về cái chung, đồng lòng, đồng sức hướng về chiến thắng. Giờ đây, cuộc sống đầy lo toan, tính toán buộc con người phải căng mình lên đối mặt với những khó khăn, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 788 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 491 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 369 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 411 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 541 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 516 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 299 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 341 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 311 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 318 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 263 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 234 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 286 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 245 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 214 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 191 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn