intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Phân tích hiện trạng và biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 – 2010 phục vụ quy hoạch phát triển thành phố Thái Bình đến năm 2020

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:139

119
lượt xem
25
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trên cơ sở phân tích hiện trạng sử dụng đất của thành phố Thái Bình các năm 2000 và 2010, luận văn tiến hành đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 - 2010. Từ đó đề xuất các định hướng sử dụng đất của thành phố đến năm 2020 góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất của thành phố Thái Bình.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Phân tích hiện trạng và biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 – 2010 phục vụ quy hoạch phát triển thành phố Thái Bình đến năm 2020

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI   TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­ PHẠM THỊ LAN PHÂN TÍCH HIỆN TRẠNG VÀ BIẾN ĐỘNG SỬ DỤNG ĐẤT GIAI  ĐOẠN 2000 – 2010 PHỤC VỤ QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN  THÀNH PHỐ THÁI BÌNH ĐẾN NĂM 2020 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Hà Nội ­ 2010
  2. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong quá trình phát triển, định hướng đúng đắn là cơ sở  quan trọng. Định   hướng được thể  hiện thông qua các chiến lược quy hoạch phát triển. Mục tiêu  hướng tới cao nhất là sử  dụng hiệu quả, tiết kiệm và bền vững các nguồn tài  nguyên. Đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt. Mọi hoạt động của con người đều   trực tiếp hoặc gián tiếp cần tới đất đai. Do đó trong tiến trình phát triển, nhu cầu  về đất luôn có xu hướng tăng mà nguồn cung tự nhiên của đất là không đổi. Điều   này dẫn tới những mâu thuẫn gay gắt giữa những người sử  dụng đất, giữa các  mục đích sử  dụng đất. Quy hoạch sử  dụng đất là công tác có ý nghĩa rất quan  trọng trong việc quản lý và sử dụng đất đai, góp phần tích cực trong việc điều hòa  các mâu thuẫn phát sinh. Chất lượng của hệ thống quy hoạch sử dụng đất có ảnh   hưởng mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội và tới sự phát triển của toàn bộ  nền kinh tế quốc dân. Vì vậy việc định hướng, lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng   đất là nội dung quan trọng được quan tâm hàng đầu  ở  mọi quốc gia. Để  đưa ra   được phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý thì việc phân tích hiện   trạng, đánh giá biến động sử  dụng đất nhằm làm rõ những mặt tích cực và hạn  chế trong sử dụng đất là rất cần thiết. 2
  3. Thành phố Thái Bình là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế ­ xã hội và khoa  học kỹ  thuật của tỉnh Thái Bình. Thành phố  Thái Bình được thành lập vào năm   2004 theo Nghị  định 117/NĐ­CP của Chính phủ  trên cơ  sở  diện tích tự  nhiên   (4.330,53 ha) và dân số của thị xã Thái Bình [19]. Năm 2007 thành phố Thái Bình  mở  rộng địa giới hành chính thêm 5 xã  theo Nghị  định số  181/2007/NĐ­CP của  Thủ  tướng Chính phủ. Năm 2009 thành lập phường Hoàng Diệu trên cơ sở  diện  tích tự  nhiên và dân số  của xã Hoàng Diệu.   Thành phố  Thái Bình sau khi điều  chỉnh địa giới hành chính có diện tích tự nhiên 6.770,85 ha, chiếm 4,32% diện tích  tự  nhiên toàn tỉnh, có 19 đơn vị  hành chính trực thuộc, bao gồm 10 phường: Lê  Hồng Phong, Đề Thám, Quang Trung, Bồ Xuyên, Kỳ  Bá, Phú Khánh, Trần Hưng  Đạo, Trần Lãm, Tiền Phong, Hoàng Diệu và 9 xã: Đông Hòa, Phú Xuân, Vũ Chính,  Vũ Phúc, Đông Thọ, Đông Mỹ, Vũ Lạc, Vũ Đông, Tân Bình [23]. Thành phố Thái  Bình là vùng đất bằng phẳng, có cao độ 2,6m, có sông Trà Lý chảy qua với chiều   dài 6,7km, có hệ  thống sông đào đã được nâng cấp, kè bờ. Chất đất  ở  đây có  nguồn gốc phát sinh từ  các cồn và bãi cát biển nhưng được bồi đắp phù sa nên   rất thích hợp cho việc gieo trồng lúa nước và cây rau màu. Nơi đây cũng rất  ổn   định về  địa chất, phù hợp với việc phát triển các ngành công nghiệp hay xây  dựng những công trình cao tầng. Trong những năm gần đây thành phố có tốc độ  đô thị hóa nhanh dẫn đến nhiều biến động về sử dụng đất, nhất là việc chuyển  mục đích từ đất nông nghiệp, chủ yếu là đất lúa sang mục đích phi nông nghiệp. 3
  4. Để  phát huy tiềm năng sẵn có nhất là tiềm năng đất đai, đồng thời thực   hiện mục tiêu kinh tế ­ xã hội của thành phố  đã đề  ra trong những năm tới, cần   phân tích hiện trạng và biến động sử dụng đất để đưa ra phương án định hướng  sử dụng đất đai một cách hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả nhằm hạn chế sự chồng   chéo và giải quyết các mâu thuẫn về  quan hệ  đất đai, làm cơ  sở  để  tiến hành   giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, đáp ứng nhu cầu phát triển  kinh tế  ­ xã hội và đảm bảo môi trường sinh thái. Do đó học viên chọn đề  tài:  "Phân tích hiện trạng và biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 – 2010 phục   vụ quy hoạch phát triển thành phố Thái Bình đến năm 2020". 2. Mục tiêu nghiên cứu ­ Trên cơ sở phân tích hiện trạng sử dụng đất của thành phố  Thái Bình các  năm 2000 và 2010 tiến hành đánh giá biến động sử  dụng đất giai đoạn 2000 ­  2010. Từ  đó đề  xuất các định hướng sử  dụng đất của thành phố  đến năm 2020   góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất của thành phố Thái Bình. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu      ­ Điều tra, thu thập tài liệu, số  liệu, bản đồ  có liên quan đến khu vực   nghiên cứu. ­ Thu thập tài liệu, số liệu về hiện trạng sử dụng đất năm 2000, 2010 của  thành phố Thái Bình. ­ Đánh giá biến động sử dụng đất giai đoạn 2000 ­ 2010. ­ Phân tích quan hệ giữa hoạt động kinh tế ­ xã hội và biến động sử dụng   đất trong khu vực. ­ Dự  báo xu thế  biến động sử  dụng đất của thành phố  Thái Bình đến  2020. ­ Đề  xuất định hướng sử dụng đất phục vụ  phát triển kinh tế  ­ xã hội và  bảo vệ môi trường thành phố Thái Bình đến 2020. ­ Xây dựng bản đồ định hướng sử dụng đất thành phố Thái Bình đến năm   2020. 4
  5. 4. Phương pháp nghiên cứu ­ Phương pháp điều tra, khảo sát Đây là phương pháp dùng để điều tra thu thập các tài liệu, số liệu về điều  kiện tự  nhiên, kinh tế  ­ xã hội, các số  liệu thống kê, kiểm kê về  diện tích các  loại đất ở thời điểm hiện trạng để phục vụ cho việc quy hoạch phát triển thành   phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đến năm 2020. ­ Phương pháp kế thừa  Kế thừa các tài liệu, số liệu, bản đồ  đã có để  làm cơ  sở  cho việc nghiên  cứu đề tài. ­ Phương pháp thống kê, so sánh Trên cơ sở các số liệu, tài liệu thu thập được, tiến hành thống kê, so sánh  số liệu qua các năm để thấy được sự biến động, thay đổi về cơ cấu các loại đất.  Do tiêu chí thống kê đất đai năm 2000, năm 2005 và năm 2010 khác nhau. Vì vậy cần  quy đổi chỉ  tiêu thống kê về  cùng một hệ  thống chỉ  tiêu thống nhất phục vụ  cho  việc so sánh, phân tích, đánh giá được chuẩn xác. - Ph¬ng ph¸p phân tích, đánh giá tổng hợp: dùng để phân tích và đưa ra  đánh giá về  tình hình sử  dụng đất, biến động sử  dụng đất của thành phố  Thái   Bình. ­ Phương pháp bản đồ: dùng để thể hiện bản đồ  hiện trạng sử dụng đất  và xây dựng bản đồ định hướng sử dụng đất thành phố Thái Bình. 5. Cấu trúc luận văn: Ngoài  phần  mở   đầu  và   kết  luận,   nội  dung  của   đề   tài  luận  văn  gồm   3  chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về sử dụng đất đô thị. Chương 2: Hiện trạng sử  dụng đất và biến động sử  dụng đất thành phố  Thái Bình giai đoạn 2000 ­ 2010.  Chương 3: Đề xuất định hướng sử dụng đất thành phố  Thái Bình đến năm  2020. 5
  6. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐÔ THỊ 1.1. Vấn đề sử dụng đất đô thị 1.1.1 Khái niệm về đô thị và đất đô thị  1.1.1.1. Khái niệm về đô thị Đô thị được định nghĩa là một khu dân cư tập trung thoả mãn 2 điều kiện: ­  Về  cấp quản lý:  Đô thị  là thành phố, thị  xã, thị  trấn được cơ  quan Nhà  nước có thẩm quyền quyết định thành lập. ­ Về trình độ phát triển: Đô thị phải đạt những tiêu chuẩn sau: Thứ nhất, đô thị có chức năng là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên   ngành, cấp quốc gia, cấp vùng liên tỉnh, cấp tỉnh, cấp huyện hoặc là một trung   tâm của vùng trong tỉnh; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế ­ xã hội của cả  nước hoặc một vùng lãnh thổ nhất định. Thứ hai, đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn yêu cầu: + Tỷ  lệ  lao động phi nông nghiệp được tính trong phạm vi ranh giới nội   thành, nội thị, khu vực xây dựng tập trung phải đạt tối thiểu 65% so với tổng số  lao động. +  Hệ  thống công trình hạ  tầng đô thị  được xây dựng đồng bộ  (hệ  thống   công trình hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội) đã được đầu tư xây dựng đạt 70%  yêu cầu của đồ án quy hoạch xây dựng theo từng giai đoạn; đạt quy chuẩn, tiêu   chuẩn kỹ thuật và các quy định khác có liên quan. + Quy mô dân số toàn đô thị tối thiểu phải đạt 4.000 người trở lên. + Mật độ dân số phù hợp với quy mô, tính chất và đặc điểm của từng loại   đô thị  và được tính trong phạm vi nội thành, nội thị  và khu phố  xây dựng tập  trung của thị trấn [24]. Căn cứ vào các nội dung yêu cầu trên có thể định nghĩa một cách khái quát  về đô thị như sau: “Đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ  cao, chủ yếu là   lao động phi nông nghiệp (trên 65% ­ xét  ở  khu vực nội thị), là trung tâm tổng   6
  7. hợp hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế ­ xã hội của một   vùng lãnh thổ  (có thể  là cả  nước, hoặc một tỉnh, một huyện), có cơ  sở  hạ  tầng   thích hợp và dân số nội thị tối thiểu là 4000 người (đối với miền núi tối thiểu là   2800 người). Đô thị  gồm các loại: thành phố, thị  xã và thị  trấn. Đô thị  bao gồm   các khu chức năng đô thị” [17]. 1.1.1.2. Khái niệm đất đô thị Đất đô thị  đượ c định nghĩa là đất nội thành, nội thị  xã, thị  trấn sử  dụng   để  xây dựng nhà  ở, trụ  sở  cơ  quan, tổ chức, c ơ s ở t ổ ch ức kinh doanh, c ơ s ở  hạ  tầng phục vụ  lợi ích công cộng, quốc phòng, an ninh và vào các mục đích  khác   nhằm  phát  triển   kinh  tế   xã   hội  cho  một   vùng  lãnh  thổ.   Ngoài  ra,   đất  ngoại thành, ngoại thị  nếu đã có quy hoạch đượ c cơ  quan nhà nướ c có thẩm   quyền phê duyệt để phát triển đô thị cũng đượ c quản lý như đất đô thị  [29]. Phân vùng chức năng đất đô thị: Căn cứ  vào mục đích sử  dụng chủ  yếu, đất đô thị  bao gồm: Đất sử  dụng  vào mục đích xây dựng các công trình công cộng; Đất ở; Đất khu công nghiệp và   kho tàng; Đất cây xanh; Đất xây dựng mạng lưới giao thông và kỹ thuật hạ tầng;  Đất vùng ngoại ô [29]. 1.1.2.  Vấn đề sử dụng đất hiện nay ở nước ta Việt Nam có diện tích tự nhiên 33.105.135 ha, đứng thứ 55/200 quốc gia, là  nước   có   quy   mô   diện   tích   thuộc   loại  trung   bình;   có   dân  số   đông   86.210.800  người, đứng thứ  12/200 quốc gia, vì vậy bình quân diện tích đất trên đầu người   vào loại thấp 3.840 m2/người (0,3 – 0,4 ha/người), đứng thứ  120/200 quốc gia  trên thế giới ­ bằng mức 1/6 bình quân thế giới. Trước đây, khi dân số thế giới còn ít hơn ngày nay rất nhiều, đa số các cộng   đồng xã hội đã sinh sống một cách hài hoà với môi trường tự  nhiên, trong đó có   tài nguyên đất đai là nguồn cung cấp dồi dào cho nhu cầu tồn tại của con người.   Một vài thế  kỷ  gần đây, dân số  thế  giới tăng nhanh đã thúc đẩy nhu cầu về  lương thực, thực phẩm. Song trong đó, nhịp độ  phát triển nhanh chóng của các   7
  8. cuộc cách mạng về  kinh tế  và kỹ  thuật,... là nguyên nhân dẫn đến việc tàn phá  môi trường tự  nhiên và khai thác triệt để  các nguồn tài nguyên, đặc biệt là tài  nguyên đất đai. Hơn nhiều thập kỷ qua, không ngoài quy luật, đó tình trạng sử dụng đất ở  nước ta cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự gia tăng dân số ­ nhu cầu lương thực   ­ và các yêu cầu thiết yếu khác. Nhiều khu vực tài nguyên đất đai bị  suy thoái   một cách nghiêm trọng bởi việc phá rừng và khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng   và tài nguyên khoáng sản, hoặc tình trạng đô thị hoá nhanh chóng gia tăng. Đánh giá tình hình sử dụng đất giai đoạn 2000 ­ 2010 ta nhận thấy rằng bên   cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì việc sử  dụng đất vẫn có những biểu  hiện thiếu bền vững như sau: ­ Đối với khu vực đất nông nghiệp: Mặc dù đã tập trung thực hiện việc dồn   điền đổi thửa thành công  ở  nhiều nơi nhưng nhìn chung thửa đất nông nghiệp   vẫn còn quá nhỏ, toàn quốc còn tới 70 triệu thửa đất nông nghiệp, bình quân mỗi  hộ có từ 3 – 15 thửa, do đó canh tác manh mún, chưa tạo thuận lợi để thực hiện  công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Chưa có sự  đầu tư  để  sử  dụng đạt hiệu quả  cao đối với 1.168.529 ha đất  nương rẫy, việc sử dụng đất chưa trở thành động lực để xoá đói, giảm nghèo và  tiến tới phát triển bền vững kinh tế ­ xã hội miền núi, vùng sâu, vùng xa. Việc chuyển một bộ  phận đất chuyên trồng lúa cho mục đích phát triển   công nghiệp và dịch vụ  chưa được cân nhắc một cách tổng thể  đang là vấn đề  cần chấn chỉnh. Cần cân nhắc hiệu quả  đầu tư  cả  về  hiệu quả  kinh tế  lẫn xã  hội và môi trường, khuyến khích đầu tư  hạ  tầng cơ  sở   để  chuyển đất nông  nghiệp kém hiệu quả sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp, hạn chế việc   tận dụng hạ tầng hiện có tại các vùng đất nông nghiệp có năng xuất cao để đầu   tư phát triển công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù diện tích rừng tăng nhưng rừng tự nhiên vẫn tiếp tục bị tàn phá và  suy giảm chất lượng  ở nhiều nơi, mức độ  phục hồi chậm; nơi có nhiều đất có  8
  9. thể trồng rừng thì mật độ dân cư thưa, hạ tầng quá thấp kém. Trong thời gian 4  năm 2001 ­ 2004, diện tích rừng bị cháy, bị chặt phá là 34.821 ha, trong đó rừng bị  cháy là 23.500 ha (tập trung ở Đồng Bằng sông Cửu Long với 12.844 ha, Tây Bắc  và   Đông  Bắc   với  5.524  ha),   rừng  bị   chặt  phá   là   11.320  ha   (tập  trung  ở   Tây   Nguyên với 4.206 ha, Đông Nam Bộ với 2.348 ha). Việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để thực hiện các dự án đầu  tư  phi nông nghiệp chưa giải quyết được quyền lợi, việc làm,  ổn định tại khu  vực nông thôn. Nhiều nơi trao cho người nông dân tiền bồi thường, hỗ trợ về đất   khá cao nhưng không định hướng được phương thức sử  dụng nên đã dẫn đến  tình trạng tiêu cực trong sử dụng. ­ Đối với khu đất phi nông nghiệp: Đất dành cho đầu tư  hạ  tầng kỹ  thuật   chưa thực sự được chú ý trong quy hoạch dài hạn. Đặc biệt, đầu tư hạ tầng cho   khu vực nông thôn còn thiếu nên chưa bảo đảm điều kiện để giải quyết xoá đói,   giảm nghèo thực sự cho người nông dân. Vấn đề  đất  ở, nhà  ở  đang là khâu yếu và có nhiều vướng mắc hiện nay,   đặc biệt là nạn đầu cơ đất ở, đất dự  án nhà ở  kéo dài trong nhiều năm, mặc dù  gần đây đã được chấn chỉnh nhưng hậu quả để  lại khá nặng nề, nhất là giá đất   vẫn còn ở mức cao làm hạn chế những cố gắng về nhà ở, đất ở. Nhiều tỉnh thuộc vùng Đồng Bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ còn có   tình trạng đất  ở, đất nghĩa địa, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp chưa   được quy hoạch, vẫn phân bố  rải rác, xen kẽ  giữa các cánh đồng và trong khu   dân cư, ảnh hưởng đến vệ  sinh môi trường, khó nâng cấp đời sống người nông  dân trong khu dân cư nông thôn với hạ tầng đồng bộ. Quỹ đất dành cho xã hội hoá các lĩnh vực giáo dục ­ đào tạo, y tế, văn hoá,  thể dục ­ thể thao chưa được quy hoạch đầy đủ, chưa thực hiện đúng các chính   sách ưu đãi về đất cho các nhà đầu tư thuộc các lĩnh vực này. Đến nay cả  nước đã và đang xây dựng khoảng 249 khu công nghiệp, khu  chế xuất tập trung nhưng vẫn đang ở trạng thái bị  động vì thiếu các nhà đầu tư  9
  10. có tiềm lực lớn; sử dụng đất còn lãng phí do chưa có quy hoạch đồng bộ; nhiều  khu công nghiệp đã hoàn thành nhưng mức độ  lấp đầy rất thấp; còn nhiều nhà   đầu tư  được bàn giao đất nhưng không sử  dụng hoặc sử  dụng không đúng tiến  độ, thiếu hiệu quả; giá thuê đất gắn với hạ tầng ở nhiều nơi còn quá cao, chưa  thu hút nhà đầu tư  sản xuất vào khu công nghiệp; vấn đề  bảo vệ  môi trường   chưa được chú trọng ngay từ đầu nên đang phát sinh nhiều hậu quả xấu về môi  trường, khó khắc phục. Về đối tượng sử dụng đất ngoài hộ gia đình, cá nhân, phần lớn là do các tổ  chức trong nước sử  dụng, diện tích đất do tổ  chức nước ngoài, cá nhân nước   ngoài sử dụng chiếm tỷ trọng không đáng kể (toàn quốc chỉ có 43.364 ha đất do   các tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng, chỉ chiếm 0,13% tổng diện   tích đất tự nhiên). Chất lượng quy hoạch, kế  hoạch sử  dụng  đất không cao, thiếu tính hệ  thống, chưa có được lời giải tốt về hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường, chưa   bảo đảm tính liên thông giữa cả nước với các tỉnh. Sự chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nói chung đã bảo đảm tính phù hợp với  quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhưng hiệu quả chưa cao. Hiện tượng chuyển   đổi mục đích sử  dụng đất tự  phát, chạy theo lợi ích riêng vẫn chưa được khắc   phục. Nhiều tỉnh để dự trữ quỹ đất phi nông nghiệp nhiều hơn khả năng đầu tư  nên dẫn tới tình trạng hoặc là “quy hoạch treo” do không triển khai được hoặc là  trình trạng “dự án treo” do giao đất cho chủ đầu tư thiếu năng lực. Việc chuyển   mục đích sử dụng  ồ  ạt từ đất lúa sang đất nuôi tôm tại một số  tỉnh ven biển đã  dẫn đến ô nhiễm môi trường, mặn hoá diện tích trồng lúa, người nông dân không   còn đất để sản xuất nông nghiệp mà nuôi tôm lại bị dịch bệnh, thua lỗ. Như  vậy, để  ngăn chặn tình trạng sử  dụng lãng phí tài nguyên đất do sự  thiếu hiểu biết cũng như  do chạy theo lợi ích trước mắt của người dân gây ra,  Nhà nước cần có những quyết định hướng dẫn cụ thể về sử dụng đất và quản lý   đất đai, sao cho nguồn tài nguyên này có thể được khai thác tốt nhất cho nhu cầu   10
  11. của con người hiện tại và trong tương lai phục vụ phát triển kinh tế ­ xã hội một  cách có hiệu quả.  1.1.3. Vấn đề sử dụng đất đô thị  Nếu Cổ  Loa được xem là đô thành đầu tiên được xây dựng vào năm 255  trước công nguyên, thì đô thị  nước ta đã hình thành và phát triển trên 2000 năm.  Theo quy luật thì sự tác động các yếu tố kinh tế và xã hội trong đó yếu tố  công  nghiệp và giao thông có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển đô  thị. Riêng đối với nước ta bao cuộc xâm lăng của nước ngoài và các cuộc chiến   tranh giữ nước cũng có vai trò khá quan trọng. Nhìn chung công nghiệp chậm phát triển nhưng dân số  tăng nhanh, đặc  biệt các đô thị miền Nam, việc sử dụng đất đô thị chưa hợp lý, phát triển thiếu   sự cân đối cần thiết theo các chức năng đô thị. Công tác quản lý đất đô thị chưa  thật sự  chặt chẽ, kỷ  cương. Hiện tượng lấn chiếm, mua bán chuyển nhượng  trái phép còn khá phổ biến, nhất là các đô thị lớn. Một trong những chỉ tiêu định  hướng quan trọng nhất để đánh giá mức độ  đô thị  hoá là dân số đô thị. Ở  nước   ta sự  tăng dân số  toàn quốc  ảnh hưởng không tương xứng với mức đô thị  hoá   đồng thời cũng thể hiện trình độ kinh tế còn quá chậm. ­ Mật độ dân số đô thị Mật độ dân số đô thị là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiện trạng sử dụng   đất  ở các nước phát triển. Mật độ  dân số  càng tăng thì quá trình đô thị  hóa càng  diễn ra không cân đối. Nguyên nhân chính là do sự  bùng nổ  dân số, tỷ  lệ  dân   nhập cư lớn hơn di cư, sự mâu thuẫn sâu sắc giữa nông thôn và đô thị, quan trọng   là kết cấu hạ tầng đô thị không theo kịp tốc độ  tăng dân số đô thị, điều đó đồng  nghĩa với sự mất cân bằng sinh thái đô thị. Mật độ dân số đô thị các vùng sinh thái rất khác nhau và ngay trong một đô  thị đất vùng trung tâm, các phố cũ mật độ dân số có thể gấp 2­3 lần mật độ dân   số  trung bình đô thị  đó. Mật độ  dân số  đô thị  năm 2009 TP.Hồ  Chí Minh trung  bình 35.662 người/km2, một số  phường trên 40.000 người/km2, Hà Nội 13.090  11
  12. người/km2,  các   đô   thị   vùng  Đồng  bằng  sông  Cửu  Long  khoảng  4000  –  5000   người/km2.  Nhìn chung mật độ dân số đô thị ở nước ta tương đối lớn, trong điều   kiện hiện nay thì mật độ dân số như vậy là thiếu cân đối. ­ Đất ở đô thị Đất ở đô thị phụ thuộc vào địa hình, khí hậu, kinh tế ­ xã hội và số tầng cao  trung bình các đô thị. Trong 30 năm qua, mặc dù thời gian đầu gặp nhiều khó   khăn nhưng hàng năm Nhà nước đã rất quan tâm đến việc đầu tư  cho xây dựng   nhà ở và các cơ sở hạ tầng tại các đô thị. Trong những năm gần đây với cơ chế  mới, đất ở đô thị cũng tăng lên nhanh chóng do Nhà nước cấp đất và mở rộng thị  trường bất động sản cho người dân tự  do mua bán nhưng đồng thời thấy rõ quỹ  đất đô thị đã ngày càng bị thu hẹp. ­ Đất cây xanh, công viên đô thị Tiêu chuẩn diện tích cây xanh/người dân đô thị  (m2/người) rất quan trọng để  đánh giá môi trường sinh thái đô thị. Nhìn chung đô thị  nước ta diện tích cây xanh   trên đầu người rất thấp mặc dù nước ta rất thuận lợi cho cây xanh sinh trưởng và  phát triển. Chưa có một công trình nào nghiên cứu sự  hợp lý đất cây xanh theo quan  điểm sinh thái đô thị và phát triển lâu bền. Tuy nhiên, theo quy phạm thiết kế quy  hoạch đô thị  đã bước đầu đề  xuất diện tích cây xanh trung bình trên đầu người  như bảng 1. Tiêu chuẩn này là thấp so với một số nước phát triển ở  châu Âu, cây xanh  rất được coi trọng, bảo vệ cây xanh đã thấm vào máu thịt của mỗi người dân nên  diện   tích   cây   xanh   trên   đầu   người   rất   cao   như   Pari   10   m2/người,   Berlin   15  m2/người, Maxcơva 40 m2/người. Các đô thị   ở  Việt Nam diện tích cây xanh rất  thấp, nhất là đồng bằng sông Cửu Long rồi đến các đô thị  Đông Nam Bộ, Nam   Trung Bộ dưới 1 m2/người. Các đô thị miền Bắc có khá hơn nhưng đều dưới 1,5  m2/người. Bảng 01: Chỉ tiêu đất cây xanh đô thị [15] 12
  13. Diện tích cây xanh  Diện tích cây xanh sử dụng công cộng  Loại đô thị toàn đô thị  (m2/người) (m2/người) Toàn khu dân dụng Khu ở I,II 10­15 5­8 3­4 III, IV 7­10 7­8 3­4 V 7­10 12­14 3­4 (Nguồn: Quy chuẩn xây dựng Việt Nam ­ 1997) Đối với đô thị nghỉ mát, diện tích cây xanh toàn đô thị  tối thiểu phải là 30 ­   40 m2/người. ­ Đất giao thông đô thị Giao thông đô thị là một yếu tố quan trọng quyết định hình thành cơ cấu đô  thị  và sự  phát triển kinh tế  ­ xã hội đô thị, là yếu tố  tác động trực tiếp với đời   sống thường nhật của người dân đô thị. Tuy một số  năm gần đây Nhà nước ta   quan tâm đến việc phát triển đất giao thông đô thị  nhưng đất giao thông đô thị  hiện nay còn ở mức thấp chỉ chiếm trên dưới 10% đất đô thị. Trong khi đó ở các   nước phát triển không tính tới điều kiện phương tiện giao thông hiện đại thì tỷ  lệ  đất giao thông đô thị  chiếm trung bình 35 ­ 40% diện tích đô thị. Toàn thành   phố Pari diện tích đất là 10.500 ha thì tổng số diện tích hệ thống đường xá kiên  lộ   là   4.500   ha   chiếm   42%.   Các   nước   Đông   Nam   Á   như   Singapo,   Malaixia,   Indonexia tỷ lệ đất giao thông đô thị cũng rất lớn. Theo dự báo, tỷ lệ đất giao thông đô thị  ở nước ta trong tương lai phải đạt   15­20% diện tích đô thị, bình quân diện tích giao thông đầu người là khoảng 15­ 20 m2. Nhưng hiện nay  ở  Hà Nội và nhiều đô thị  bình quân diện tích đất giao  thông trên đầu người thấp nên là một trong những nguyên nhân gây ra hiện tượng   tắc nghẽn giao thông thường xuyên tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố  Hồ Chí Minh,... ­ Các loại đất đô thị khác Bao gồm đất cơ quan trường đại học, dạy nghề, viện nghiên cứu, đất quốc   phòng trong đô thị, đất công nghiệp kho tàng,... nhìn chung chiếm diện tích tương  13
  14. đối lớn so với nhu cầu nên sử dụng còn lãng phí, nhiều nơi sử dụng không đúng   mục đích. Một số năm trước, tình trạng các cơ quan xí nghiệp chia hoặc bán cho  cán bộ  công nhân viên làm nhà  ở  khá phổ  biến. Riêng đất quốc phòng đặc biệt  đối với các đô thị  miền Nam là sự tiếp quản đất quân sự  của chế độ  cũ nên đất  quốc phòng trong đô thị  rất lớn, nhiều nơi bỏ trống hoặc cho thuê, chia đất cho  cán bộ quân đội làm nhà ở không theo quy hoạch đô thị gây nên sử dụng đất lộn   xộn sai mục đích và lãng phí. 1.2 Mối quan hệ giữa biến động sử dụng đất và phát triển đô thị  1.2.1 Biến động đất đai Biến động là bản chất của mọi sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện tượng   không bao giờ bất biến mà luôn luôn biến động không ngừng, động lực của mọi   sự biến động đó là quan hệ tương tác giữa các thành phần của tự nhiên và xã hội.  Như  vậy để  khai thác tài nguyên đất đai của một khu vực có hiệu quả, bảo vệ  nguồn tài nguyên quý giá này và không làm suy thoái môi trường tự nhiên thì nhất  thiết phải nghiên cứu biến động của đất đai. Sự biến động đất đai do con người   sử dụng vào các mục đích kinh tế ­ xã hội có thể phù hợp hay không phù hợp với  quy luật của tự nhiên, cần phải nghiên cứu để tránh việc sử dụng đất đai có tác   động xấu tới môi trường sinh thái. Nghiên cứu biến động đất đai là xem xét quá trình thay đổi của diện tích đất   đai thông qua thông tin thu thập được theo thời gian để tìm ra quy luật và những   nguyên nhân thay đổi từ đó có biện pháp sử dụng đúng đắn với nguồn tài nguyên  này. Biến động sử dụng đất đai bao gồm các đặc trưng sau: ­ Quy mô biến động: + Biến động về diện tích sử dụng đất nói chung + Biến động về diện tích của từng loại hình sử dụng đất + Biến động về đặc điểm của những loại đất chính. ­ Mức độ biến động: 14
  15. + Mức độ  biến động thể  hiện qua số lượng diện tích tăng hoặc giảm của  các loại hình sử dụng đất giữa đầu thời kỳ và cuối thời kỳ nghiên cứu. + Mức độ biến động được xác định thông qua việc xác định diện tích tăng,  giảm và số phần trăm tăng, giảm của từng loại hình sử dụng đất đai giữa cuối và   đầu thời kỳ đánh giá. ­ Xu hướng biến động: Xu hướng biến động thể hiện theo hướng tăng hoặc  giảm của các loại hình sử  dụng đất; xu hướng biến động theo hướng tích cực  hay tiêu cực. ­ Những nhân tố gây nên biến động sử dụng đất đai + Các yếu tố tự nhiên của địa phương là cơ sở quyết định cơ  cấu sử dụng   đất đai vào các mục đích kinh tế ­ xã hội, bao gồm các yếu tố sau: vị trí địa lý, địa   hình, khí hậu, thuỷ văn, thảm thực vật. + Các yếu tố  kinh tế ­ xã hội của địa phương có tác động lớn đến sự  thay  đổi diện tích của các loại hình sử  dụng đất đai, bao gồm các yếu tố: sự  phát  triển của các ngành kinh tế  (dịch vụ, xây dựng, giao thông và các ngành kinh tế  khác,...); sự  gia tăng dân số; các dự  án phát triển kinh tế  của địa phương; thị  trường tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá,... 1.2.2 Đô thị hoá và sử dụng đất “Đô thị  hóa là một quá trình diễn thế  kinh tế  ­ xã hội ­ văn hoá ­ không  gian gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, trong đó diễn ra sự phát triển   các nghề  nghiệp mới, sự  chuyển dịch cơ  cấu lao động, sự  phát triển đời sống  văn hoá, sự  chuyển đổi lối sống và sự  mở  rộng không gian thành đô thị, song   song với việc tổ  chức bộ  máy hành chính và quân sự”. Theo quan điểm này thì  quá trình đô thị hóa cũng bao gồm sự thay đổi toàn diện về các mặt: cơ cấu kinh   tế, dân cư lối sống, không gian đô thị, cơ cấu lao động,… [30].  Chiến lược phát triển đô thị  quốc gia là một bộ  phận khăng khít, hữu cơ  trong chiến lược  ổn định và phát triển kinh tế ­ xã hội của đất nước ta. Theo dự  báo, trong vài thập kỷ tới khoảng từ năm 2020 trở đi, khi các vùng tăng trưởng kinh   15
  16. tế (TP Hồ Chí Minh ­ Biên Hoà ­ Vũng Tàu, Hà Nội ­ Hải Phòng ­ Quảng Ninh, Đà   Nẵng ­ Huế ­ Nha Trang) đã mạnh và sẽ không có lợi nếu tiếp tục “tăng sức ép”   phát triển tại các vùng tăng trưởng, thì việc phát triển các hệ thống trung bình, nhỏ  (các thị xã, thị trấn) trong toàn quốc trở nên cấp bách và rất quan trọng. Như vậy, trên góc độ toàn quốc, quá trình đô thị hoá và phát triển đô thị như  là một sức ép mang tính quy luật trong quá trình phát triển kinh tế ­ xã hội quốc  gia. Trong quá trình đó tài nguyên đất là một yếu tố  quan trọng và quyết định  hàng đầu. Trong những năm qua, dưới tác động của nền kinh tế thị trường đất đai đã,  đang và sẽ là một thành phần to lớn trong kinh doanh, sản xuất, thương mại nói  chung và thị  trường bất động sản nói riêng. Và điều đó rõ ràng là một bộ  phận  quỹ tài nguyên đất, đặc biệt là đất nông nghiệp và lâm nghiệp được chuyển sang   dùng cho xây dựng và phát triển đô thị. Đây là vấn đề  đang được quan tâm cho   mọi quốc gia đặc biệt là các nước mà nền sản xuất nông nghiệp đang đóng góp  một tỷ trọng đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. 1.2.3 Ý nghĩa thực tiễn của việc đánh giá biến động sử dụng đất đai Đánh giá biến động sử dụng đất đai có ý nghĩa rất lớn đối với việc sử dụng  đất đai: Việc đánh giá biến động của các loại hình sử dụng đất là cơ sở phục vụ  cho việc khai thác tài nguyên đất đai đáp  ứng phát triển kinh tế ­ xã hội và bảo   vệ môi trường sinh thái. Mặt khác, khi đánh giá biến động sử dụng đất đai cho ta biết được nhu cầu  sử dụng đất đai giữa các ngành kinh tế ­ xã hội, an ninh, quốc phòng. Dựa vào vị  trí địa lý, diện tích tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên của khu vực nghiên cứu, từ  đó biết được sự phân bố giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế và biết được những  điều kiện thuận lợi khó khăn đối với nền kinh tế  ­ xã hội và biết được đất đai   biến động theo chiều hướng tích cực hay tiêu cực nhằm đưa ra phương hướng  phát triển đúng đắn cho nền kinh tế  và các biện pháp sử  dụng hợp lý nguồn tài  nguyên đất đai, bảo vệ môi trường sinh thái. 16
  17. Do đó đánh giá biến động sử dụng đất có ý nghĩa hết sức quan trọng, là tiền  đề, cơ  sở  đầu tư  và thu hút nguồn vốn đầu tư  từ  bên ngoài, để  phát triển đúng   hướng, ổn định trên tất cả các lĩnh vực kinh tế ­ xã hội và sử dụng hợp lý nguồn   tài nguyên quý giá của quốc gia. 1.3 Cơ sở khoa học của quy hoạch sử dụng đất đô thị 1.3.1 Quy hoạch sử dụng đất đai nói chung Quy hoạch sử  dụng đất đai là hệ  thống các biện pháp kinh tế, kỹ  thuật và  pháp chế của Nhà nước về tổ chức sử dụng và quản lý đất đai đầy đủ, hợp lý,   khoa học và có hiệu quả  cao nhất thông qua việc phân bổ  quỹ  đất đai (khoanh  định các mục đích và các ngành) và tổ  chức sử  dụng đất như  tư  liệu sản xuất   (các giải pháp sử dụng cụ thể) nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, tạo  điều kiện bảo vệ đất bảo vệ môi trường [34]. Căn cứ pháp lý của việc lập quy hoạch sử dụng đất đai Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của đất đai nêu trên, Đảng và Nhà   nước ta đã đưa những quan điểm về  sử  dụng và bảo vệ  đất như  sau: Đất đai,   rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển,  thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư  vào các xí  nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học,   kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy  định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân.  Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ  đất đai theo quy hoạch và pháp luật,  bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả [33]. Điều 6 của Luật Đất đai năm 2003 xác định một trong những nội dung quản  lý Nhà nước về đất đai là quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất [33]. Điều 31 của Luật Đất đai năm 2003 đã quy định căn cứ  để quyết định giao  đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất bao gồm: 17
  18. ­ Quy ho ạch, k ế  ho ạch s ử  d ụng đấ t hoặ c quy hoạch xây dự ng đô thị ,   quy   ho ạch   điểm   dân   c ư   nông   thôn   đã   đượ c   cơ   quan   Nhà   nướ c   có   thẩ m   quy ền xét duy ệt. ­ Nhu cầu sử  dụng đất thể  hiện trong dự  án đầu tư, đơn xin giao đất, thuê  đất, chuyển mục đích sử dụng đất [33]. Các quy định cụ thể về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai được thể hiện   tại Mục 2, chương II Luật Đất đai 2003 bao gồm 10 điều (Điều 21, 22, 23,..., 30)  bao gồm các quy định về  nguyên tắc, căn cứ  để  lập quy hoạch, kế  hoạch sử  dụng đất; nội dung quy hoạch và kế  hoạch sử  dụng đất; trách nhiệm lập quy  hoạch, kế  hoạch sử  dụng đất và thẩm quyền quyết định, xét duyệt quy hoạch,  kế hoạch sử dụng đất.  ­ Ngoài ra còn có các văn bản pháp luật (Thông tư, Nghị  quyết,...) có liên  quan đến đất đai khác. 1.3.2 Quy hoạch sử dụng đất đô thị 1.3.2.1. Khái niệm Quy hoạch sử dụng đất đô thị  là tổng thể  các biện pháp kinh tế, kỹ  thuật,  sinh thái và pháp chế để tổ chức sử dụng hợp lý đất đô thị. Nó là quá trình căn cứ  vào yêu cầu đối với đất cho sự phát triển các ngành kinh tế, các doanh nghiệp và  chất lượng, tính thích nghi của bản thân đất, tiến hành phân phối đất cho các  ngành, các doanh nghiệp, điều chỉnh quan hệ  đất, xác định công dụng kinh tế  khác nhau của các loại đất, sắp xếp hợp lý đất đô thị và sắp xếp tương ứng các  tư liệu sản xuất khác và sức lao động có quan hệ với sử dụng đất [29]. 1.3.2.2. Nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất đô thị Trong đô thị mức độ hợp lý của việc sử dụng đất đô thị  có ảnh hưởng tất   yếu đối với mức độ  của hiệu suất sử  dụng đất và hiệu quả  lao động. Vì vậy  nhiệm vụ  cơ  bản của quy hoạch sử dụng đất đô thị  là tổ  chức sử  dụng hợp lý  đất đô thị với các nội dung sau: 18
  19. ­ Điều tra, nghiên cứu, phân tích tổng hợp điều kiện tự  nhiên kinh tế  ­ xã   hội, thực trạng sử dụng đất. ­ Nắm rõ số  lượng và chất lượng đất đai làm căn cứ  chuẩn xác để  tiến   hành phân phối và điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất. Muốn làm tốt điều này trước  hết cần tổ chức tốt việc đăng ký sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử  dụng đất, cung cấp những số  liệu gốc cho việc xây dựng hệ  thống bản đồ  sổ  sách làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý sử  dụng đất đô thị  và giám sát sự  biến   động sử dụng đất đô thị. ­ Phân phối hợp lý quỹ đất đô thị cho các nhu cầu sử dụng đất phù hợp với   trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất và các tư  liệu sản xuất khác. Ngoài  mục đích tăng trưởng kinh tế, còn phải chú ý phòng ngừa hậu quả  của việc sử  dụng không tốt các loại đất, gây ra cho môi trường sinh thái. 1.3.2.3. Nguyên tắc cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất đô thị Quy hoạch sử  dụng đất đô thị  tuân theo tất cả  các nguyên tắc trong quy  hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung. Ngoài ra nó cũng có các nguyên tắc riêng  trong sử dụng đất đô thị. Đó là: a, Nguyên tắc phân công khu vực của việc quy hoạch sử dụng đất đô thị: Căn cứ vào tính chất tự nhiên và vị trí của các mảnh đất khác nhau trong đô   thị,   tuỳ   theo   tình   hình   cụ   thể   của   từng   nơi   mà   xây   dựng   phương   hướng   và   phương thức sử dụng của mỗi mảnh đất. Căn cứ vào nguyên tắc lợi thế so sánh  phân công khu vực của sử dụng đất đô thị phân ra 3 nguyên tắc cụ thể: + Nguyên tắc phân công có lợi tuyệt đối: Đó là ưu thế tuyệt đối trên mảnh   đất nào đó của đô thị  với những lợi thế  mà các mảnh đất khác không có được.  Dựa vào những  ưu thế  đó mà phát triển thành các ngành tương  ứng nhằm thu  được hiệu quả  kinh tế ­ xã hội cao nhất (ví dụ: khu đô thị  ven biển thì nên phát   triển hải cảng, bãi tắm, làm muối...). 19
  20. + Nguyên tắc phân công có lợi tương đối: tức là lựa chọn mảnh đất có công  dụng thích hợp nhất trong số những mảnh đất có thể  thích hợp cho mục đích sử  dụng. Vì vậy ở trung tâm đô thị thường xây dựng cửa hàng hơn là xây dựng nhà ở. + Nguyên tắc phân công ưu thế tối đa và ưu thế  tối thiểu: bố trí các mảnh   đất có các  ưu điểm, nhược điểm sao cho chúng có thể  trao đổi sản phẩm với   nhau với giá thành thấp nhất. Điều đó sẽ  làm tăng ưu thế  của mảnh đất này tới   tối đa, giảm nhược điểm của mảnh đất kia tới tối thiểu. b, Nguyên tắc lựa chọn vị trí khu vực: Lựa chọn vị trí khu đất đô thị cụ thể bao gồm lựa chọn vị trí khu vực công  nghiệp, lựa chọn vị  trí khu vực thương nghiệp, lựa chọn vị  trí khu vực dân cư,   lựa chọn vị trí khu vực ngoại thành. Để lựa chọn hợp lý vị trí khu vực đất đô thị,  cần tiến hành phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến chúng cụ thể như sau: ­ Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực công nghiệp:  cần chú ý đến các nhân  tố: Nhân tố tự nhiên (đất đai, khoáng sản, nhiên liệu,...); nhân tố thị trường (quy  mô, cơ  cấu, sức chứa của thị  trường); nhân tố  giao thông vận tải (đường sá,   phương tiện, trình độ  tổ  chức quản lý, điều hành các hoạt động giao thông vận  tải), nhân tố xã hội (dân số, việc làm, thu nhập); nhân tố hành vi (trạng thái, tâm   lý, lối sống đạo đức) ­ Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực thương nghiệp chủ yếu: Quy mô và cơ  cấu dân cư đô thị; khoảng cách giữa các trung tâm thương nghiệp trong khu vực;   nhu cầu, thị hiếu của dân cư đô thị và vùng lân cận. ­ Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực dân cư:  cần quan tâm đến mức thu  nhập của dân cư  đô thị; vị  trí địa chỉ  các ngôi nhà trong khu dân cư; tố  chất của   vùng phụ cận dân cư đô thị. ­ Đối với việc lựa chọn vị trí khu vực ngoại ô là: cần quan tâm đến khoảng  cách nơi sản xuất nông sản, thực phẩm đến thị  trường trung tâm đô thị; sự khác   nhau về diện tích đất cần thiết cho việc sản xuất nông sản của các đơn vị  sản  xuất; giá thành vận chuyển nông sản thực phẩm từ ngoại ô và nội thành, nội thị. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2