intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Tổng hợp vật liệu hấp phụ có từ tính và khảo sát khả năng tách loại phẩm màu azo trong môi trường nước

Chia sẻ: Na Na | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:55

103
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với mục đích góp phần nghiên cứu kỹ thuật xử lý các phẩm màu hữu cơ bằng phương pháp hấp phụ, đặc biệt là xử lý phẩm màu họ azo bằng vật liệu hấp phụ có từ tính, nên đề tài luận văn “Tổng hợp vật liệu hấp phụ có từ tính và khảo sát khả năng tách loại phẩm màu azo trong môi trường nước".

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Tổng hợp vật liệu hấp phụ có từ tính và khảo sát khả năng tách loại phẩm màu azo trong môi trường nước

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Vũ Mai Phương TỔNG HỢP VẬT LIỆU HẤP PHỤ CÓ TỪ TÍNH VÀ KHẢO  SÁT KHẢ NĂNG TÁCH LOẠI PHẨM MÀU AZO TRONG MÔI  TRƯỜNG NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
  2. Hà Nội ­ 2015 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ Vũ Mai Phương TỔNG HỢP VẬT LIỆU HẤP PHỤ CÓ TỪ TÍNH VÀ KHẢO  SÁT KHẢ NĂNG TÁCH LOẠI PHẨM MÀU AZO TRONG MÔI  TRƯỜNG NƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Chuyên ngành: Hóa Môi Trường Mã số:  60440120 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. CHU XUÂN QUANG 2.  PGS.TS. ĐỖ QUANG TRUNG
  3. Hà Nội – 2015
  4. LỜI CẢM ƠN Trước  khi  trình  bày  nội  dung  chính  của  luận  văn,  em  xin  bày  tỏ  lòng  biết  ơn  sâu  sắc  tới  TS.  CHU XUÂN QUANG và PGS.TS ĐỖ  QUANG TRUNG,  nh ữ ng   người thầy đáng  kính  đã  trực tiếp  hướng  dẫn  và  tận  tình chỉ  bảo  em  trong suốt thời gian  qua. Em  xin  phép  được  gửi lời cảm  ơn đến  ban  lãnh  đạo  và  các  thầy  cô giáo,  các  anh/chị  cán  bộ  trường  ĐHKHTN ­  ĐHQGHN  nói  chung,  khoa  Hóa học  nói  riêng  vì  đã  tạo  mọi  điều  kiện  thuận  lợi nhất,  giúp  đỡ  em trong  thời  gian  em  học tập, nghiên  cứu  tại trường. Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ nghiên cứu phòng Công nghệ  và Vật liệu Môi trường ­ Trung tâm Công nghệ Vật liệu đã nhiệt tình giúp đỡ  em trong thời gian thực hiện các nội dung của đề tài luận án.      Hà  Nội, ngày  25 tháng 11 năm  2015.                   Học Viên             Vũ Mai Phương
  5. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG
  6. DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ
  7. MỞ ĐẦU Hiện nay,  sự  phát  triển  ngày càng lớn  mạnh  của đất  nước  về  kinh tế và xã  hội, đặc biệt là sự  phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp đã ảnh hưởng  rất lớn đến môi trường sống của con người. Bên cạnh sự  lớn mạnh của nền kinh  tế đất nước lại là sự  gia tăng ô nhiễm  môi  trường.  Một  trong  những  ngành công  nghiệp  gây  ô  nhiễm  môi  trường  lớn  là  ngành  dệt  nhuộm.  Bên  cạnh  các công  ty,  nhà  máy  còn  có  hàng  ngàn  cơ  sở  nhỏ  lẻ  từ  các  làng  nghề  truyền thống. Với  quy mô sản xuất nhỏ, lẻ  nên lượng nước thải sau sản xuất hầu như  không được  xử  lý,  mà  được  thải  trực  tiếp  ra  hệ  thống  cống  rãnh  và  đổ  thẳng  xuống  hồ  ao,  sông,  ngòi  gây  ô  nhiễm  nghiêm  trọng  tầng  nước  mặt,  mạch  nước  ngầm  và ảnh  hưởng lớn đến sức khỏe con người. Với  dây  chuyền  công  nghệ  phức  tạp,  bao  gồm  nhiều  công  đoạn  sản  xuất  khác nhau nên nước thải sau sản xuất dệt nhuộm chứa nhiều loại hợp chất hữu cơ  độc  hại,  đặc  biệt  là  các  công  đoạn  tẩy  trắng  và  nhuộm  màu.  Việc  tẩy, nhuộm  vải  bằng  các  loại  thuốc  nhuộm  khác  nhau  như  thuốc  nhuộm  hoạt  tính,  thuốc  nhuộm  trực  tiếp,  thuốc  nhuộm  hoàn  nguyên,  thuốc  nhuộm  phân  tán…  khiến  cho  lượng nước thải chứa nhiều chất ô nhiễm khác nhau (chất tạo màu, chất làm bền  màu...)  [7,8]. Bên  cạnh  những  lợi ích của  chất tạo  màu  họ azo trong công nghiệp  nhuộm, thì tác hại của nó không nhỏ khi mà các chất này được thải ra môi trường.  Gần  đây,  các  nhà nghiên cứu  đã  phát  hiện  ra  tính  độc  hại  và  nguy  hiểm của  hợp  chất  họ  azo  đối  với  môi  trường  sinh  thái  và  con  người,  đặc  biệt  là  loại  thuốc  nhuộm này có thể gây ung thư cho người sử dụng sản phẩm [19,30]. Nghiên  cứu,  xử  lý  nước  thải  có  chứa  hợp  chất  azo  là  một  vấn  đề  rất  quan  trọng nhằm loại bỏ hết các chất này trước khi xả ra môi trường, bảo vệ con người  và môi trường sinh thái. Với mục đích góp phần nghiên cứu kỹ thuật xử lý các phẩm màu hữu cơ bằng  phương pháp hấp phụ, đặc biệt là xử  lý phẩm màu họ azo   bằng  vật liệu hấp phụ  có từ  tính, nên đề tài  luận văn  “Tổng hợp vật liệu hấp phụ có từ  tính và khảo sát  khả năng tách loại phẩm màu azo trong môi trường nước ” đã được tôi lựa chọn thực  hiện. 7
  8. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 1.1. Chitosan 1.1.1. Khái quát về chitosan Về mặt lịch sử, chitin được Braconnot phát hiện đầu tiên vào năm 1821, trong  cặn dịch chiết từ một loại nấm. Ông đặt tên cho chất này là  “Fungine” để ghi nhớ  nguồn gốc của nó. Năm 1823 Odier phân lập được một chất từ  bọ  cánh cứng mà  ông gọi là chitin hay “chiton”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là vỏ  giáp, nhưng ông không  phát hiện ra sự  có mặt của nitơ  trong đó. Cuối cùng cả  Odier và Braconnot đều đi   đến kết luận chitin có dạng công thức giống với xenlulozo. Trong động vật, chitin là một thành phần cấu trúc quan trọng của các vỏ  một   số  động vật không xương sống như: côn trùng, nhuyễn thể, giáp xác và giun tròn.  Trong động vật bậc cao monome của chitin là một thành phần chủ yếu trong mô da  nó giúp cho sự tái tạo và gắn liền các vết thương ở  da. Trong thực vật chitin có ở  thành tế bào nấm họ zygenmyctes, các sinh khối nấm mốc, một số loại tảo ... Chitin  có cấu trúc thuộc họ polysaccarit, hình thái tự nhiên ở dạng rắn. Do đó, các phương   pháp nhận dạng chitin, xác định tính chất, và phương pháp hoá học để  biến tính  chitin cũng như  việc sử dụng và lựa chọn các ứng dụng của chitin gặp nhiều khó   khăn.  Còn chitosan chính là sản phẩm biến tính của chitin, là một chất rắn, xốp,   nhẹ, hình vảy, có thể  xay nhỏ  thành các kích cỡ  khác nhau. Chitosan được xem là  polymer tự nhiên quan trọng nhất. Với đặc tính có thể hoà tan tốt trong môi trường  acid, chitosan được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực như thực phẩm, mỹ phẩm, dược   phẩm ... Giống   như   xenlulozo,   chitosan   là   chất   xơ,   không   giống   chất   xớ   thực   vật,  chitosan có khả năng tạo màng, có các tính chất của cấu trúc quang học ... Chitosan   có khả  năng tích điện dương do đó nó có khả  năng kết hợp với những chất tích   điện âm như chất béo, lipid và acid mật. Chitosan là polyme không độc, có khả năng phân huỷ sinh học và có tính tương   thích về mặt sinh học. Trong nhiều năm qua, các polyme có nguồn gốc từ chitin đặc  biệt là chitosan đã được chú ý đặc biệt như  là một loại vật liệu mới có ứng dụng   8
  9. đặ biệt trong công nghiệp dược, y học, xử lý nước thải và trong công nghiệp thực   phẩm như là tác nhân kết hợp, gel hoá, hay tác nhân ổn định ...  Trong các loài thuỷ sản đặc biệt là trong vỏ tôm, cua, ghẹ, hàm lượng chitin –   chitosan chiếm khá cao dao động từ 14­35% so với trọng lượng khô. Vì vậy vỏ tôm,   cua, ghẹ là nguồn nguyên liệu chính để sản xuất chitin – chitosan. Hình 1.1: Công thức cấu tạo chitin, chitosan và xenlulozo  Như hình vẽ trên, thì sự khác biệt duy nhất giữa chitonsan và cellulose là nhóm  amin (­NH2)  ở  vị  trí C2 của chitosan thay thế  nhóm hydroxyl (­OH)  ở  xenlulozo.  Chitosan tích điện dương do đó nó có khả năng liên kết hoá học với những chất tích   điện   âm   như   chất   béo,   lipit,   cholesterol,   protein   và   các   đại   phân   tử.   Chitin   và  chitosan rất có lợi ích về mặt thương mại cũng như là một nguồn vật chất tự nhiên  do tính chất đặc biệt của chúng như  tính tương thích về  mặt sinh học, khả  năng   hấp thụ, khả năng tạo màng và giữ các ion kim loại. Chitosan  và các dẫn xuất của nó có hoạt tính kháng nấm, kháng khuẩn, có khả  năng tự phân hủy sinh học cao, không gây dị ứng. Không gây độc hại cho người và   gia súc, có khả  năng tạo phức với một số kim loại chuyển tiếp như Co(II), Ni(II),   Cu(II)... do vậy chúng được  ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như: xử  lý   nước thải và bảo vệ  môi trường, dược học và y học, nông nghiệp, công nghiệp,   công nghệ sinh học.... 9
  10. Chitosan có cấu trúc đặc biệt với các nhóm amin trong mạng lưới phân tử  có  khả năng hấp phụ tạo phức với kim loại chuyển tiếp: Cu(II), Ni(II), Co(II).... trong   môi trường nước. Vì vậy chitosan đang được nghiên cứu kết hợp với một số chất   khác để ứng dụng xử lý kim loại nặng trong nước. 1.1.2. Tính chất của chitosan ­ Không độc, tính tương ứng sinh học cao và có khả  năng phân hủy sinh học   nên không gây dị   ứng và không gây phản  ứng phụ, không gây tác hại đến môi  trường. ­ Cấu trúc ổn định. ­ Tan tốt trong dung dịch acid loãng (pH
  11. Trong công nghiệp in, chitosan làm chất keo cảm quang.  Trong công nghiệp nhuộm làm tăng độ màu vải nhuộm. Trong nông nghiệp, oligochitosan làm thuốc tăng trưởng thực vật và kích thích   gây tạo kháng sinh thực vật, thuốc diệt nấm bệnh cho thực vật, gia tăng hệ số nhân   và sinh khối tươi cho cây nuôi cấy mô. Trong khoa học kỹ thuật, chitosan làm dung dịch tăng độ khuyếch đại của kính  hiển vi, xử  lý nước thải công nghiệp và sinh hoạt: thu hồi ion kim loại, protein,   phenol, thuốc trừ sâu, thuốc nhuộm...[3,16]. 1.2. Oxit sắt từ 1.2.1. Khái quát về oxit sắt từ Oxit sắt từ  có công thức hóa học Fe 3O4  là vật liệu từ  tính đầu tiên mà con  người biết đến. Từ thế kỷ IV người Trung quốc đã biết rằng Fe3O4 tìm thấy trong  các khoáng vật tự  nhiên có khả  năng định hướng theo phương Bắc ­ Nam địa lý.   Đến thế kỷ XII, họ đã sử  dụng vật liệu Fe3O4 là  la bàn, một công cụ giúp xác định  phương hướng rất có ích. Trong tự  nhiên, oxit sắt từ  không những được tìm thấy   trong khoáng vật mà nó còn được tìm thấy trong cơ thể các sinh vật như ong, kiến,   bồ  câu…Chính sự  có mặt của Fe3O4  trong cơ  thể  những sinh vật đã tạo nên khả  năng xác định phương hướng mang tính bẩm sinh của chúng. Trong phân loại vật liệu từ  Fe3O4 được xếp vào nhóm vật liệu ferit có công  thức tổng quát MO. Fe3O4 có cấu trúc spinel (M là kim loại hóa trị  II như : Fe, Ni,  Co, Mn, Mg hoặc Cu). Trong loại vật liệu ferit các ion oxy có bán kính khoảng 1.32 Å lớn hơn rất   nhiều bán kính ion kim loại ( 0,6 ÷ 0,8 Å) nên chúng có khả năng nằm rất sát nhau   và sắp xếp thành một mạng lưới có cấu trúc lập phương tâm mặt xếp khớp nhau.   Trong mạng ferit có 2 loại hốc : loại thứ  nhất là hốc tứ  diện (nhóm A) được giới   hạn bởi bốn ion oxy, loại thứ hai là hốc bát diện (nhóm B) được giới hạn bởi sáu   ion oxy. Các ion kim loại M2+ và Fe3+ sẽ nằm ở các hốc này và tạo nên hai dạng cấu   trúc spinel của nhóm vật liệu ferit. Dạng thứ  nhất, toàn bộ  các ion M2+  nằm  ở  vị  trí A còn toàn bộ  các ion Fe3+  nằm ở vị trí B. Cấu trúc này đảm bảo hóa trị của các nguyên tử  kim loại vô số các   11
  12. oxi bao quanh các ion Fe3+ và M2+ có tỷ số 3/2 nên nó được gọi là spinel thuận. cấu   trúc này được tìm thấy trong ferit ZnO.Fe2O3. Dạng thứ hai thường gặp hơn được gọi là cấu trúc spinel đảo. Trong cấu trúc   spinel đảo một nửa ion Fe3+ cùng toàn bộ ion M2+ nằm ở vị trí B, số ion Fe3+ còn lại  nằm ở các vị trí A. Oxit sắt từ Fe 3O4 ≡ FeO.Fe2O3 là một ferit có cấu trúc spinel đảo   điển hình. Tức là một nửa số ion Fe3+ chiếm hốc bát diện, nửa còn lại chiếm hốc tứ  diện, các ion Fe2+ đều chiếm hốc bát diện, chính cấu trúc spinel đảo này đã quyết  định tính chất từ của Fe3O4, đó là tính chất từ ferit từ.                                      Hinh Hình 1.2: Cấu trúc spinel của Fe3O4 Trong oxit sắt từ vì ion Fe3+ có mặt ở cả hai phân mạng với số lượng như nhau  nên bị triệt tiêu vì vậy momen từ  do Fe2+ quyết định. Trong vô số ô cơ  sở của oxit  sắt Fe3O4 các momen từ của các ion Fe2+ và sắt từ Fe3+ có sự sắp xếp khác nhau.                12
  13. Hình 1.3: Sự phân bố các momen từ spin của các ion Fe2+ và Fe3+ trong một ô   cơ sở của Fe3O4 Mỗi phân tử Fe3O4 có momen từ tổng cộng là 4µβ (µβ là magneton bohr nguyên  tử, µβ = 9,274.10­24 J/T trong hệ SI). 1.2.2. Tính chất của oxit sắt từ Một vài oxit sắt có chung cấu trúc tinh thể  với các tương đồng khoáng chất   khác nhau.  VD: goc­thie có cấu trúc giống với diaspore (α­ALOOH), quặng sắt từ  giống với spinel (MgAl2O3). Các cấu trúc của oxit sắt được xác định bởi sự sắp xếp  của các ion oxy hay hydroxide. Các ion dương chiếm các vị trí so le đối với lớp các  ion âm. Bất cứ  vật liệu nào đều có sự   ảnh hưởng với từ  trường ngoài (H), thể  hiện   bằng độ từ hóa (từ độ ­ M). Tỷ số C = M/N được gọi là độ cảm từ. Tùy thuộc vào   giá trị, độ cảm từ có thể phân ra làm các loại vật liệu từ khác nhau. Vật liệu có C  0 (~10­6) được gọi là vật  liệu thuận từ. Vật liệu có C > 0 với giá trị rất lớn có thể là vật liệu sắt từ, ferit từ. Ngoài độ  cảm từ, một số  thông số  khác cũng rất quan trọng trong việc xác   định tính chất của vật liệu. VD: từ độ bão hòa M s (từ độ đạt cực đại tại từ trường   lớn), cảm ứng từ dư Br (từ độ còn dư sau khi từ hóa đến độ bão hòa và đưa mẫu ra  khỏi từ trường), lực kháng từ Hc (từ trường ngoài cần thiết để một hệ, sau khi đạt  trạng thái bão hòa từ, bị khử từ). Nếu kích thước của hạt giảm đến một giá trị  nào đó (thông thường từ  vài   chục nanomet), phụ thuộc vào từng vật liệu cụ thể, tính sắt từ và ferit từ biến mất,  chuyển động nhiệt sẽ  thắng thế  và làm cho vật liệu trở  thành vật liệu siêu thuận  từ. Đối với vật liệu siêu thuận từ, từ dư và lực kháng từ không còn tính từ nữa, đấy   là một đặc điểm rất quan trọng khi dùng vật liệu này cho các ứng dụng. Trong tự  nhiên, sắt (Fe) là vật liệu có từ độ  bão hòa lớn nhất tại nhiệt độ  phòng, sắt không  độc đối với cơ thể người và tính ổn định khi làm việc trong môi trường không khí   nên các vật liệu như  oxit sắt được nghiên cứu rất nhiều để  làm hạt nano từ  tính   [24]. 13
  14. 1.2.3. Một số ứng dụng của oxit sắt Có thể loại bỏ Asen trong nước bằng hạt nano oxit sắt, thực nghiệm cho thấy   khi cho hạt nano oxit sắt từ với nồng độ  1g/l vào mẫu nước có chứa nồng độ  asen  là 0,1 g/l chỉ  sau một phút thì nồng độ  asen đã giảm chỉ  còn 0,0081 mg/l dưới tiêu  chuẩn của bộ y tế cho phép (0,01 mg/l ). Mới đây một nhà khoa học Nhật Bản có sáng kiến sử  dụng hạt nano từ  tính   lọc nước bằng cách cho một loài vi khuẩn chuyên ăn các chất bẩn lơ  lửng trong   nước bẩn đã được hòa tan thêm các hạt nano từ tính. Bình thường các vi khuẩn có  tác dụng “thu gom” chất bẩn. Khi đã ăn no chúng tự chìm xuống đáy (do trọng lực)  và mang theo các chất bẩn đã thu gom được. Do vậy làm cho nước trở  nên trong.  Nếu trong nước có hạt nano từ  tính thì các vi khuẩn sẽ  gom vào mình tất cả  các  chất bẩn thông thường lẫn các hạt nano. Khi đó chỉ  cần sử  dụng một nam châm   mạnh ta có thể hút các vi khuẩn này làm cho chúng chìm nhanh hơn do đó cũng làm   cho nước trong nhanh hơn. Xuất phát từ ý tưởng đó các nhà khoa học nước ta đã sử dụng kết hợp nano từ  tính Fe3O4 với Al2(SO4)3 để lọc nước, Al2(SO4)3 khi tan trong nước sẽ thủy phân tạo  thành Al(OH)3 kết tủa dạng keo. Kết tửa keo này có tác dụng như  một tấm lưới.   Khi nó lắng đọng thì các chất bẩn mắc vào nó cũng bị  kéo xuống theo, kết quả  là   làm lắng đọng chất bẩn và làm cho nước trong hơn. Khi đã kết hợp hạt nano từ tính   Fe3O4 với Al(OH)3 dưới tác dụng của từ  trường. Ngoài các hạt nano từ  tính bị  hút  xuống dưới, các hạt này đi xuống chúng kéo tấm lưới nhuộm hydroxit chuyển động   theo. Kết quả  là nhôm hydroxit lắng đọng nhanh hơn hàng chục lần so với khi   không dùng hạt nano từ tính. 1.3. Vật liệu từ tính ứng dụng xử lí nước thải Trong phương pháp hấp phụ để loại bỏ triệt để các chất ô nhiễm trong nước   thải thường sử dụng kỹ thuật hấp phụ tầng cố định với các cột có đường kính từ  0,1 đến 1,5 m và chiều cao có thể lên đến hơn 10 m. Các cột thường được nhồi các  vật liệu như than hoạt tính, zeolit... Dung dịch nước thải được dẫn lên đầu cột, khi  đi qua vật liệu hấp phụ  các chất ô nhiễm bị  giữ  lại, nước sạch được xử  lí đi ra   ngoài. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là thời gian tái sinh vật liệu hấp   phụ lâu, quá trình vận hành hay bị hiện tượng tắc cột phải nạp lại, tốn về thời gian   14
  15. và kinh phí. Đối với kĩ thuật hấp phụ  tầng động, nhiều trường hợp quá trình lắng   kéo dài làm ảnh hưởng đến tốc độ xử lí nước thải. Để khắc phục nhược điểm này,  nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu chế  tạo nhựa trao đổi ion có từ  tính và nghiên  cứu ứng dụng trong xử lí nước thải [31,32]. Khi có tác dụng của từ trường các vật   liệu hấp phụ sẽ tách ra khỏi hỗn hợp huyền phù nhanh hơn do vậy làm tăng tốc độ  quá trình xử lí và tái sinh vật liệu. Tuy nhiên, việc sử ụng vật liệu polyme tổng hợp   có thể tạo ra các monome khó phân hủy, gây ô nhiễm thứ  cấp cho môi trường. Do  đó, xu hướng xử dụng các loại polyme có sẵn trong thiên nhiên được các nhà khoa  học rất quan tâm, trong đó chitosan là vật liệu được chú ý nhiều nhất do có cấu trúc  và tính chất hóa lý đặc biệt, hoạt tính cao và khả năng lựa chọn rất tốt đối với các   hợp chất và kim loại nặng. Chính vì thế, chúng tôi đã nghiên cứu và chế tạo ra vật   liệu chitosan cố định các hạt Fe3O4 để xử lí nước thải dệt nhuộm. 1.4. Đặc tính và một số phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm 1.4.1. Đặc tính và các nguồn phát sinh nước thải dệt nhuộm Nguồn nước thải phát sinh trong công nghiệp dệt nhuộm từ  các công đoạn  hồ sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm và hoàn tất. Trong đó lượng nước thải chủ yếu do   quá trình giặt sau mỗi công đoạn. Nhu cầu sử dụng nước trong nhà máy dệt nhuộm  rất lớn và thay đổi tùy theo mặt hàng khác nhau. Theo phân tích của các chuyên gia,   lượng nước được sử  dụng trong các công đoạn sản xuất chiếm 72,3%, chủ  yếu là   từ  các công đoạn nhuộm và hoàn tất sản phẩm. Người ta có thể  tính sơ  lược nhu   cầu sử dụng nước cho 1 mét vải nằm trong phạm vi từ 12 ­65 lít và thải ra 10 ­40 lít  nước [7,8].  Đặc tính của nước thải dệt nhuộm nói chung và nước thải dệt nhuộm làng  nghề Vạn Phúc, Dương Nội nói riêng đều chứa các loại hợp chất tạo màu hữu cơ,  do đó có các chỉ  số  pH, DO, BOD, COD... rất cao (b ảng 1.1), v ượt quá tiêu chuẩn  cho phép được thải ra môi trường sinh thái (bảng 1.2). Bảng Bảng 1.1. Đặc tính nướcthải của một số cơ sở dệt nhuộm ở Hà Nội Tên nhà máy Độ pH Độ màu COD (mg/l) BOD (mg/l) Dệt Hà Nội 9 – 10 250 – 500 230 – 500 90 – 120 Dệt kim Thăng Long 8 – 12 168 443 132 Dệt nhuộm Vạn Phúc 8 – 11 750 350 – 890 120 Dệt nhuộm Dương Nội 8 – 11 750 380 – 890 106 15
  16. Bảng Bảng 1.2. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt nhuộm  Giới hạn theo QCVN 13:2015/BTNMT TT Thông số Đơn vị A B 1 Độ màu (pH=7) Pt - Co 50 150 2 Độ pH - 6-9 5,5 - 9 3 BOD ( ở 200C) mg/l 30 50 4 COD mg/l 75 150 Như  vậy, nước thải công nghiệp nói chung và nước thải ngành dệt nhuộm  nói riêng để  đạt tiêu chuẩn cho phép thải ra môi trường sinh thái cần tuân thủ  nghiêm ngặt khâu xử  lý các hóa chất gây ô nhiễm môi trường có mặt trong nước   thải sau khi sản xuất hoặc chế biến các sản phẩm công nghiệp. Các chất ô nhiễm chủ yếu có trong nước thải dệt nhuộm là các chất hữu cơ  khó phân hủy, thuốc nhuộm, chất hoạt động bề mặt, các hợp chất halogen hữu cơ,  muối trung tính làm tăng tổng hàm lượng chất rắn, nhiệt độ  cao và pH của nước  thải cao do lượng kiềm lớn. Trong đó, thuốc nhuộm là thành phần khó xử  lý nhất,   đặc biệt là thuốc nhuộm azo ­ loại thuốc nhuộm được sử dụng phổ biến nhất hiện   nay, chiếm tới 60 ­70% thị phần  [10,17]. Thông thường, các chất màu có trong thuốc  nhuộm không bám dính hết vào sợi vải trong quá trình nhuộm mà còn lại một lượng  dư nhất định tồn tại trong nước thải. Lượng thuốc nhuộm dư sau công đoạn nhuộm  có thể  lên đến 50% tổng lượng thuốc nhuộm được sử  dụng ban đầu [17,21]. Đây  chính là nguyên nhân làm cho nước thải dệt nhuộm có độ màu cao và nồng độ chất  ô nhiễm lớn. Khi đi vào nguồn nước tự  nhiên như  sông, hồ...với một lượng rất nhỏ  của   thuốc nhuộm đã cho cảm giác về màu sắc. Màu đậm của nước thải cản trở sự hấp  thụ  oxy và ánh sáng mặt trời gây tác hại cho sự  hô hấp, sinh trưởng của các loài  thủy sinh, làm tác động xấu đến khả  năng phân giải của vi sinh đối với các chất  hữu cơ  trong nước thải. Đối với cá và các loài thủy sinh, các kết quả  thử  nghiệm  trên cá của hơn 3000 loại thuốc nhuộm nằm trong tất cả  cácnhóm từ  không độc,   độc vừa, rất độc đến cực độc cho thấy có khoảng 37% loại thuốc nhuộm gây độc  cho cá và thủy sinh, khoảng 2% thuộc loại rất độc và cực độc . Đối với con người, thuốc nhuộm có thể  gây ra các bệnh về  da, đường hô  hấp, đường tiêu hóa. Ngoài ra, một số  thuốc nhuộm hoặc chất chuyển hóa của   16
  17. chúng rất độc hại có thể gây ung thư (như thuốc nhuộm Benzidin, 4 ­ amino ­ azo ­   benzen). Các nhà sản xuất Châu Âu đã cho ngừng sản xuất các loại thuốc nhuộm   này nhưng trên thực tế chúng vẫn được tìm thấy trên thị  trường do giá thành rẻ  và  hiệu quả nhuộm màu cao . 1.4.2. Các loại thuốc nhuộm thông thường Thuốc nhuộm là các hợp chất mang màu dạng hữu  cơ hoặc dạng phức của  các kim loại như Cu, Co, Ni, Cr…Tuy nhiên, hiện nay dạng phức kim loại không  còn  sử  dụng  nhiều  do  nước  thải  sau  khi  nhuộm  chứa  hàm  lượng  lớn các  kim  loại  nặng  gây  ô  nhiễm  môi  trường  nghiêm  trọng.  Thuốc  nhuộm  dạng hữu  cơ  mang màu hiện rất phổ biến trên thị trường. Tuỳ theo cấu tạo, tính chất và phạm vi sử dụng của chúng mà người ta chia  thuốc  nhuộm  thành  các  nhóm  khác  nhau.  Ở  nước  ta  hiện  nay,  thuốc  nhuộm  thương  phẩm  vẫn  chưa  được  sản  xuất,  tất  cả  các  loại  thuốc  nhuộm  đều  phải  nhập của các hãng sản xuất thuốc nhuộm trên thế giới. Có hai cách để phân loại thuốc nhuộm: ­  Phân  loại  thuốc  nhuộm  theo  cấu  trúc  hoá  học:  thuốc  nhuộm  trong cấu  trúc hoá học có nhóm azo, nhóm antraquinon, nhóm nitro,… ­ Phân loại theo lớp kỹ thuật hay phạm vi sử dụng: ưu điểm của phân loại  này  là  thuận  tiện  cho  việc  tra  cứu  và  sử  dụng,  người  ta  đã  xây  dựng  từ  điển  thuốc nhuộm. Từ điển thuốc nhuộm được sử dụng rộng rãi trên thế giới, trong đó  mỗi loại thuốc nhuộm có chung tính chất kỹ thuật được xếp trong cùng lớp như:  nhóm thuốc trực tiếp, thuốc axit, thuốc hoạt tính… Trong mỗi lớp lại xếp theo thứ  tự gam màu lần lượt từ vàng da cam, đỏ, tím, xanh lam, xanh lục, nâu và đen. Sau  đây là một số nhóm thuốc nhuộm thường dùng ở Việt Nam [2]:  Th    ốc    n hu    u     ộm    t rực     ế ti   p      Thuốc nhuộm trực tiếp hay còn gọi là thuốc nhuộm tự bắt màu là những hợp  chất màu hoà tan trong nước, có khả năng tự bắt màu vào một số vật liệu như: các  tơ  xenlulozơ,  giấy…  nhờ  các  lực  hấp  phụ  trong  môi  trường  trung  tính  hoặc  môi  trường kiềm. Tuy nhiên, khi nhuộm màu đậm thì thuốc nhuộm trực tiếp không còn  hiệu suất bắt màu cao, hơn nữa trong thành phần có chứa gốc azo (­ N=N ­ ), đây là  loại  hợp  chất  hợp  chất  hữu  cơ  độc  hại  nên  hiện  nay  loại  thuốc  này  không  còn  17
  18. được khuyến khích sử dụng nhiều. Mặc dù vậy, do thuốc nhuộm trực tiếp dễ sử  dụng và rẻ nên vẫn được đa số các cơ sở nhỏ lẻ từ các làng nghề truyền thống sử  dụng để nhuộm các loại vải, sợi dễ bắt màu như tơ, lụa, cotton...  Th    ốc    n hu    u     ộm    a x  it      Theo cấu tạo hoá học thuốc nhuộm axit đều thuộc nhóm azo, một số là dẫn  xuất  của  antraquinon, triarylmetan, xanten, azin  và quinophtalic,  một  sốcó thể tạo  phức với kim loại. Các thuốc nhuộm loại này thường sử dụng để nhuộm trực tiếp  các loại sợi động vật tức là các nhóm xơ sợi có tính bazơ như len, tơ tằm, sợi tổng  hợp polyamit trong môi trường axit.  Th    ốc    n hu    u     ộm    h o   ạ    t   t í nh    Thuốc nhuộm hoạt tính là những hợp chất màu  mà trong phân tử của chúng  có  chứa  các  nhóm  nguyên  tử  có  thể  thực  hiện  liên  kết  hoá  trị  với  vật liệu nói  chung  và  xơ  dệt  nói  riêng  trong  quá  trình  nhuộm.  Dạng  công  thức  hoá  học  tổng  quát của thuốc nhuộm hoạt tính là: S—R—T—X. Trong đó:  S: là các nhóm ­SO Na, ­COONa, ­SO CH . 3 2 3 R: phần mang màu của phân tử thuốc nhuộm, quyết định màu sắc, những gốc  mang  màu  này  thường  là  monoazo  và  diazo,  gốc  thuốc  nhuộm axit antraquinon,  hoàn nguyên đa vòng… T: nhóm nguyên tử phản  ứng, làm nhiệm vụ liên kết giữa thuốc nhuộm với  xơ và có ảnh hưởng quyết  định đến độ bền  của liên kết này, đóng vai trò quyết  định tốc độ phản ứng nucleofin. X:  nhóm  nguyên  tử  phản  ứng,  trong  quá  trình  nhuộm  nó  sẽ  tách khỏi phân  tử thuốc nhuộm, tạo điều kiện để thuốc nhuộm thực hiện phản  ứng hoá học với  xơ. Mức độ không gắn màu của thuốc nhuộm hoạt tính tương đối cao, khoảng 30  %, có chứa gốc halogen hữu cơ (hợp chất AOX) nên làm tăng tính độc khi thải ra  môi trường. Hơn nữa hợp chất này có khả năng tích luỹ sinh học, do đó gây nên tác  động tiềm ẩn cho sức khoẻ con người và động vật [29].  Th    ốc    n hu    u     ộm    b azơ       18
  19. Thuốc  nhuộm  bazơ  là  những  hợp  chất  màu  có  cấu  tạo  khác  nhau,  hầu  hết  chúng là các muối clorua, oxalat hoặc muối kép của bazơ hữu cơ.  Th    ốc    n hu    u     ộm    h o   à   n      n g   u   yên       Được  dùng  chủ  yếu  để  nhuộm chỉ,  vải,  sợi  bông,  lụa  visco.  Thuốc  nhuộm  hoàn  nguyên  phần  lớn  dựa  trên  hai  họ  màu  indigoit  và  antraquinon. Các  thuốc  nhuộm  hoàn  nguyên  thường  không  tan  trong  nước,  kiềm  nênthường  phải  sử  dụng  các  chất  khử  để  chuyển  về  dạng  tan  được  (thường  là dung dịch NaOH +  Na2S2O3 ở 50­600C). Ở dạng tan được này, thuốc nhuộm hoàn nguyên khuyếch tán  vào xơ.  Th    ốc    n hu    u     ộm    l ư u      h u   ỳ    nh       Thuốc nhuộm lưu huỳnh là những hợp chất màu  chứa nguyên tử lưu huỳnh  trong phân tử thuốc nhuộm ở các dạng  ­S­, ­S­S­, ­SO­, ­S ­. Trong nhiều trường  n hợp,  lưu  huỳnh  nằm  trong  các  dị  vòng  như:  tiazol,  tiazin,  tiantren  và  vòng  azin.  Thuốc nhuộm nhóm này rất phức tạp, đến nay vẫn chưa xác định được chính xác  cấu tạo tổng quát của chúng.  Th    ốc    n hu    u     ộm    p h   â   n      t á n      Là  những  chất  màu  không  tan  trong  nước,  phân  bố  đều  trong  nước dạng  dung  dịch  huyền  phù,  thường  được  dùng  nhuộm  xơ  kị  nước  như  xơ   axetat,  polyamit,  polyeste,  polyacrilonitrin.  Phân  tử  thuốc  nhuộm  có  cấu  tạo từ  gốc azo  (­  N=N ­) và antraquinon  có chứa  nhóm amin tự  do hoặc đã  bị thay thế  (­  NH2,  ­  NHR, NR2, ­ NH ­ CH2 ­ OH)  nên thuốc nhuộm dễ  dàng phân tán vào nước. Mức    độ  gắn  màu  của  thuốc  nhuộm  phân  tán  đạt  tỉ  lệ  cao  (90  ­ 95 %) nên nước thải  không chứa nhiều thuốc nhuộm và mang tính axit.  Th    ốc n hu    u     ộm    a zo       k h   ô   n   g      t a n      Thuốc  nhuộm  azo  không  tan  còn  có  tên  gọi  khác  như  thuốc  nhuộm lạnh,  thuốc nhuộm đá, thuốc nhuộm naptol, chúng là những hợp chất có chứa nhóm azo  trong phân tử nhưng không có mặt các nhóm có tính tan như – SO3Na, ­COONa nên  không hoà tan trong nước.  Th    ốc    n hu    u     ộm    p ig    m    e  n   t   19
  20. Pigment  là  những  hợp  chất  có  màu,  có  đặc  điểm chung  là  không  tan  trong  nước  do  phân  tử  không  chứa  các  nhóm  có  tính  tan  (­SO3H,  ­COOH) hoặc các  nhóm này bị chuyển về dạng muối bari, canxi không tan trong nước. Thuốc  nhuộm  này  phải  được  gia  công  đặc  biệt  để  khi  hoà  tan  trong nước  nóng nó phân bố trong dung dịch như một thuốc nhuộm thực sự và bắt màu lên xơ  sợi theo lực hấp phụ vật lý. 1.4.3.  Một số phương pháp xử lí nước thải dệt nhuộm Do đặc thù công nghệ, nước thải dệt nhuộm có các chỉ  số  TS, TSS, độ  màu,  COD và BOD cao, bên cạnh đó phải kể  đến một số  lượng đáng kể  các kim loại   nặng độc hại như  Cr, Cu, Co, Zn…  ở  các công đoạn khác nhau. Chính vì thế  cần  phân luồng dòng thải theo tính chất và mức độ gây ô nhiễm: dòng ô nhiễm nặng như  dịch nhuộm, dịch hồ, nước giặt đầu, dòng ô nhiễm vừa như  nước giặt  ở  các giai   đoạn trung gian, dòng ô nhiễm ít như  nước giặt cuối …để  có biện pháp xử  lý phù  hợp. Trong thực tế để đạt được hiệu quả xử lý cũng như  kinh tế, người ta không   dùng đơn lẻ mà kết hợp các phương pháp xử lý hóa lý, hóa học, sinh học, nhằm tạo   nên một quy trình xử lý hoàn chỉnh [27].  1.4.3.1.  Phương pháp keo tụ Đây là phương pháp thông dụng để  xử  lý nước thải dệt nhuộm. Nước thải  dệt nhuộm có tính chất như  một dung dịch keo với các tiểu phân có kích thước hạt  10­7 – 10­5 cm, các tiểu phân này có thể đi qua giấy lọc.  Quá trình lắng chỉ có thể  tách được các hạt rắn huyền phù nhưng không thể  tách được các chất gây ô nhiễm bẩn ở dạng keo và hòa tan, vì những hạt rắn có kích  thước quá nhỏ.Để  tách các hạt rắn đó một cách có hiệu quả, cần chuyển các tiểu   phân nhỏ  thành các tập hợp lớn hơn.Việc khử  các hạt keo đòi hỏi trước hết cần  trung hòa điện tích của chúng, tiếp đến là liên kết chúng với nhau bằng các chất  đông tụ. Các khối kết tủa bông lớn chịu ảnh hưởng của lực trọng trường bị sa lắng   xuống, trong quá trình sa lắng sẽ kéo theo các hạt lơ lửng và các hạt tạp chất khác.  Để  tăng tốc độ  keo tụ, tốc độ  sa lắng, tốc độ  nén ép các bông keo và đặc biệt để  làm giảm lượng chất keo tụ có thể  dùng thêm các chất trợ  keo, chất này có vai trò  liên kết giữa các hạt keo với nhau [1]. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2