Luận văn Thạc sĩ Khoa học Triết học: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên hiện nay (Qua khảo cứu một số cơ sở thờ tự)
lượt xem 8
download
Trên cơ sở khảo sát thực trạng một số cơ sở thờ tự tiêu biểu, luận văn đưa ra những nhận định về sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. Luận văn nêu lên giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống, khắc phục những vấn đề tồn tại trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Triết học: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên hiện nay (Qua khảo cứu một số cơ sở thờ tự)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- VŨ THỊ NGỌC TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY (QUA KHẢO CỨU MỘT SỐ CƠ SỞ THỜ TỰ) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC Hà Nội - 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------------------- VŨ THỊ NGỌC TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY (QUA KHẢO CỨU MỘT SỐ CƠ SỞ THỜ TỰ) Chuyên ngành : Triết học Mã số : 60 22 03 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Quang Hƣng Hà Nội - 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Quang Hƣng. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn đều trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học. Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2015 Tác giả luận văn Vũ Thị Ngọc
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 NỘI DUNG....................................................................................................... 8 Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU ......................... 8 1.1. Khái niệm và các hình thức tín ngƣỡng ................................................. 8 1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng .............................................................................. 8 1.1.2. Khái quát về các hình thức tín ngưỡng ................................................. 12 1.2. Khái quát về tín ngƣỡng thờ Mẫu ........................................................ 20 1.2.1. Khái niệm tín ngưỡng thờ Mẫu ............................................................. 20 1.2.2. Nguồn gốc hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu .......................................... 22 Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 26 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY QUA KHẢO CỨU MỘT SỐ CƠ SỞ THỜ TỰ .................... 28 2.1. Vài nét về tỉnh Hƣng Yên ...................................................................... 28 2.2. Cơ sở thờ tự và đối tƣợng thờ cúng ...................................................... 30 2.2.1. Cơ sở thờ tự ........................................................................................... 30 2.2.2. Đối tượng thờ cúng ............................................................................... 40 2.3. Chủ thể và thời gian thờ cúng ............................................................... 48 2.3.1. Chủ thể thờ cúng ................................................................................... 48 2.3.2. Thời gian thờ cúng ................................................................................ 49 2.4. Nghi lễ thờ cúng và hoạt động lễ hội .................................................... 50 2.4.1. Nghi lễ thờ cúng .................................................................................... 50 2.4.2. Hoạt động lễ hội .................................................................................... 55
- Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 67 Chƣơng 3: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU Ở HƢNG YÊN HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ................. 69 3.1. Nhận định và những vấn đề đặt ra trong tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Hƣng Yên hiện nay .................................................................................................. 69 3.1.1. Nhận định về thực trạng tín ngưỡng thờ Mẫu ...................................... 69 3.1.2. Những vấn đề đặt ra trong tín ngưỡng thờ Mẫu ................................... 72 3.2. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống trong tín ngƣỡng thờ Mẫu ở Hƣng Yên hiện nay ...................................... 75 3.2.1. Giải pháp chung .................................................................................... 75 3.2.2. Giải pháp cụ thể .................................................................................... 83 Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 88 KẾT LUẬN .................................................................................................... 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92 PHỤ LỤC ....................................................................................................... 98
- MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong lịch sử văn hóa dân tộc, đã có một thời gian dài tín ngưỡng thờ Mẫu bị xem nhẹ, thậm chí còn bị khoác cho cái áo mê tín dị đoan. Nhưng từ năm 1990, với sự ra đời của Nghị quyết số 24-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới - dấu mốc mở đầu cho bước ngoặt phát triển về nhận thức vấn đề tôn giáo ở nước ta, vị trí của tín ngưỡng thờ Mẫu đã được khẳng định: hầu như mọi tôn giáo lớn đều được du nhập từ bên ngoài vào, chỉ riêng tục thờ Mẫu được coi là một trục chính của tín ngưỡng dân gian, đã tồn tại hàng nghìn năm như một đối trọng về mặt tâm linh với các tôn giáo bên ngoài, để ta vẫn là ta, góp phần bảo tồn một bản sắc văn hóa dân tộc muôn đời, muôn thủa. Tín ngưỡng thờ Mẫu phát triển theo sự phong phú, đa dạng của tín ngưỡng dân gian mà không theo một quy luật định sẵn nào. Tín ngưỡng thờ Mẫu được bảo tồn qua lễ hội, niềm tin và đời sống tâm linh để tồn tại lâu dài trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu gần gũi với thiên nhiên, đất trời, gắn với thân phận người phụ nữ Việt Nam. “Mẫu” là hình tượng, một biểu trưng và là sự kết tinh sống động của đời sống văn hóa tinh thần dân tộc ta. Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên nói riêng đã trở thành một bộ phận, một yếu tố không thể thiếu để cấu thành nên bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc. Hưng Yên là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng. Nhắc tới Hưng Yên là nói đến vùng đất nghìn năm văn hiến với Phố Hiến - một thành thị phát triển bậc nhất trong lịch sử dân tộc vào thế kỷ XV - XVI:“Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Hưng Yên có truyền thống lịch sử oai hùng, luôn đóng góp sức mình trong từng bước tiến của dân tộc với những tên tuổi được vinh danh như: Phạm Bạch Hổ, Lê Như Hổ, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh… Và cũng là vùng đất 1
- có truyền thống văn hóa lâu đời với sự phong phú, đa dạng của nhiều hình thức tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau. Cụ thể như: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và các loại hình tín ngưỡng dân gian, đặc biệt phải kể đến tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Hưng Yên thì tín ngưỡng thờ Mẫu có một vị trí quan trọng trong đời sống cư dân nơi đây. Nó thể hiện ở số lượng lớn đền thờ Mẫu với hoạt động sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu diễn ra hàng năm luôn được cư dân trong và ngoài tỉnh rất quan tâm. Ngày nay, trong quá trình hội nhập quốc tế, văn hóa Việt được giao lưu, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các quốc gia trên toàn thế giới, chúng ta có cơ hội tiếp thu có chọn lọc những nền văn hóa tiến bộ, có điều kiện để quảng bá và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, song song với đó là vấn đề bảo tồn nền văn hóa truyền thống, giữ gìn và tôn tạo bản sắc văn hóa dân tộc cần được chú trọng hơn cả. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Do đó, để góp phần vào vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta cần bảo tồn và phát huy các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và tín ngưỡng dân gian nói riêng, tiêu biểu là tín ngưỡng thờ Mẫu. Đặc biệt, vào giai đoạn hiện nay, hồ sơ “Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt” đang trong quá trình bổ sung và hoàn thiện để đệ trình lên Ủy ban Di sản thế giới UNESCO (UNESCO) xét đăng ký vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại 2016. Vì vậy, vấn đề bảo tồn, gìn giữ và phát huy tín ngưỡng thờ Mẫu càng trở nên cấp thiết hơn cả. 2
- Với những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên hiện nay (Qua khảo cứu một số cơ sở thờ tự)” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Trong lịch sử nghiên cứu, đã có rất nhiều đề tài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu với nhiều khía cạnh khác nhau. Tiêu biểu như một số công trình nghiên cứu sau: - “Các nữ thần Việt Nam” (1984) của Đỗ Thị Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc cũng đã cung cấp rất nhiều thông tin về hệ thống các Nữ thần ở Việt Nam. Theo đó, các tác giả chia Nữ thần ở Việt Nam thành các Nữ thần trong thần thoại, Nữ thần của các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các Chư Thần. - Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh là một trong những tác giả có nhiều công trình sâu sắc về tín ngưỡng thờ Mẫu như: “Đạo Mẫu” (1994) được tái bản bốn lần, lần tái bản thứ tư năm 2012 mang tên “Đạo Mẫu Việt Nam”. Trong tác phẩm này, tác giả xây dựng hệ thống thờ Mẫu với ba cấp độ: thờ Nữ thần, Mẫu thần, và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ, sự tác động và chuyển hóa giữa chúng; khái quát ba dạng thức thờ Mẫu tiêu biểu cho Bắc, Trung và Nam với các đặc trưng địa phương của chúng; nghiên cứu một số vị Thánh Mẫu tiêu biểu. Tác phẩm có sự nghiên cứu sâu sắc hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu ở cả ba miền của đất nước, bên cạnh đó cũng nêu lên ảnh hưởng của môi trường xã hội, lịch sử và văn hóa tới hiện tượng Đạo Mẫu. “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” (2001) do Ngô Đức Thịnh chủ biên. Công trình này đi sâu vào nghiên cứu sáu loại hình tín ngưỡng dân gian tiêu biểu là thờ cúng tổ tiên, thờ Thành Hoàng làng, thờ Chử Đồng Tử, thờ Đức Thánh Trần, tín ngưỡng nghề nghiệp và tín ngưỡng thờ Mẫu (tác giả gọi là Đạo Mẫu). Đồng thời, tác giả còn cho thấy mối quan hệ giữa tín ngưỡng dân gian và văn hóa dân gian; phân biệt các mặt giá trị và phản giá trị của tôn giáo tín ngưỡng, giúp cho việc nhận thức và chế định các 3
- chính sách đối với tôn giáo tín ngưỡng cũng như sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc hiện nay. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu được trình bày trong công trình này chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa. Theo đó, tác giả trình bày những yếu tố cấu thành của tín ngưỡng thờ Mẫu có liên quan nhiều đến văn hóa như: điện thờ, lễ hội và nghi lễ cơ bản. “Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á” (2004) Ngô Đức Thịnh (Chủ biên). Ở đây, tác giả đã tiếp cận hiện tượng tín ngưỡng này chủ yếu dưới góc độ văn hóa và phần nào cũng chỉ ra được phương diện tín ngưỡng tôn giáo. Tác giả đưa ra những luận chứng khẳng định tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam đã trở thành Đạo Mẫu. - Công trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (tái bản có sửa chữa, bổ sung) (2001) của Vũ Ngọc Khánh có viết về các tín ngưỡng dân gian Việt Nam hiện nay, trong đó có cả tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ, nhưng không nghiên cứu sâu từng loại hình tín ngưỡng mà chỉ nêu khái quát từng loại hình tín ngưỡng dân gian. - “Văn hóa Thánh Mẫu” của Đặng Văn Lung (2004) đã nghiên cứu sâu sắc vấn đề “Mẫu” nên đưa ra rất nhiều tư liệu về các “Mẫu”. Tuy nhiên, tác phẩm lại được viết dưới góc độ văn hóa, văn học và lịch sử mà không xét dưới góc độ tín ngưỡng và tôn giáo. - Năm 2005, công trình “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” do Nguyễn Đức Lữ (chủ biên) cũng viết về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, nhưng chỉ đề cập đến khái niệm thờ Mẫu, khái lược về điện thờ và nghi lễ Hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu, chưa đi sâu vào nguồn gốc, vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam. - “Tín ngưỡng thờ nữ thần vùng ven sông Hương ở Huế” (2010) của Dương Hải Vân đã xác định các đặc điểm, vai trò của tín ngưỡng thờ Nữ thần trong đời sống hiện nay, đề ra các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của tín ngưỡng thờ Nữ thần. Cụ thể, tác giả đi vào tìm hiểu những tiền đề hình 4
- thành tín ngưỡng thờ Nữ thần; nhận diện, hệ thống các Nữ thần hiện diện ở vùng ven sông Hương tại Huế; trên cơ sở đó, tiến hành phân tích, đánh giá, rút ra đặc điểm của tín ngưỡng thờ Nữ thần ở vùng đất này. Đồng thời chỉ ra được những giá trị và hạn chế, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị của nó. - “Khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ” (2013) của Nguyễn Hữu Thụ đi vào nghiên cứu những vấn đề triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu. Ngoài việc khái quát được những nội dung cơ bản liên quan đến tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả còn đi sâu vào nghiên cứu và chỉ ra những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt với việc làm rõ cơ sở ra đời, những quan niệm về thế giới, con người, về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và xã hội. Từ đó, tác giả đã chỉ ra những xu hướng biến đổi trong tín ngưỡng Thờ Mẫu và bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực và khắc phục những vấn đề tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ. Về văn hóa tỉnh Hưng Yên cũng có một số công trình nghiên cứu như: Các tư liệu do Bảo tàng tỉnh biên soạn: “Lý lịch di tích đền Ghênh Văn Lâm - Hưng Yên”; “Lý lịch di tích đền Mẫu phường Quang Trung - thị xã Hưng Yên”; “Lý lịch di tích đền Thiên Hậu phường Quang Trung - thị xã Hưng Yên”; “Tư liệu Hán nôm đền Mẫu”; “Tư liệu Hán nôm đền Thiên Hậu”; Cuốn: “Di tích lịch sử - văn hoá đền Mẫu” của Hoàng Mạnh Thắng; “Di tích lịch sử - văn hóa Hưng Yên” của Phạm Trung Hiếu và “Hưng Yên vùng phù sa văn hóa” của Nguyễn Phúc Lai… Các công trình này chỉ mang tính giới thiệu chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu tín ngưỡng thờ đạo Mẫu ở Hưng Yên. Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ mẫu cũng như văn hóa của tỉnh Hưng Yên, nhưng chưa có công trình đi sâu nghiên cứu một cách có hệ thống về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. Do đó, tôi muốn cụ thể hóa vấn đề trên bằng luận văn thạc sĩ chuyên ngành 5
- Triết học “Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên hiện nay (Qua khảo cứu một số cơ sở thờ tự)”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Trên cơ sở khảo sát thực trạng một số cơ sở thờ tự tiêu biểu, luận văn đưa ra những nhận định về sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. Đồng thời, nêu lên giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống, khắc phục những vấn đề tồn tại trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung. Nhiệm vụ: - Phân tích khái niệm, nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu. - Khảo cứu một số đền thờ Mẫu tiêu biểu và rút ra nhận xét, đánh giá về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống và khắc phục những vấn đề tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên Phạm vi nghiên cứu: Một số cơ sở thờ tự tiêu biểu ở Hưng Yên: đền Ghênh, đền Mẫu, đền Thiên Hậu, đền Bảo Châu. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam theo diễn tiến của thời gian có ba lớp: thờ Nữ thần; Mẫu thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ. Ở Hưng Yên, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng phát triển theo xu hướng đó. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan nên trong luận văn tác giả chỉ chọn khảo cứu các cơ sở thờ tự có đối tượng thờ cúng ở lớp nghĩa thứ hai (Mẫu thần) với bốn đền thờ tương đối tiêu biểu: đền Ghênh, đền Mẫu, đền Thiên Hậu và đền Bảo Châu. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp 6
- luật của Nhà Nước về văn hóa tín ngưỡng, tôn giáo… làm cơ sở lý luận chung cho toàn luận văn. Phương pháp nghiên cứu: Bên cạnh phương pháp chuyên ngành: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra,luận văn còn sử dụng các phương pháp liên ngành như: phương pháp điền dã, hệ thống, phân tích và tổng hợp, so sánh, lịch sử cụ thể… để đạt mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà luận văn đã đặt ra. 6. Đóng góp của luận văn - Luận văn đưa ra nhận xét, đánh giá về thực trạng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. - Đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy các giá trị tích cực và khắc phục những vấn đề tồn tại của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: - Luận văn góp phần nhận diện tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên với thực trạng của nó. - Luận văn giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Hưng Yên, từ đó nhận thức được vai trò của cá nhân trong việc góp phần vào quá trình xây dựng văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho trường Chính trị, ban Tuyên giáo các huyện, những người làm công tác quản lý văn hóa và độc giả quan tâm đến vấn đề văn hóa tín ngưỡng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. 7
- NỘI DUNG Chƣơng 1: KHÁI LƢỢC VỀ TÍN NGƢỠNG THỜ MẪU 1.1. Khái niệm và các hình thức tín ngƣỡng 1.1.1. Khái niệm tín ngưỡng Tín ngưỡng là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng lịch sử thuộc lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội. Có rất nhiều cách tiếp cận khái niệm tín ngưỡng nhưng tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu cũng như mục đích nghiên cứu. Chủ nghĩa duy tâm khách quan cho rằng: Tín ngưỡng, tôn giáo là một sức mạnh thần bí, thuộc lĩnh vực “tinh thần” tồn tại vĩnh hằng, là cái chủ yếu đem lại sinh khí, sức mạnh cho con người. Đại diện cho trường phái này là Platon, Hegel… Đối với các nhà thần học, tiêu biểu là Thomas Aquinas xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người thoát khỏi khổ đau và có được hạnh phúc, sự bình yên. Ở Việt Nam, khái niệm tín ngưỡng cũng được đưa ra với nhiều cách diễn đạt khác nhau: Theo từ điển tiếng Việt thì tín ngưỡng là “niềm tin theo một tôn giáo nào đó”. Mỗi tín đồ của một tôn giáo nào đó đều có niềm tin riêng của mình. Điều 70 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều có quyền bình đẳng trước pháp luật”. Trong Hán - Việt từ điển, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa. Các học giả như Toan Ánh, Phan Kế Bính… Xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc Việt Nam. 8
- Có ý kiến thì cho rằng nội hàm cơ bản của tín ngưỡng là “Lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó - một lực lượng siêu thực, hư ảo, vô hình” [47, tr. 6]. Nguyễn Chính coi tín ngưỡng là tâm linh, vì tín ngưỡng và tâm linh là hạt nhân của tín ngưỡng tôn giáo. Đây là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được. Một nhà nghiên cứu khác đã viết: “Tín ngưỡng nếu hiểu theo nguyên nghĩa dịch từ chữ Croyance của tiếng Pháp, thì chỉ có nghĩa là sự tin vào một điều gì đó, và thông thường hay được dùng để chỉ một niềm tin tôn giáo (Croyance religieuse)” [62, tr. 50]. Cũng theo tác giả này thì “tín ngưỡng”, nếu xét về mặt ngữ nghĩa, chỉ là một niềm tin tôn giáo; còn những dạng thức sinh hoạt tâm linh mà chúng ta thường gọi là “tín ngưỡng”, tức là những dạng thức tôn giáo chưa đạt tới cấp độ của một tôn giáo hiểu theo nghĩa cấu thành của nó thì các nhà tôn giáo học thường dùng với thuật ngữ là “sự thờ cúng” hay “sự thờ phụng”, dịch từ chữ Culte của tiếng Pháp hay chữ Whorship của tiếng Anh. Tín ngưỡng là một hình thái ý thức xã hội, là một nhu cầu của xã hội và “một khi những nhu cầu ấy chưa được những hình thái của ý thức xã hội hoàn toàn thỏa mãn thì đối với một số tầng lớp xã hội, tôn giáo - tín ngưỡng vẫn là nguồn gốc của giá trị, niềm an ủi, sự nâng đỡ về tâm lý…” [74, tr.12]. Trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, tại chương I, điều 3 có quy định: Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức, xã hội [3, tr. 10]. Theo đó, tín ngưỡng có hai nghĩa rộng và hẹp. Nghĩa rộng, tín ngưỡng chỉ niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người về một lực lượng, một chủ 9
- thuyết, nhưng thường được hiểu là niềm tin vào một lực lượng siêu nhiên có khả năng chi phối, thậm chí quyết định số phận của con người. Đó là tín ngưỡng có tính tôn giáo. Như vậy, tín ngưỡng là chỉ niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một lực lượng siêu nhiên nào đó. Nghĩa hẹp, tín ngưỡng là chỉ một niềm tin. Đó là yếu tố quan trọng nhất cấu thành của ý thức tôn giáo. Do vậy, có thể quan niệm tín ngưỡng như sau: Tín ngưỡng là một bộ phận của ý thức xã hội, là một yếu tố thuộc lĩnh vực đời sống tinh thần, là hệ quả của các quan hệ xã hội, được hình thành bởi quá trình lịch sử - văn hóa, là biểu hiện của sự biết ơn với người có công và sự thể hiện niềm tin dưới dạng tâm lý xã hội vào cái thiêng liêng thông qua hệ thống lễ nghi thờ cúng của con người và cộng đồng người trong xã hội. Ở nước ta, khi đề cập tới vấn đề tín ngưỡng thường đồng nhất với tín ngưỡng dân gian. Tín ngưỡng dân gian và các hình thức biểu hiện phong phú trong đời sống tâm linh người Việt, là một nội dung nổi bật của tín ngưỡng Việt Nam. Tín ngưỡng dân gian là một loại hình sinh hoạt tinh thần đã ra đời và phát triển rộng khắp trong các cộng đồng dân cư. Ngay từ khi xã hội loài người xuất hiện thì tín ngưỡng dân gian đã bắt đầu phôi thai. Trong cuộc sống của mình, con người ở thời kỳ đầu chưa thể hiểu được các hiện tượng tự nhiên, không biết được quy luật vận động và biến đổi của tự nhiên nên họ đã cho tất cả các hiện tượng ấy đều do thần linh tạo ra. Vì vậy, họ đã thờ cúng thần linh, cầu mong sự che chở của thần linh. Hơn nữa, sự bất công, bất bình đẳng trong đời sống xã hội đã khiến nhiều người phải chịu cảnh khốn cùng, khổ đau, lo âu và sợ sệt. Trước tình cảnh ấy, họ không còn cách nào khác là cầu xin sự ban ơn, cứu rỗi và sự che chở của các lực lượng siêu nhiên, của thần linh, Thượng đế. Chính vì thế mà tín ngưỡng dân gian đã hình thành. 10
- Khái niệm tín ngưỡng dân gian dùng để chỉ những loại hình tín ngưỡng đã xuất hiện từ lâu đời trong lịch sử người Việt như tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ thần nông nghiệp, tín ngưỡng thờ Nữ thần… Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này. Theo Phạm Ngọc Quang: Tín ngưỡng dân gian cũng có thể và cần được xem là một yếu tố, một bộ phận văn hóa dân gian. Từ quan niệm đó, nếu văn hóa dân gian được hiểu là loại hình văn hóa ra đời nhờ sự sáng tạo của chính nhân dân, thì tín ngưỡng dân gian cũng có thể xem là loại hình tín ngưỡng tôn giáo do chính nhân dân, trước hết là những người lao động, sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình [47, tr. 8]. Tín ngưỡng dân gian còn phản ánh những ước nguyện tâm linh của con người và cả cộng đồng, là niềm tin vào thần linh thông qua những nghi lễ, gắn liền với phong tục tập quán truyền thống. Tín ngưỡng dân gian được hiểu là loại hình tín ngưỡng ra đời từ rất sớm trong lịch sử, tồn tại chủ yếu ở cộng đồng làng xã, có khả năng tự biến đổi theo hoàn cảnh bởi sự bổ sung những tri thức mang tính trực quan, đời thường của những người lao động (trước hết là nông dân) trong quá trình sinh sống, sản xuất và thường gắn liền với các hoạt động sinh hoạt văn hóa, phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư [76, tr. 28]. Như vậy, tín ngưỡng dân gian là lòng ngưỡng mộ, tin tưởng của con người đối với các lực lượng siêu nhiên nào đấy. Người ta tin rằng, các lực lượng siêu nhiên này có năng lực ban ơn, giáng họa, có khả năng che chở cho con người. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngưỡng mộ của các thế hệ sau đối với tiền thân, tiền nhân. Tín ngưỡng dân gian khá phong phú, nó là tâm thức tôn sùng các lực lượng siêu nhiên như: 11
- - Tôn sùng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng, nước, mưa, gió, sấm, chớp…), các loại cây trồng (bầu bí, lúa, ngô, đậu…), vật nuôi (trâu, bò, lợn…). - Tôn sùng vật tổ (vật tổ chim, cá, cây, trâu…), tôn sùng tổ tiên (quốc tổ, thành hoàng, tổ tiên, ông bà). - Tôn sùng sự sinh sản: sinh thực khí và các hoạt động tính giao. - Tôn sùng Mẫu: các Nữ thần, tứ Mẫu (thiên phủ, địa phủ, nhạc phủ (thượng ngàn), thủy phủ (mẫu thoải), Bà chúa xứ và Thiên Yana… - Tôn sùng các anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có công lớn với dân với nước: Thánh Gióng, đức Thánh Trần, Tản Viên Sơn Thánh, Bà Trưng, Lý Ông Trọng… Từ tâm thức sùng bái đó, trong các cộng đồng hình thành các phong tục tập quán và nghi lễ thờ cúng tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu và nghi lễ phồn thực. Đó là những nghi lễ và phong tục rất quen thuộc đối với người Việt khắp nơi trong cả nước. Mỗi loại tín ngưỡng này đều có nguồn gốc sâu xa từ quan hệ giữa con người với các đối tượng siêu nhiên kia. Chẳng hạn, tại sao con người lại sùng bái tự nhiên? Là bởi trong sinh hoạt và lao động, hàng ngày hàng giờ tự nhiên gắn bó mật thiết và chi phối sự thành - bại, tốt - xấu, hay - dở trong hoạt động của con người. Nó nảy sinh sự sợ hãi hay e ngại, tâm lí ngưỡng mộ hay sùng bái, cũng từ đó con người nhìn nhận tự nhiên như những đấng linh thiêng, thần thánh. Con người đưa tự nhiên vào bàn thờ các gia đình hay trong miếu điện. Tự nhiên thành biểu tượng trong tín ngưỡng thờ cúng, trong văn hóa mỗi dân tộc, trong văn học và nghệ thuật nhiều thời đại. Đó cũng là con đường chung để các tín ngưỡng thẩm thấu vào văn hóa hay sinh hoạt cộng đồng nhiều dân tộc trên thế giới mà không phải chỉ riêng ở Việt Nam. 1.1.2. Khái quát về các hình thức tín ngưỡng Tín ngưỡng Việt Nam được biểu hiện với nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Dưới đây là một số hình thức tín ngưỡng phổ biến trong đời sống tâm linh người dân Việt: 12
- Tín ngưỡng phồn thực bao hàm tính phổ quát rộng lớn trong kho tàng tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam. Với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, các biểu tượng âm - dương, đất - trời, non - nước là những nhân tố chính tạo nên sự sinh sôi nảy nở của vạn vật, tất cả quyện hòa giữa sinh khí tự nhiên để tồn tại và phát triển. Trong mọi thời đại, con người vẫn có ước nguyện được tìm hiểu, nắm bắt mọi điều về thế giới xung quanh. Thực tiễn đó đã hình thành nên hệ thống tín ngưỡng đa dạng và phong phú, trong đó có tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thể hiện niềm tin của con người trong nguyện cầu được sinh sôi nảy nở, phát triển giống nòi, ước mong được sản xuất phồn thịnh, mùa màng được bội thu. Nhân gian xưa còn quan niệm qua trực giác, năng lượng thiêng liêng được tích tụ trong thiên nhiên hay trong bản thân mỗi người có khả năng chuyển sang vật nuôi và cây trồng. Bởi vậy, tín ngưỡng phồn thực với nhiều nghi thức thờ cúng trong dân gian ngày càng phát triển. Tín ngưỡng phồn thực là tín ngưỡng bản địa của các nước nông nghiệp. Phồn nghĩa là nhiều; Thực là sinh sôi nảy nở. Tín ngưỡng phồn thực được thể hiện qua sự tôn sùng sinh sản và hoạt động tính giao. Tín ngưỡng này ra đời từ rất cổ, khi con người từ chỗ không hiểu hoặc hiểu sai về nguyên nhân sinh sản đến chỗ bắt đầu hiểu được nguồn gốc sinh sản của muôn vật và loài người là sự kết hợp đực - cái, nam - nữ, âm - dương… Sự sinh sản ấy của vạn vật khiến cuộc sống no đủ, con người dần lấp đầy mặt đất, đông đúc vui vẻ. Sự sinh sản vì vậy trở nên linh thiêng, và phát hiện ra nguyên nhân chính xác của sự sinh sản là một phát hiện mới mẻ tuyệt vời khiến con người sùng bái. Từ đó nó được thể hiện ra trong các hoạt động văn hóa theo hai phương thức: nghi lễ thờ cúng sinh thực khí nam nữ và tôn sùng hoạt động tính giao. Tín ngưỡng đó thể hiện trong tín hiệu, biểu tượng: âm - dương; trời - đất; tròn - vuông; chẵn - lẻ; quả phết - lỗ phết; bánh chưng (tét) - bánh giày; mo cau - cái dùi, cái cối - cái chày… Những biểu tượng này đã đi vào nghệ thuật bằng hình chạm khắc các ngẫu tượng bằng đá hay bằng gỗ; có mặt trong các trò 13
- chơi dân gian như trò trám, trò rước nõ nường, đánh phết, ném còn; đi vào văn học dân gian với thần thoại về các cặp đôi Nam - Nữ thần như Nữ Oa - Tứ Tượng, Ông Đùng - Bà Đà, Ông Đực - Mụ Cái, Ông Thu Tha - Bà Thu Thiên mà các sinh thực khí được đặc tả và phóng đại. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của dân tộc ta. “Thờ tổ tiên của người Việt theo nghĩa rộng là thờ thần linh bốn cấp: Nước (Vua Hùng) - Làng (thần làng, đặc biệt là thần hoàng làng) - Dòng họ (tổ họ) - Gia đình tổ tiên (3 đời hoặc 5 đời). Hoặc ba cấp: Nước - Làng - Gia đình. Thờ thần linh bốn cấp thường thấy ở khu vực Miền Bắc, nhất là vùng Đồng bằng Bắc bộ, nơi người kinh có sự định cư lâu dài. Thờ thần linh ba cấp thường thấy ở những vùng người kinh mới khai khẩn và lập nghiệp như các vùng ở khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và một phần nào đó ở Nam bộ” [21, tr. 39]. Tổ tiên theo nghĩa hẹp là những người cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ… là người đã sinh ra mình: Con người có tổ có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn. Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức đặc biệt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, là một trong các thành tố tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị: tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi… Tín ngưỡng này hình thành với vai trò to lớn của Nho giáo. Từ căn bản, quan niệm duy lý của Nho giáo về siêu hình là công nhận có linh hồn, có quỷ thần, nhưng không đặt nặng trọng tâm suy tư vào đấy, kính quỷ thần mà xa ra. Thế mà chuyển sang sinh hoạt thì lại thờ người chết như đối với người sống (sự tử như sự sinh) tức là coi người chết như vẫn còn hiện diện trước mặt với đầy đủ ý thức tâm tình của người sống và nhất là có khả năng làm được nhiều 14
- điều mà người sống bị hạn chế. Hình thái biến đổi cao nhất của tục thờ cúng tổ tiên là những người đại biểu cho Nho Giáo, hay dùng Nho Giáo làm căn bản xây dựng hệ thống quyền lực cai trị, đã chủ trương việc tôn vinh những người có công, có đức lúc sống bằng việc ban tên thụy, tế lễ long trọng trong dịp tang ma, ban tiền bạc, ruộng tế để con cháu thờ phụng. Không thể nói đó là thủ đoạn chính trị để mua sự trung thành của bề tôi, mà phải nghĩ rằng chính triều đình cũng chia sẻ một đức tin vong hồn của những bề tôi vẫn luôn luôn ở cạnh để vẫn giúp vua như lúc sinh tiền. Nói đến đạo Nho thì phải nói đến chữ Hiếu. Con thờ cha mẹ không những lúc đang sống, mà ngay khi một vị quan dù lớn trong triều đình mà gặp tang cha mẹ, cũng phải xin nghỉ để cư tang, có khi còn làm túp lều bên cạnh mộ để gần gũi vong hồn mới mất của cha mẹ. Ngày nay chúng ta coi là cổ hủ vì chỉ nhìn ở hiện tượng; nhưng thực ra đó cũng xem rất giống như đầu mối của tục thờ ma của một số bộ tộc còn sinh sống gần đây trên các vùng thượng du hay cao nguyên, là khi người thân chết, họ đặt vào áo quan làm bằng một thân cây đục rỗng, dựng ở góc nhà, như thế để sớm hôm ra vào vẫn như còn gần gũi như lúc còn sống. Một thời gian lâu sau mới đem chôn. Quan niệm người chết đi sang một thế giới khác vẫn sinh hoạt như khi còn sinh tiền tuy có thể thay đổi vị thế, nên thân nhân phải lo cho người chết đầy đủ để cuộc sống ở thế giới mới không gặp khó khăn, thiếu thốn. Việc tùy táng do đấy có tính chất phổ quát không chỉ ở dân tộc Việt Nam, mà còn có ở nhiều dân tộc khác trên thế giới từ rất lâu đời vẫn còn tồn tại đến ngày nay, dù đã có vài thay đổi về chi tiết. Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong các gia đình người dân Việt thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn thờ bà Cô, ông Mãnh là những người thân thích, chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh thiêng. Hầu hết các gia đình người Việt đều thờ cúng ông bà, tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Ảnh hưởng của văn học dân gian đối với thơ Tản Đà, Trần Tuấn Khải
26 p | 789 | 100
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tô màu đồ thị và ứng dụng
24 p | 493 | 83
-
Luận văn thạc sĩ khoa học: Hệ thống Mimo-Ofdm và khả năng ứng dụng trong thông tin di động
152 p | 328 | 82
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán màu và ứng dụng giải toán sơ cấp
25 p | 372 | 74
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán đếm nâng cao trong tổ hợp và ứng dụng
26 p | 414 | 72
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Nghiên cứu thành phần hóa học của lá cây sống đời ở Quãng Ngãi
12 p | 544 | 61
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu vấn đề an ninh mạng máy tính không dây
26 p | 517 | 60
-
Luận văn thạc sĩ khoa học Giáo dục: Biện pháp rèn luyện kỹ năng sử dụng câu hỏi trong dạy học cho sinh viên khoa sư phạm trường ĐH Tây Nguyên
206 p | 301 | 60
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán tìm đường ngắn nhất và ứng dụng
24 p | 344 | 55
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bất đẳng thức lượng giác dạng không đối xứng trong tam giác
26 p | 313 | 46
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa của ngôn ngữ “chat” trong giới trẻ hiện nay
26 p | 322 | 40
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học: Bài toán ghép căp và ứng dụng
24 p | 265 | 33
-
Tóm tắt luận văn thạc sĩ khoa học xã hội và nhân văn: Phật giáo tại Đà Nẵng - quá khứ hiện tại và xu hướng vận động
26 p | 236 | 22
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu ảnh hưởng của quản trị vốn luân chuyển đến tỷ suất lợi nhuận của các Công ty cổ phần ngành vận tải niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam
26 p | 287 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Thế giới biểu tượng trong văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư
26 p | 250 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Đặc điểm ngôn ngữ của báo Hoa Học Trò
26 p | 215 | 13
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn: Ngôn ngữ Trường thơ loạn Bình Định
26 p | 194 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Khoa học giáo dục: Tích hợp nội dung giáo dục biến đổi khí hậu trong dạy học môn Hóa học lớp 10 trường trung học phổ thông
119 p | 5 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn